Chương 29
Tôi nhận ra thế giới vật chất, nơi mà chúng ta lạc mất nhau, quá nhiều khổ đau và muộn phiền.
Linh chi Yêu dấu!
Tôi đã làm những bài thơ vì tình yêu của em. Tôi đã làm đủ nghề kiếm sống để đi tìm em. Tôi cũng đã bị dằn xé vì tôi hiểu cả hai thế giới. Tôi nhận ra thế giới vật chất, nơi mà chúng ta lạc mất nhau, quá nhiều khổ đau và muộn phiền. Em biết không? Ở đời này, chuyện chết - sống là chuyện tương đối. Vì vậy, tôi tin vào sự phục sinh của Chúa Ki-Tô, người ta đóng đinh thể xác Ngài vào cây thánh giá, nhưng triết lý “yêu thương loài người” vĩ đại của Ngài, giúp cho Chúa “phục sinh” trong lòng con người “như bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng”. Mọi người đối xử tàn ác với nhau vì họ không tin vào thần thánh và linh hồn. Họ không may mắn như tôi, họ không có cơ duyên để lạc vào thế giới song song để biết kiếp người là phù du. Nhưng chỉ cần họ tin có thần thánh, cho dù điều đó có tồn tại hay không thì thần thánh và linh hồn cũng giúp cho con người sống tốt hơn em ạ.
Tôi luôn di chuyển giữa hai thế giới nhờ năng lượng Ranaga và sự giúp đỡ của ông già tiên tri. Trong một lần, ông già đưa tôi trở lại thế giới song song, tôi đã gặp những con người mà khi ở cả hai thế giới họ đều đớn đau. Tôi đã gặp chàng trai mười tám tuổi, cậu ta chẳng thanh thản chút nào khi đến với thế giới song song cả em ạ. Cậu ta hoài thai giữa hoang đảo, trong hang đá ẩm ướt, hoài thai trong bụng của kẻ ăn thịt người bất đắc dĩ. Mẹ cậu đặt tên cho cậu là Nguyễn Hoang Đảo. Tôi gặp cậu ta lang thang trong khu rừng thần tiên với đôi mắt xanh thẳm vời vợi. Tôi hỏi:
- Vì sao em còn trẻ, mà em đã đến đây?
- Em đã bị loại bỏ khỏi thế giới vật chất, vì em căm ghét loài người ở thế giới ấy.
- Vì sao em căm ghét họ?
- Em không hiểu.
- Em có tình yêu không?
- Không.
- Vậy em sẽ không thể trở lại thế giới vật chất.
- Em không cần trở lại.
Linh Chi yêu dấu!
Nguyễn Hoang Đảo đã trả lời đầy hằn học như vậy, nhưng chiều nào cậu ta cũng nhìn về thế giới vật chất với cái nhìn khao khát và khắc khoải.
Nguyễn Hoang Đảo đã ra đời trên đất nước không đến nỗi tồi tệ. Ở đó mọi người có đời sống khá tốt. Người mẹ đã nhốt con trong căn nhà lạnh lẽo. Căn nhà rộng và âm u như mùa đông của xứ sở mà cậu đang sống, không gian u buồn đã ngốn tất cả tuổi thơ của cậu. Khi cậu đến trường, nhìn thấy loài người, cậu căm ghét họ vô cùng. Lần đầu đi học, thằng bé da trắng giành dĩa thức ăn của Nguyễn Hoang Đảo, cậu giằng lại, thằng bé da trắng mắng:
- Thằng mọi da vàng!
Không nói, không rằng, Nguyễn Hoang Đảo đâm thẳng cái nĩa vào mặt thằng da trắng. Nó rú lên ôm mặt đầy máu. Cậu ta bị đưa vào trại giáo dưỡng. Năm mười tám tuổi cậu ra trại. Trong quán rượu, cậu để ý cô bé tóc vàng. Cậu lại gần mời rượu, bất ngờ một thằng da trắng to cao xuất hiện, hắn hất ly rượu và mắng cậu:
- Thằng mọi da vàng!
Như lần trước, cậu rút trong áo khoác ra cây tiểu liên bá ngắn, cậu đã mua khi mới ra trại giáo dưỡng. Trước những đôi mắt xanh hốt hoảng, những cái miệng há hốc, cậu xả súng vào bọn chúng.
Nguyễn Hoang Đảo đã ngơ ngác trong thế giới song song vì chưa hề có tình yêu. Còn tôi có em và tôi biết em đang chờ tôi. Ngày tôi chia tay để trở lại thế giới vật chất, Nguyễn Hoang Đảo đã khóc, những giọt nước mắt không có hình hài gì cả, nó cứ loang loáng như ảo ảnh trên sa mạc. Tôi đã rất buồn, nhưng chẳng làm gì được em ạ.
Tôi trở về tìm em.
Tôi đã chán dạy học sau khi bị kiểm điểm, tôi làm thơ, nhưng làm thơ sao có thể kiếm sống được. Tôi đi làm rẫy thuê để đợi em lớn lên, đợi ngày đi tìm em. Tôi xin vào vườn trái cây, bà chủ đưa cho tôi cây cuốc với ánh mắt nghi ngờ. Lâu rồi tôi chưa cầm cuốc, nhưng tôi không quên công việc đơn giản của một nông dân, mà tôi đã quen thuộc từ lúc chiều cao của tôi còn ngắn hơn cán cuốc. Em còn nhớ không, ngay từ nhỏ, tôi và em đã được trao cây cuốc vào tay cùng với lời dặn dò: “Hãy cố lên, quê mình nghèo cần phải trở thành một người nông dân giỏi mới sống được các con ạ!"
Ngày ấy, vết thương chiến tranh làm lở loét cả đồng ruộng. Mất mùa liên miên, nắng như đổ lửa, lúa ngậm đòng chết khô ngoài ruộng, bướm trắng bay rợp trời. Bà nội của tôi nhìn đàn bướm, đôi mắt già nua nhăn nheo hướng về phía cánh đồng. Bé Ba, đứa con không cha của chị tôi ốm tong teo, da nhăn như hạt ươi rừng, khóc nhèo nhẻo, bà cất giọng khàn đục ru cháu: “À ơi! Chiều chiều bướm trắng bay vô. Ba năm trời hạn cây khô lá vàng. Nấu cơm ghế những cọng lang...” Lời ru buồn như buổi chiều ngợp nắng trên cánh đồng khô hạn, vàng vọt.
Tôi muốn kể cho em nghe, trên đất nước này không phải nơi nào cũng nghèo như quê mình đâu em, ở miền Nam nơi tôi đang làm rẫy mướn là vùng đất giàu có và xinh đẹp. Vườn nối tiếp vườn, mùa trái chín chôm chôm đỏ rực xòa ra cả mặt đường, đưa tay bứt một quả bóc vỏ bỏ vào miệng ngọt lịm. Sầu riêng nặng trĩu trên cành, mùi thơm ngào ngạt phủ kín cả không gian. Những trái măng cụt e lệ nép mình dưới những tàn lá xanh um. Tôi ao ước khi gặp em, chúng ta sẽ đưa nhau về đây sinh sống, em sẽ sanh cho tôi những đứa con khỏe mạnh, như em đã từng ước ao và tôi - chắc chắn sẽ không còn muốn đi ngược thượng nguồn của dòng sông nữa. Vì ở đó tôi đã biết tất cả và cũng ở đó tôi nhận ra tình yêu của em dành cho tôi bây giờ và mãi mãi vĩ đại hơn mọi thứ quý nhất trên cuộc đời.
Người của thế giới vật chất không đoán được tuổi của tôi và em cũng vậy. Không thể đoán được vì sao em biết không? Vì tôi đã sống trong thế giới song song một thời gian dài. Ở thế giới đó con người không có tuổi.