← Quay lại trang sách

Chương 28

Không thể tưởng tượng được là con người có thể tàn bạo đến như vậy, khi không có cái ăn.

Nguyễn Hữu Hà, anh ruột Nguyễn Hữu Trí, một sĩ quan quân đội Sài Gòn, cải tạo cùng với Bảy Tánh. Khi về cù lao, ông không dễ dàng thích nghi như Bảy Tánh. Ông không chịu được sự lạc hậu và ấu trĩ của đất nước. Ông không thể chấp nhận một đất nước nông nghiệp giàu có và trù phú mà mỗi tháng chỉ được mua có vài ký đường, ít bột ngọt và mười ba ký lương thực. Lịch sử miền Nam kể từ những người dân di thực từ miền Trung và miền Bắc vào đây, suốt ba trăm năm qua chưa bao giờ lại có cuộc sống tồi tệ như vậy!

Ra tù, ở nhà Nguyễn Trí một thời gian, ông nhận ra đứa em của mình thật ngây thơ. Trí hồ hởi đón nhận cuộc sống mới với lòng nhiệt tình của tuổi trẻ. Sau thời gian âm thầm móc nối và chuẩn bị, ông Hà kéo thầy Trí vào buồng và nói:

- Chúng ta phải vượt biên thôi em ạ!

- Tại sao phải bỏ nước ra đi, khi mà điều chúng ta mong đợi đã đến, một đất nước hòa bình, một dân tộc tự do, không còn chết chóc.

- Đúng! Đó là điều chúng ta mong đợi, nhưng anh mong đợi một cuộc sống ổn định và một xã hội công bằng. Anh không ngờ nó quá tệ như vậy. Các thầy giáo, những trí thức của đất nước như em mà hàng tháng tranh giành nhau cái lốp xe đạp theo phân phối. Các cô giáo hàng tháng được phát hai tấc vải mùng để làm băng vệ sinh, xài xong giặt phơi và để dành các tháng còn lại may mùng để ngủ, anh chưa thấy ở đâu trên thế giới này, con người sống nhục nhã như thế?

- Anh Hà, anh quá cực đoan, chuyện cá nhân là chuyện nhỏ, để xây dựng xã hội mới, con người phải hy sinh quyền lợi cá nhân.

- Anh đành chịu, không hiểu nỗi lý luận của em, nhưng thôi em ở lại với lý tưởng của em, anh đi đây. Nếu em có suy nghĩ lại thì tối em đến bờ sông nhé. Anh đã chuẩn bị tất cả.

- Cám ơn anh. Em ghi nhận chân tình của anh, nhưng mỗi người chọn con đường của mình đi. Chúc anh thượng lộ bình an.

Đêm ấy, đám mây màu đen kéo ngang mặt trăng. Nguyễn Trí cảm thấy lo lắng khi nghĩ về người anh của mình, đang lênh đênh giữa biển khơi mênh mông.

Đúng như lo lắng của thầy Trí, cơn bão bất ngờ ập đến, chiếc thuyền vượt biên mỏng manh, dồi lên sập xuống như chiếc nón lá rách giữa cơn bão. Cuối cùng nó rách bươm, cũng may chiếc thuyền được con sóng quăng lên bờ của một hòn đảo hoang. Đoàn người lóp ngóp tỉnh dậy, giữa đảo hoang toàn đá là đá. Họ bò vào hang, ướt, lạnh, run cầm cập. Họ nhìn nhau, không ai có lửa, không ai chuẩn bị hộp quẹt. Con người hiện đại không lo xa như tổ tiên của họ. Hôm sau, đoàn người mò ra thuyền để kiếm cái ăn. Chiếc thuyền như cái áo rách, không tìm thấy chút gì để ăn. Chỉ sót lại con dao. Họ tìm con cua, con ốc, nhai sống. Nguyễn Hữu Hà nghĩ ra sáng kiến bắt cá, lóc thịt dán lên đá cho khô chín đi để ăn. Nhưng cá không dễ bắt, một tuần trôi qua, biển vẫn vắng lặng, không có bóng con tàu. Ba người đàn bà, hai đứa trẻ, bốn người đàn ông sống quần thể trong hang đá. Họ sống và ngủ với nhau như người tiền sử. Đàn bà dùng thân xác mình để đổi con sò, con ốc hiếm hoi mà những người đàn ông tìm được. Những ngày đầu, mọi người còn thương yêu nhau, còn kể chuyện ngày xưa, còn đùa giỡn và còn làm tình. Đến ngày thứ bảy khi cái ăn không còn kiếm được trên hoang đảo, thì họ bắt đầu hầm hè nhau. Đứa trẻ đầu tiên qua đời, người mẹ điên dại ôm con dùng tay cào cát để chôn, đôi tay tóe máu. Ba ngày sau, thêm một đứa trẻ qua đời. Những người đàn ông lao vào giằng đứa bé, lóc thịt phơi trên đá để ăn. Người mẹ nhất định không ăn thịt con, nằm chờ chết. Ăn hết đứa con, người mẹ chết, trở thành lương thực cho những người còn lại. Mãi sau này mỗi khi nhớ lại cảnh ấy, Nguyễn Hữu Hà lại ôm đầu. Ông cũng ăn thịt người, ông không thể tưởng tượng được là con người có thể tàn bạo đến như vậy, khi không có cái ăn. Có đúng “nhân chi sơ, tánh bổn thiện” như Khổng Tử nói không? Ông lang thang ra bờ biển với cái bụng quặn đau vì đói, trên đảo còn ba người đàn ông và hai người đàn bà, chưa ai chết, không còn ai đủ sức để giết nhau ăn thịt. Bất ngờ ông nhìn thấy con tàu tiến vào đảo, ông lính quýnh chạy trên cát, dồn chút tàn lực cuối cùng hét lớn:

- Cứu! Cứu!

Ông ngã gục trên bãi cát, vừa lúc chiếc tàu cho ca-nô vào bờ.

Thấy những con người kỳ dị và rách rưới trên đảo. Họ lăm lăm cây súng. Nguyễn Hữu Hà, nói tiếng Anh với họ về tình trạng của đoàn người trên đảo. Những người Đan Mạch, đưa năm người lên tàu cho ăn và mặc. Khi đã khỏe, họ hỏi ông là người nước nào? Ông trả lời:

- Việt Nam.

- Việt Nam ư?

- Đúng vậy!

- Sao các ông ra nông nỗi này?

- Thật khó nói cho các ông hiểu được.

Nguyễn Hữu Hà đến định cư ở Đan Mạch. Những người đàn ông và đàn bà sống sót trong đoàn đã tránh mặt nhau kể từ khi lên tàu. Họ sợ hãi khi phải nhớ tới những miếng thịt người phơi lên những tảng đá, bốc mùi!

Ông cũng không hiểu sao mình có thể ăn thịt người? Câu hỏi ấy ám ảnh ông. Ông đã ăn thịt người, ăn sống. Ông cũng nhớ hồi ở trại cải tạo, anh em tù thèm thịt quá, bắt được con tắc kè, họ nhai sống, rùm rụp, máu xịt ra mép, ông rợn cả người...

Mười tám năm ở xứ người, làm viên chức dán tem cho một công ty quảng cáo, ông sống khép kín, không dám quen ai. Những tháng ngày cô độc trôi đi lặng lẽ như mùa đông lê thê buồn bã không thấy ánh mặt trời của xứ Bắc Âu. Đất nước tự do, mọi người nhàn nhã thả bộ trong thành phố đẹp như công viên, muốn đi xe đạp cứ lấy mà đi, người dân để xe đạp tự do, như một thứ của công. Một tuần họ nghỉ hai ngày và làm việc mỗi ngày có sáu tiếng đồng hồ. Ông biết đất nước của ông còn lâu mới được như vậy. Sống như thiên đường, mà ông vẫn buồn!

Mặt trời lên rực rỡ sau chuyến ngủ đông gần ba tháng, ông rời nhà đi bộ dọc công viên, chợt nghe có người kêu tên mình, ông quay lại, nhận ra cô gái, đúng hơn là người đàn bà, một trong năm người sống sót trên đảo hoang ngày xưa. Hương, tên của người đàn bà. Khi cô lên tàu cùng ông, cô vẫn còn con gái, nhưng khi vào đảo hoang cô thành đàn bà và ông là người đầu tiên trong đời cô. Ông nhìn thấy vệt máu loang ra giữa hai đùi khi họ đứng dậy đi kiếm cái ăn. Lần đầu tiên ông phá trinh của một cô gái trên đảo hoang, trong hang đá. Họ nhìn nhau, không gian như đặc quánh lại nặng nề. Ông lên tiếng phá tan sự im lặng khó chịu:

- Em thế nào?

- Em đang làm ở gần đây, em tìm những người còn sót lại sau những ngày kinh hoàng trên đảo nhưng không gặp ai cả. họ.

- Tôi cũng không gặp ai và tôi cũng không kiếm

- Thực ra em kiếm họ để hỏi về anh, không ngờ ở chung thành phố mà không gặp nhau.

- Tôi cũng bắt đầu quên họ.

- Cả em nữa à?

- Giá mà tôi có thể quên được tháng ngày kinh hoàng đó. Em đã lập gia đình chưa?

- Chưa nhưng coi như đã có đời chồng.

- Vậy à? - Ông dửng dưng hỏi.

Hương khóc, bờ vai thiếu phụ gầy guộc rung lên. Ông im lặng nhìn cô và ông hiểu tất cả. Chạm tay vào vai cô:

- Về nhà tôi nhé!

Cô đi theo ông và sau bữa cơm tối, cô buồn rầu nói:

- Sau một tháng đến Đan Mạch em biết mình mang thai, em sanh được một đứa con trai khá bụ bẫm.

Không giống những đứa trẻ khác, thằng bé mới chào đời đã có răng. Em cứ rờn rợn, mới mười ba tuổi nó đã làm bị thương bạn học. Mười tám tuổi giết người, bị tử hình.

Ý nghĩ buồn rầu thoáng qua đầu ông, “một đứa trẻ hoài thai bởi hai kẻ ăn thịt người thì làm sao lương thiện cho được!”.

Hôm sau, Hương dọn đến nhà ông. Cô nghĩ rằng cô tìm được hạnh phúc với người đàn ông đầu tiên của đời cô, nhưng cả hai đều cảm thấy nặng nề. Sự gặp mặt hàng ngày làm cho họ nhớ lại những ngày trên đảo hoang, nhớ lại những miếng thịt người phơi trên đá. Ám ảnh quá khứ làm cho họ già đi nhanh chóng. Làm việc xong, họ đi lang thang và cố tránh mặt nhau. Cuối cùng Hương đã tự động ra đi.

Về già, Nguyễn Hữu Hà về sống tại quê hương với em trai của mình, nhưng đó là chuyện sau này, khi chính quyền trả đất lại cho dòng họ của ông. Những tháng ngày cuối đời, sống trên quê nhà, ông mới nguôi ám ảnh về những tháng ngày trên đảo hoang. Trước khi về nước, ông có tìm bà Hương rủ bà cùng về, nhưng bà đã có cuộc sống êm ấm với người đàn ông Đan Mạch tốt bụng.