← Quay lại trang sách

Chương 30

Chuyện kể của nhà thơ: Liệu ở triều đình có trung thực không, hay họ đều dã tâm như câu chuyện của gã hoa tiêu?

Trần Đại ra lệnh quay vào bờ, có lẽ con thuyền đã đi khá xa, các thủy thủ vất vả với những con gió lớn. Mùa này không thuận lợi cho việc quay trở lại. Trần Đại buồn rầu trước những mất mát quá lớn vừa xảy ra trong cuộc đời của chàng. Chàng không thể tin hơn nửa thế kỷ gầy dựng ở miền Nam, biết bao xương máu của đồng bào chàng, công sức của cha chàng lại bị mất đi trong chớp mắt bởi sai lầm của chàng. Đến giờ này khi phải lênh đênh trên biển cả mênh mông, chàng mất thêm người em thân yêu nhất - Trần Bình. Cuộc đời của chàng rồi cũng sẽ bị lịch sử lãng quên, không như cha, chàng biết rõ điều đó. “Tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai canh”, nhưng các vị “tiền hiền” bao giờ cũng xứng đáng được lịch sử ghi nhận hơn, “hậu hiền” phải thật sự tài giỏi mới được chú ý. Chàng không quan tâm lịch sử nói gì về chàng, nhưng vốn được giáo dục từ nhỏ về đạo đức của người quân tử, nên chàng không thể phản bội lời thề, không thể vô ơn.

Biển ầm ào dưới mạn thuyền, hung hãn và đe dọa. Những cánh buồm trắng cô độc, mỏng manh. Giữa biển cả mọi thứ luôn mỏng manh, cho dù ở đất liền nó có to lớn đến mấy. Con người cũng vậy, mọi quyền lực đều nhỏ nhoi trước biển.

- Bẩm Đô đốc!

Trần Đại giật mình quay lại:

- Có chuyện gì?

- Thưa Đô đốc, mây đen vần vũ cuối chân trời, bọt biển trắng, có dấu hiệu cơn bão lớn đang tới.

Trần Đại sực tỉnh, lúc này chàng mới chú ý những luồng gió lạnh khác thường, đám mây đen đang cuồn cuộn che khuất ánh trăng. Chàng ra lệnh cho gã hoa tiêu hãy tìm hòn đảo để tránh bão. Bằng kinh nghiệm già dặn của hơn mười năm vượt biển, gã hoa tiêu cho thuyền quay mũi về hướng Tây. Khi hòn đảo hiện ra trong tầm mắt thì cơn bão ập đến, gió gào thét, chiếc thuyền nhồi lên, hụp xuống liên tục. Các thủy thủ hò hét cuốn dây buồm. Cột buồm gãy răng rắc. Những con sóng hung hãn liên tục quật mạn thuyền, nước bắn tung tóe lên thuyền. Nhiều lần hất văng người lính xuống biển. Đoàn quân hơn trăm người nháo nhác, họ cố đưa con thuyền vào hòn đảo trước mặt. Cuối cùng con thuyền cũng tấp vào vịnh, cơn bão dịu dần. Đoàn quân lên bờ, lướt thướt và tả tơi. Trần Đại điểm danh quân sĩ, chỉ mất năm người. Chàng vui mừng tập hợp đoàn quân lại kiếm hang đá trú ẩn.

Gã hoa tiêu lôi trong người ra bùi nhùi và đá lửa. Đây là vật bất ly thân của gã. Đối với cuộc sống của thế giới vật chất không có gì quý hơn lửa. Mọi người quây quần bên đống lửa ấm áp trong hang đá rộng rãi trên hòn đảo. Họ nghe gã hoa tiêu truyền đạt lại kinh nghiệm chống bão và cách sống trên hoang đảo. Dòng họ gã hoa tiêu vốn người Việt ở miền Trung, cũng thuộc loại danh gia vọng tộc, vì lý do chính trị nên cụ tổ của gã vào Nam sinh cơ lập nghiệp. Khi Trần Tướng quân đến cù lao thì dòng họ của gã đã được bốn đời. Gã theo Trần Tướng quân và trở thành hoa tiêu cừ khôi trong đoàn quân của ông. Câu chuyện cụ tổ của gã hoa tiêu họ Nguyễn, làm ấm áp hang đá. Trần Đại lắng nghe say sưa. Qua câu chuyện chàng hiểu được sự ngoan cường của người Việt, dân tộc mà chàng có diễm phúc mang một nửa dòng máu.

Gã hoa tiêu khẽ đẩy cây củi vào đống lửa, hắng giọng:

- Câu chuyện của ông tổ nhà tôi được cha tôi kể lại cho con cháu nghe và dặn dò con cháu muốn sống phải biết giữ lửa.

- Kể đi!

Những người lính nóng ruột thúc giục.

- Tôi họ Nguyễn.

- Biết rồi, kể đi.

- Câu chuyện như sau:

“Trước khi mặt trời khuất sau ngọn núi, Nguyễn phải vượt qua được khu rừng này. Đây là khu rừng nổi tiếng nhiều cọp nhất miền Nam Trung bộ. Hơn mười ngày ròng rả Nguyễn băng rừng chạy về hướng Nam. Sư phụ của chàng, vị sư già chùa Quảng Long, giúp chàng trốn thoát khỏi sự truy nã của quan quân.

Ông nói với Nguyễn:

- Hướng Nam là con đường sống duy nhất. Cứ theo con đường này mà đi, không được quay trở lại với bất cứ lý do gì.

Ông đặt vào tay chàng dây cương của con ngựa ô hoang dã vùng sơn cước mà ông đã thuần phục và dặn:

- Con hãy đi mãi, đi cho đến khi nào con tuấn mã này gục ngã, con có thể định cư ở đó. Hãy cưới vợ, sinh con, mở mang bờ cõi, hãy quên mọi hận thù. Đừng làm chuyện dại dột nữa, dòng họ chỉ còn một mình con.

Nguyễn quỳ lạy thầy, rồi lên đường Nam tiến. Hàng chục ngày đường, chàng chỉ men theo cánh rừng, đi đường chính, chàng sợ quan quân bắt gặp. Trong hành trang mà người thầy kính yêu chuẩn bị cho Nguyễn, có một thứ ông dặn chàng phải hết sức cẩn thận giữ gìn. Cái vật tạo ra lửa, vị sư già tốn khá nhiều công sức để chế ra. Ngày ấy, muốn có lửa, mọi người phải dùng con dao chẹt vào đá để lửa bắt qua bùi nhùi. Dựa trên nguyên lý ấy, vị sư già chế ra cái bật lửa mà chỉ cần quay nhẹ thanh sắt, viên đá sẽ phát những tia lửa mạnh, có khả năng đốt cháy dây bùi nhùi rất nhanh. Nhờ cái vật kỳ diệu ấy cùng lưỡi kiếm sắc và cánh cung trên vai, chàng đã sống được những ngày qua. Ban ngày chàng đốt lửa nướng thịt, ban đêm chàng đốt lửa xua đuổi thú rừng. Bất kỳ giống thú dữ nào thấy ánh lửa cũng tránh xa. Vị sư già vừa là cha, là mẹ vừa là thầy của chàng. Lớn lên Nguyễn mới biết, thầy đã cứu chàng, giọt máu duy nhất của dòng họ một thời lừng lẫy, thoát khỏi họa tru di vì tội phản loạn. Ông chăm sóc, dạy dỗ cho Nguyễn chu đáo, nhưng dứt khoát ông không cho chàng xuống tóc, ông bảo chàng còn một sứ mệnh quan trọng phải thực hiện trong cuộc đời này. Khi Nguyễn được truyền dạy những tuyệt kỹ võ học “Thiếu lâm Bắc phái”, ông mới tiết lộ cho chàng biết thân phận của mình. Ông cho Nguyễn xuống núi và dặn chàng hãy cố duy trì dòng họ của chàng, một dòng họ oanh liệt không đáng bị diệt vong. Khi xuống núi, ông trao cho Nguyễn một bức thư và dặn chàng tìm đến nhà thầy đồ Ngạn, để đưa tận tay cho người. Sau khi đọc thư, thầy đồ Ngạn bảo con gái thu xếp cho Nguyễn một căn phòng bên nhà ngang. Thầy đồ Ngạn là bạn tâm giao của sư thầy, mỗi lần ông lên núi đánh cờ và đàm đạo với sư thầy, Nguyễn vẫn hầu bên cạnh. Nay không hiểu sao sư thầy lại cho Nguyễn về ở với thầy đồ Ngạn. Suốt đêm Nguyễn trằn trọc trong căn nhà vách đất. Chàng không ngủ được vì ánh mắt long lanh và đôi má ửng đỏ của nàng Gấm lúc dọn phòng cho chàng. Từ nhỏ đến giờ, sống trong lời kinh tiếng kệ, Nguyễn chưa có dịp đứng gần một cô gái, hóa ra ngoài vẻ duyên dáng, phái nữ còn có mùi thơm kỳ diệu, Gấm ra khỏi phòng từ lâu mà trong phòng còn phảng phất mùi hương”.

Gã hoa tiêu ngưng kể, đẩy thanh củi vào đống lửa, đây là thói quen của gã, từ nãy giờ chỉ mình gã chăm chú làm việc này.

Trần Đại giật mình: “Tên người con gái trong chuyện kể của gã hoa tiêu giống tên mẹ mình quá!"

Chàng nhớ mẹ, không biết bây giờ Người lưu lạc phương nào? Không như gia đình quý tộc khác, bỏ mặc các công tử cho gia nhân, mẹ chàng chăm sóc chàng rất chu đáo.

Bà ru chàng bằng những câu ca dao của quê hương Việt, chính nhờ những câu ca dao ấy mà chàng yêu đất nước này, cho dù chàng là gốc người Hoa.

- Rồi sao nữa anh Hòa?

Một cậu lính trẻ nóng ruột giục anh hoa tiêu Nguyễn Hòa.

- Khi vào bờ các cậu cho tớ đi uống rượu ở các thanh lâu ngoài kinh thành nhé, tớ sẽ kể tiếp.

- Ừ uống thì uống, đang khúc hấp dẫn lại ngưng kể.

- Mình kể đến đâu rồi nhỉ?

- Đến chỗ nàng Gấm ấy. - Anh lính trẻ nhanh nhảu.

- Nghe tiếp nhé:

“Nguyễn nghĩ, chả trách sao trong sử sách chàng đọc có biết bao nhiêu anh hùng mất nước vì mỹ nữ. Sáng hôm sau, thầy đồ Ngạn gọi Nguyễn lên nhà trên, chàng quỳ bên án thư. Sau khi miễn lễ, ông nói:

- Theo lời giao ước giữa ta với thầy con, kể từ hôm nay con là rể nhà này. Nhà ta có ba mẫu ruộng, con hãy học cách trở thành nông dân, sau khi thành thạo con gái ta thuộc về con.

Nguyễn mấp máy:

- Thưa thầy...!

Ông khoát tay:

- Những điều con đã học được ở sư thầy để làm người, chứ không phải để làm quan. Con phải nhớ sứ mệnh của mình mà sư thầy đã dặn dò chứ, hãy phục hồi lại dòng họ, tên con là Phan Nguyễn, nhưng con họ Nguyễn chứ không phải họ Phan, nhớ lấy điều này!

Nguyễn vâng dạ lui ra. Lúc đầu chàng cũng buồn, những năm tháng trui rèn võ nghệ và học chữ thánh hiên, Nguyễn không ngờ cuối cùng trở thành một nông dân. Chàng nén tiếng thở dài khi nghĩ về nàng Gấm, dù sao thì Nguyễn cũng có một người vợ đẹp. Thế rồi từ đó, Nguyễn trở thành chàng trai cày. Hàng ngày, sau giờ lao động vất vả, Nguyễn được chăm sóc bởi bàn tay dịu dàng của người con gái xinh đẹp nhất làng. Thời hạn ở rể ba năm đã gần hết, Nguyễn mơ ngày chàng cùng Gấm nên vợ nên chồng. Nhưng số mệnh đã không cho chàng sống một cuộc đời bình lặng. Một hôm, đang cày nốt đám ruộng, bỗng trong làng có tiếng la hét, ngôi nhà của cha vợ lửa bốc ngùn ngụt. Nguyễn vứt cày chạy về, quan quân lố nhố trước hiên nhà, Gấm bị ba bốn tên lính vác bỏ lên xe ngựa. Cha vợ Nguyễn nằm gục trên vũng máu, một tên quan đặt chân lên người ông, ngạo nghễ nói với dân chúng:

- Những kẻ âm mưu phản loạn phải chết.

Không kềm chế được, cụ hương trưởng buột miệng:

- Muốn chiếm đoạt con gái người ta, nên mới vu vạ, chứ thầy Ngạn mà phản loạn gì, quan quân gì mà tàn ác vậy?

Xoẹt... lưỡi gươm sáng loáng bay qua cổ cụ già khi cụ vừa dứt câu, cụ gục xuống, đôi mắt mở trừng trừng.

Â... y! - Nguyễn hét lên một tiếng lớn, chàng giật phắt lưỡi gươm từ tay một tên lính, ánh gươm loang loáng như sao băng, tên tiểu quan gục ngay tại chỗ bởi nhát gươm thần tốc. Bọn lính tháo chạy tán loạn, nhưng trước khi rút đi chúng kịp mang theo nàng Gấm và giết chết một số dân làng. Với lòng căm phẫn cực độ, sau khi chôn cất cha vợ, Nguyễn tụ tập dân làng rút vào núi lập căn cứ, chuẩn bị đối phó với tên tuần phủ tàn ác mà chàng biết thế nào hắn cũng trả thù dân làng. Cuộc khởi nghĩa kéo dài chưa được một tháng thì tan rã. Những người nông dân không quen xa rời ruộng đồng và chưa được rèn luyện đã dần bỏ đội ngũ. Trận quyết chiến cuối cùng với quân của quan phủ, quân Nguyễn đã thất bại thảm hại, may mắn chàng thoát chết...

Miên man với chuyện cũ, Nguyễn đã ra đến bìa rừng. Hoàng hôn vừa buông xuống, trước mặt chàng là làng mạc, chàng đã đến được nơi có người ở. Lác đác khói lam dè dặt bay lên từ những nóc nhà tranh ven sông. Dòng sông rộng mênh mông, ghe thuyền tấp nập, nhưng tuyệt nhiên không hề thấy bóng một quân lính nào của triều đình. Nguyễn an tâm buông cương, có lẽ đến nay chàng đã thoát khỏi vùng tầm nã của tên quan phủ. Dừng ngựa bên sông, Nguyễn định bụng sẽ vào nhà chùa nào đó xin nghỉ qua đêm. Không biết đây là xứ nào mà con gái ăn mặc rất lạ, áo quần gọn gàng khỏe mạnh, không mớ bảy mớ ba như quê chàng. Họ chèo thuyền trên sông, chở đầy những chiếc nồi đất, lại có thuyền chở nhiều loại trái cây trông rất lạ. Dưới sông bỗng vang tiếng hò lanh lảnh: À... ơi Bàn Lân gạo trắng nước trong... Ai đi đến đó lòng không muốn về... Những câu hò dìu dặt làm xao động lòng chàng trai trẻ. Thì ra đây là xứ Bàn Lân, một nơi mà trước đây lúc còn hầu rượu sư thầy, chàng nghe thầy đồ Ngạn nói loáng thoáng về vùng đất trù phú này. Đang phân vân không biết đi về đâu trong lúc trời tối dần, bỗng một cụ già lại gần hỏi chàng với giọng thân thiện:

- Con từ đâu tới mà trông xơ xác thế kia?

Nguyễn lễ phép thưa:

- Dạ! Con từ xứ Quảng đến đây.

Đoạn chàng tóm tắt hoàn cảnh của mình cho cụ nghe, cụ vuốt râu cười:

- Thế thì con nên ở lại đây mà lập nghiệp, miền đất này bao dung lắm, chứa chấp hết thảy ai muốn đến với nó...

Nói xong ông đưa chàng xuống thuyền, chở qua bên kia sông. Nơi ông lão ở là cù lao màu mỡ, cây cối xanh tốt. Thuyền cập bến, ông nói:

- Đất ở đây còn rộng lắm, con tha hồ mà khai phá làm ruộng làm nương.

Nguyễn trở thành người của vùng cù lao từ đấy.

Sau bảy năm cật lực khai phá, chàng đã tạo nên một cơ ngơi khá khang trang, cả một vùng đất mênh mông giờ là của Nguyễn, khu vườn của chàng trồng đầy đủ cây trái miền Nam. Ông lão đưa Nguyễn về đây đã gã cô con gái út cho chàng. Lễ cưới xứ này diễn ra nhẹ nhàng, chứ không lễ mễ như ở quê chàng. Nhẹ nhàng như ngày đầu về đến căn nhà của ông, ông nói với bà:

Tôi đã tìm được chồng cho con Út rồi bà ơi!

Bà hỏi lại:

- Người tốt chứ?

Ông cười khà:

- Chỉ cần nhìn qua là biết người tốt.

Vợ chàng không đẹp bằng Gấm nhưng nàng rất khỏe mạnh và mắn đẻ, nàng sinh cho chàng cả thảy bốn trai, ba gái, đứa nào cũng tròn trúc như trái bưởi và khỏe mạnh như cá sấu sông Bù Cháp. Dòng họ Nguyễn được phục hồi ngay trên mảnh đất nằm giữa dòng sông này..."

- Chuyện hay quá!

Anh lính trẻ hỏi:

- Người Việt mình có trước khi Trần Tướng quân đến ư?

- Tất nhiên có trước - Nguyễn Hòa tự tin trả lời - Không những có trước mà trước rất lâu nữa. Có trước cả khi bà công chúa có mặt ở phương Nam. Thực ra vùng đất này vốn của người Việt chúng ta.

- Thật không?

- Thật.

Trần Đại rời khỏi hang khi những người lính của chàng ngủ la liệt, chàng miên man nghĩ về câu chuyện của gã hoa tiêu. Chàng không chú ý đến chuyện cái bật lửa như các thủy thủ, mà chàng nghĩ đến các quan lại trong câu chuyện. Chỉ mới bốn đời, như vậy các quan lại cũng chính là quan lại của triều đình mà chàng sẽ diện kiến. Liệu ở triều đình có trung thực không, hay họ đều dã tâm như câu chuyện của gã hoa tiêu?