CHƯƠNG 4
Năm Ất Tỵ (225), Phạm thị sinh hạ thêm được một bé gái. Triệu Thành vui mừng khôn xiết, đặt tên cô bé là Triệu Thị Trinh. Khi ấy Quốc Đạt đã lên mười một tuổi.
Bé Trinh rất chóng lớn, càng lớn càng xinh đẹp. Năm mới lên bốn, một lần ra sân sau chơi, tình cờ bé Trinh thấy thầy Lữ đang dạy võ cho Quốc Đạt. Đứng nhìn qua chốc lát, bé Trinh liền bắt chước làm theo những động tác của anh mình. Thấy cô bé múa men uyển chuyển dễ thương quá thầy Lữ bèn gọi bé lại chỉ cho bé tập thử vài đường. Bé thích quá, làm theo lời thầy Lữ không một chút ngập ngừng. Sự tiếp thu có vẻ bén nhạy của bé đã làm thầy Lữ vừa ngạc nhiên vừa thích thú.
Buổi tối thầy Lữ đem việc này kể lại với vợ chồng Triệu Thành. Nghe xong cả hai đều tròn mắt lên thích chí lắm. Nhưng rồi Triệu Thành thở dài:
-Giá mà Quốc Đạt được vậy thì hay biết mấy! Cháu Trinh lớn lên bất quá chỉ lo việc nội trợ bếp núc đâu cần học võ để làm gì?
Thầy Lữ cười mà nói:
-Ông nói vậy chứ có tài năng cháu cũng có thể làm nên việc lớn thua kém gì đàn ông? Trước đây hai trăm năm nước ta đã từng có hai Bà Trưng khởi nghĩa chống Tàu đuổi được tên Thái thú Tô Định giành lại độc lập cho nước ta được mấy năm, đàn bà như thế cánh đàn ông mình mấy ai bì nổi? Sau đó nhà Hán đã phải cử danh tướng bậc nhất của họ là Mã Viện kéo mấy vạn tinh binh sang đánh dẹp mới xong. Nếu không có tên Mã Viện này biết đâu sự nghiệp của hai Bà lại chẳng tồn tại đến bây giờ?
Phạm thị nghe thầy Lữ nói cười dòn:
-Chàng thấy chưa? Cần gì phải phân biệt con trai con gái? Cứ nhờ thầy dạy cho bé Trinh học võ đi! Con trai học không nên thì cho con gái học cũng được chứ mất gì?
Triệu Thành lại thở dài:
-Đáng tiếc là Quốc Đạt dở quá! Thôi thì nhờ thầy dạy luôn cho cháu Trinh xem sao!
Thầy Lữ vui vẻ nói:
-Vâng. Với cái năng khiếu đã hiển hiện ở cháu, tôi tin chắc cháu Trinh sẽ thành công về nghiệp võ.
Sáng hôm sau, khi thầy Lữ đang ngồi uống trà với Triệu Thành thì Phạm thị dắt bé Trinh ra đứng chắp tay trước mặt hai người và thưa:
-Thưa thầy, hôm nay vợ chồng con chính thức xin gởi gắm bé Trinh nhờ thầy dạy dỗ cho cháu như thầy đã hứa. Con thấy tuổi hạc thầy cũng xấp xỉ tuổi ông ngoại của bé nên con xin thầy cho phép bé Trinh được coi thầy như ông ngoại, như vậy thầy thấy có gì bất tiện không?
Thầy Lữ tươi cười nói:
-Nếu ông bà đã định vậy thì thật vinh hạnh cho tôi! Tôi xin nguyện sẽ hết lòng dạy dỗ chăm sóc cho cháu nên người!
Phạm thị vui mừng bảo bé Trinh:
-Con hãy quì xuống lạy thầy hai lạy và thưa: “Cháu là Triệu Thị Trinh kính xin ra mắt ông ngoại”!
Bé Trinh quì xuống lạy và thưa như lời Phạm thị dạy. Thầy Lữ cười vui vẻ khoát tay mà nói:
-Thôi, ông ngoại cho phép cháu đứng dậy đi chơi! Từ nay cháu cứ ngoan ngoãn nghe lời ông ngoại dạy bảo là đủ rồi!
Từ đó thầy Lữ bắt đầu ra công dạy võ cho bé Trinh. Trước kia thầy Lữ thất vọng vì cậu bé Quốc Đạt bao nhiêu thì nay thầy lại vui mừng tin tưởng vào bé Trinh bấy nhiêu. Thấy thể chất bé Trinh có vẻ khác thường, có năng khiếu tiếp thu đặc biệt, thầy Lữ thương quí bé lắm. Thầy đã thật sự đóng vai ông ngoại để săn sóc và ráo riết truyền nghề cho cháu. Được thầy Lữ gần gũi dạy dỗ hằng ngày, bé dần đâm ra quyến luyến thầy Lữ còn hơn cả quyến luyến bố mẹ. Triệu Thành vì bận rộn công việc, rất ít khi để ý đến việc luyện tập của bé. Ngược lại, Phạm thị lại luôn gần gũi khuyến khích, cổ động bé Trinh trong việc luyện tập. Những khi rảnh rỗi Phạm thị hay khiến bé múa để xem. Mỗi lần xem bé Trinh múa võ xong Phạm thị lại ôm lấy bé hôn hít say sưa mà nói:
-Mẹ vô cùng hạnh phúc khi thấy con của mẹ ngoan ngoãn như thế này! Mẹ rất mừng vì con đã cố gắng luyện tập rất đều đặn! Con chắc chắn sẽ trở thành người giỏi. Người càng giỏi lớn lên càng hữu ích cho đời!
Một hôm Phạm thị nói với chồng:
-Ngày mốt đây là ngày giỗ mẹ thiếp rồi. Chàng có định về ngoại dự như năm ngoái không?
Triệu Thành nói:
-Lẽ ra mình cũng nên đi cả nhà cho vui. Nhưng năm nay công việc còn bề bộn quá, ta đi thật chẳng tiện chút nào. Cả thằng Quốc Đạt nữa, cũng cần ở nhà giúp ta một tay. Thôi, hai mẹ con nàng và bé Trinh đi đại diện cũng được. Nhớ cáo lỗi với phụ thân giùm ta nhé.
Phạm thị vui vẻ nói:
-Chàng yên chí. Phụ thân cũng biết chàng bận công việc, người không trách đâu!
Triệu Thành dặn:
-Lấy con ngựa hồng mà đi, biểu Quốc Đạt thay cái yên ngựa mới mà cỡi. Xong việc nàng cứ ở lại vài ba hôm để bé Trinh chơi với lũ con của mấy cậu nó lâu lâu cho thoải mái. Cả năm nay nó cứ chuyên vào việc học võ cũng tội nghiệp. Sang bên đó nó múa võ cho ông ngoại và các cậu nó coi chắc mọi người thích lắm!
Bé Trinh nghe bố dặn vậy sung sướng vỗ tay:
-Vậy là về nhà ngoại con tha hồ chơi với mấy em. Con sẽ múa võ cho ông ngoại và mấy cậu xem. Nhưng đường về nhà ông ngoại cũng xa mẹ nhỉ?
Phạm thị âu yếm:
-Đi bộ thì mất hơn một ngày nhưng mình đi ngựa lo gì con!
Hôm sau Phạm thị cỡi con ngựa hồng cùng bé Trinh lên đường. Con đường đi về nhà thân phụ của bà là một lối mòn không rộng lắm, năm nào bà cũng đi lại một hai lần. Nhưng những lần trước Phạm thị vẫn đi với chồng, lần này chỉ đi một mình với bé Trinh nên bà cũng thấy hơi ngờ ngợ. Được gần nửa đường, ngựa Phạm thị đang chạy bon bon bỗng một tên lính bảo hộ cầm mã tấu xuất hiện đón đầu. Phạm thị hoảng sợ, bối rối vì từ trước tới nay bà chưa hề gặp tình trạng này. Bà vừa định quay ngựa trở lại thì một tên lính bảo hộ khác đã chận đằng sau. Hai tên lính bảo hộ buộc hai mẹ con Phạm thị phải xuống ngựa và hỏi:
-Đi đâu đây? Không biết chỗ này quan lớn đang cho tiễu trừ bọn giặc cướp hay sao?
Phạm thị run run đáp:
-Thưa các ông, mẹ con tôi ở Hương Vân, về giỗ thân phụ tôi ở làng Kế An. Xin các ông cho mẹ con tôi đi kẻo trễ.
Một tên lính nói:
-Không được. Hôm nay quan lớn có lệnh phải lùng soát khu vực này để bắt cho được mấy tên phiến loạn. Không ai được quyền qua lại trên đường cả. Mẹ con bà phải vào đây ở tạm đợi lúc nào quan lớn có lệnh mới được đi!
Thế rồi một tên kéo hai mẹ con vào một ngôi nhà lá, một tên dắt con ngựa đi chỗ khác. Phạm thị hoảng hốt kêu lên:
-Dắt ngựa của tôi đi đâu vậy? Nếu không cho đi thì cho mẹ con tôi trở về nhà chứ?
Một tên lính quát:
-Không đi đâu nữa cả. Lệnh quan lớn nội bất xuất, ngoại bất nhập!
Tên lính đẩy mẹ con Phạm thị vào ngôi nhà lá. Ngôi nhà chỉ mở một cánh cửa bên. Trời đang buổi trưa nên bên trong cũng khá sáng sủa. Khi bước vào Phạm thị thấy bốn phụ nữ và hai đứa trẻ đang ngồi dồn lại ở một góc. Một trong bốn phụ nữ là một cô gái trẻ rất đẹp. Trông mặt người nào cũng đầy vẻ lo lắng, sợ hãi. Phạm thị ngồi lại gần những người này để hỏi thăm mới biết họ cũng đều vừa bị lùa vào đó chưa bao lâu.
Một lát sau thì một viên quan Tàu Ngô [7] cùng hai tên lính bước vào nhà. Tên lính đem một chiếc chiếu trải ngay xuống đất ở căn giữa. Viên quan Tàu Ngô đứng nhìn đám đàn bà một lát rồi chỉ cô gái trẻ nói:
-Cô bước ra đó! – Y chỉ tay về chiếc chiếu.
Cô gái run sợ bối rối nhìn quanh. Một tên lính quát:
-Bộ muốn chết sao quan biểu mà còn chần chờ?
Tiếng quát làm đám đàn bà con nít đều run sợ. Cô gái tái mặt đứng dậy bước tới chiếc chiếu. Viên quan Tàu Ngô bảo hai tên lính:
-Chúng bay ra ngoài canh cửa. Có gì tao gọi.
Hai tên lính vừa ra ngoài thì viên quan Tàu Ngô tự cởi tuốt hết quần áo quăng một đống rồi tồng ngồng tiến lại phía cô gái. Cô gái hoảng sợ hét lên “cứu tôi với!”. Cùng lúc đó trong đám người bị giữ cũng vang lên một tiếng hét hãi hùng của trẻ con. Đó chính là tiếng hét của bé Trinh. Mọi người nhìn lại thấy bé Trinh đã ngất xỉu. Mọi người hoảng hốt xúm lại lo cấp cứu bé. Phạm thị ôm bé Trinh khóc ầm lên:
-Con tôi chết rồi trời ơi! Con tôi chết rồi trời ơi!
Cảnh tượng này đã làm viên quan Tàu Ngô lúng túng, khó chịu. Y vẫn giữ chặt cô gái nhưng ra lệnh:
-Hãy thả bọn kia ra hết đi!
Một tên lính hỏi lại:
-Bẩm quan, còn con ngựa hồng?
-Phải giữ con ngựa lại. Trả về để nó đem ủng hộ bọn phản loạn sao?
Hai tên lính bèn ra hiệu cho đám người kia ra khỏi cửa. Nhưng đám người kia vẫn còn xúm quanh bé Trinh. Một tên lính giục:
-Quan lớn đã có lệnh cho các ngươi về nhà. Đi mau lên nếu không quan lớn đổi ý thì mệt đó!
Thấy đám người kia còn dùng đằng trước cảnh cô gái đang bị hiếp và Phạm thị đang ôm con khóc lóc, bọn lính quát:
-Các ngươi không chịu về phải không? Muốn ở lại cho ở lại!
Nghe tên lính dọa giữ lại, mọi người sợ quá đành tuôn ra ngoài. May lúc đó bé Trinh cũng vừa tỉnh lại. Phạm thị mừng rỡ ôm thân bé đang run bần bật mà hú hồn hú vía cho bé và bước ra khỏi ngôi nhà sau cùng.
Phạm thị phân vân: Đương nhiên bà không còn bụng dạ nào để đi tiếp được nữa. Nhưng trở về nhà bà lại phải cõng bé Trinh lội bộ vì bọn lính không chịu trả con ngựa. Chúng cũng giữ luôn những thứ bà mang theo. Nhưng nếu mở miệng đòi lại bà lại sợ chúng đổi ý giữ bà lại. May bà còn giữ được một gói xôi để phòng ăn dọc đường và một ống nước. Cuối cùng bà tự nhủ: thôi, chừng ấy cũng tạm đủ. Thế là Phạm thị quyết định phải xa rời chốn hang hùm. Bà bế xóc bé Trinh trên vai mà đi. Đi được một đỗi Phạm thị đã thấm mệt và thấy đói. Bà bèn ngừng lại bên đường cùng bé Trinh ăn uống. Thấy bé Trinh có phần tỉnh táo trở lại Phạm thị rất mừng. Ăn uống xong bà định bế bé Trinh lên để đi tiếp thì bé nói:
-Thôi, mẹ để con đi bộ như mẹ cũng được.
Nỗi lo ngại trong Phạm thị đã giảm nhiều, bà đáp:
-Ừ, cũng được. Khi nào con mệt thì nói để mẹ cõng.
Từ lúc đó, nhờ thể chất khỏe mạnh, bé Trinh đã tự đi bộ về tới tận nhà không cần mẹ cõng nữa. Khi hai mẹ con bước vào nhà khi trời đã tối mịt. Triệu Thành thấy hai mẹ con về đột ngột quá ngạc nhiên hỏi:
-Sao về làm gì gấp vậy?
Phạm thị bèn kể lại hết sự việc đã xảy ra cho mọi người nghe. Ai nghe cũng lo lắng, thương hại cho cô gái kia không biết số phận cô rồi sẽ ra sao.
Mọi chuyện tưởng đã qua đi, không ngờ đêm ấy giữa giấc ngủ bé Trinh đã la hét bất thần đến ba lần. Mấy hôm kế tiếp bé Trinh vẫn tiếp tục la hét một hoặc hai lần giữa giấc ngủ như vậy. Triệu Thành lo sợ kể chuyện đó với thầy Lữ. Thầy lo lắng nói:
-Khổ lắm, cái ấn tượng nhơ nhớp kinh tởm đó rất khó phai mờ trong đầu óc của cháu. Nhất là hạng người có tính “ái khiết úy ô” ấn tượng trên sẽ gây cho họ nhiều rắc rối về sau. Nó có thể di hại đến cả việc hôn nhân của cháu sau này. Muốn cho cháu chóng xóa nhòa ấn tượng này phải tuyệt đối đừng bao giờ nhắc lại những gì liên can tới chuyện đó nữa. Mặt khác, phải tìm cách để hướng sự chú ý của cháu về một việc khác hấp dẫn hơn mới hi vọng cháu có thể quên chuyện cũ!
Từ đó Phạm thị hay ôm ấp bé hơn và thường khuyên nhủ bé chuyên tâm về việc học văn và học võ nghệ. Qua một thời gian, khi thấy những vụ la hét trong giấc ngủ của bé Trinh thưa dần rồi dứt hẳn ai nấy đều mừng.
Nhưng chẳng bao lâu lại có một nỗi bất hạnh khác to lớn hơn nhiều giáng xuống gia đình họ Triệu: Phạm thị qua đời sau một trận dịch tả. Lúc ấy bé Trinh mới bảy tuổi. Bé Trinh đã đau xót bỏ ăn bỏ ngủ khóc thương mẹ suốt mấy ngày.
Cũng may gặp thầy Lữ đã khéo an ủi, biết cổ động tinh thần đam mê võ nghệ của bé, luyện tập cho bé nhiều hơn để bé luôn bận rộn mà giảm bớt nỗi đau lòng. Nhờ vậy nỗi buồn mất mẹ của bé Trinh cũng dần dần phôi pha.
Triệu Thành vì công việc quá nhiều, rất ít khi gần gũi săn sóc con. Mọi sinh hoạt hằng ngày của bé Trinh chỉ trông cậy ở tay ông ngoại Lữ sắp xếp. Lòng thương yêu của một người già cuối đời thiếu vắng con cháu ruột thịt đã được dồn cho đứa cháu nuôi thiếu mẹ khiến bé Trinh vẫn tiếp tục lớn nhanh như có phù phép.
Bé Trinh càng lớn càng say sưa luyện tập võ nghệ làm thầy Lữ rất thỏa lòng. Triệu Thành cũng vui mừng không kém. Một hôm khi hai người cùng chứng kiến bé Trinh múa võ, thầy Lữ nói với Triệu Thành:
-Cháu Trinh thể chất kỳ diệu rất hiếm có, các thế võ khó khăn đến đâu cháu cũng thích nghi được cả. Tôi sẽ cố gắng truyền những ngón võ đặc biệt quan trọng cho cháu trước khi tôi về chầu ông bà. Cháu sẽ trở thành nữ võ sĩ vô địch trong thiên hạ.
Triệu Thành nghe thầy Lữ nói vậy vui mừng khôn xiết. Khi bé Trinh nghỉ múa, ông gọi bé Trinh mà khen:
-Con của bố giỏi quá, sau này con có thể lập được sự nghiệp như hai bà Trưng, làm vẻ vang cho gia đình họ Triệu ta đó!
Bé Trinh ngạc nhiên hỏi lại bố:
-Hai bà Trưng đã làm sao hở bố?
Triệu Thành nói:
-Hai bà Trưng nhờ giỏi võ nên đã đánh đuổi được giặc mà làm vua. Con hãy hỏi ông ngoại Lữ đi! Ông ngoại Lữ sẽ nói cho con nghe.
Bé Trinh nói với thầy Lữ:
-Ông ngoại kể cho cháu nghe chuyện Hai Bà Trưng đi!
Thầy Lữ bật cười:
-Cháu cũng muốn làm vua hở? Chuyện này nói với cháu bây giờ cũng hơi sớm, nhưng cháu đang thích nghe nên ông ngoại cũng kể luôn. Hồi đó nước ta đang bị giặc Tàu đô hộ cũng giống như bây giờ vậy. Tên Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định đã đối xử rất độc ác với dân bản xứ. Giặc Tàu tha hồ bóc lột dân ta, bóc lột đến tận xương tận tủy. Thấy ai có hành động gì đáng nghi ngờ là chúng tìm cách tiêu diệt ngay. Chúng muốn giết ai thì giết, giết không gớm tay. Tô Định đã giết người con trai của viên lạc tướng đất Chu Diên là Thi Sách vì nghi ông này rục rịch nổi dậy. Vợ Thi Sách là Trưng Trắc quá tức giận nên đã cùng em là Trưng Nhị dựng cờ khởi nghĩa đánh lại Tô Định. Dân ta vốn đã quá phẫn uất vì chính sách cai trị tàn ngược của giặc Tàu nên đã nhiệt liệt ủng hộ Hai Bà. Vì thế chẳng bao lâu Hai Bà đã chiếm được 65 thành, Tô Định phải chạy trốn về quận Nam Hải. Bà Trưng Trắc bèn tự lập làm vua tức Trưng Nữ Vương. Nhưng Bà Trưng mới làm vua được ba năm thì nhà Hán cử viên tướng giỏi nhất của họ là Phục ba tướng quân Mã Viện đem hai vạn kỵ binh sang đánh dẹp. Hai Bà thua trận nên đều nhảy xuống sông Hát mà chết…
Nghe đến đây bé Trinh khóc nức nở:
-Tội nghiệp Hai Bà Trưng quá! Mã Viện chắc giỏi võ hơn Hai Bà phải không ông ngoại Lữ?
Thầy Lữ vuốt tóc bé tù tốn giải thích:
-Chuyện này cháu chưa hiểu đâu! Võ nghệ thật ra chỉ dùng để giữ mình chứ không phải chuyện gì cũng đem võ nghệ ra để giải quyết được! Võ giỏi cách mấy đi nữa mà ít người cũng khó địch nổi số đông. Võ giỏi cách mấy mà thất thế cũng thua kẻ đắc thế! Giữa chốn chiến trường mưu chước càng già dặn càng dễ chiếm ưu thế! Mã Viện là một viên tướng nhà nghề, làu thông binh thư, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Quân sĩ của Mã Viện lại được tuyển lựa toàn thứ đã quen xông pha chiến trường. Mã Viện đã từng đánh bại nhiều danh tướng của Vương Mãng là kẻ thù của vua Hán. Trong khi đó Hai Bà Trưng chưa có mấy kinh nghiệm về chiến trường. Quân của Hai Bà lại chỉ là một quân đội ô hợp, chưa được luyện tập kỹ càng. Như vậy việc Hai Bà Trưng không chống nổi Mã Viện chỉ là lẽ tất nhiên!
Nãy giờ Triệu Thành vẫn ngồi nghe, đột nhiên ông cao hứng nói vào:
-Chuyện này trước đây tôi chỉ biết mập mờ, nay nghe thầy giải thích tôi mới rõ tại sao Mã Viện thắng Hai Bà nhanh đến vậy! Tiện đây xin thầy cho nghe luôn tại sao trước đó cũng chỉ là quân đội ô hợp ấy mà Hai Bà Trưng lại thắng Tô Định quá nhanh đến vậy?
Thấy Triệu Thành cũng thích nghe, thầy Lữ hứng chí lên giọng:
-Việc thành bại trong thiên hạ xưa nay vẫn do ba yếu tố quan trọng chi phối: thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Mã Viện thắng Hai Bà là nhờ yếu tố thiên thời, lúc đó nhà Hán vừa diệt được Vương Mãng khí thế đang lên quá. Còn tại sao Hai Bà thắng Tô Định quá dễ dàng lại là chuyện khác. Tô Định chỉ là một tên quan tham tàn mù quáng dốt nát nên đã làm mất lòng người quá đáng. Ngay cả những người dưới quyền Tô Định cũng chán ghét cái lòng tham vô đáy của Tô Định nữa. Chúng không muốn chiến đấu để bảo vệ quyền lợi của một tên tham tàn. Toàn dân Giao Châu thì không ai khỏi căm phẫn Tô Định. Hai Bà đã kết hợp thù nhà với nợ nước, khai thác được tối đa lòng phẫn hận của toàn dân đối với giặc Tàu để vùng dậy. Sức mạnh đó đã giúp Hai Bà thắng Tô Định dễ dàng. Đó là nhờ yếu tố nhân hòa vậy. Đáng tiếc là sau khi thành công, nước ta không có đủ nhân tài để giúp Hai Bà trong việc tổ chức trị an và huấn luyện quân đội. Sự yếu kém đó đã đưa đến thất bại sau này…
Triệu Thành thở dài:
-Nếu lúc đó có một số người như thầy ra giúp Hai Bà thì chắc nước ta đỡ hơn!
-Cũng có đó chứ sao không. Nhưng đối với nước ta lúc bấy giờ con số đó quá ít không đủ để đáp ứng những đòi hỏi của tình thế. Cũng bởi chính sách nhận chìm nhân tài người Tàu đã áp dụng ở nước ta mà ra cả. Vì quá lo ngại nhân tài nước ta phát triển nên họ đã cấm hẳn dân ta dạy võ và học võ.
Triệu Thành rầu rầu nói:
-Nếu chính quyền đô hộ cứ giữ mãi chính sách này chắc nghề võ nước mình sẽ hao mòn dần cho đến ngày biến mất. Đáng buồn quá phải không thầy?
Thầy Lữ lắc đầu mà cười:
-Đáng buồn thật, nhưng không phải là tuyệt vọng. Chính sách của triều đình Tàu Ngô là vậy nhưng bọn thống trị làm sao kiểm soát toàn bộ dân bản xứ được? Gặp cái khó tự nhiên ló cái khôn. Như việc dạy võ nhà mình đây người ngoài làm sao biết? Tôi tin chắc còn rất nhiều nhà khác trong thiên hạ cũng đang âm thầm làm cái việc như chúng ta đang làm vậy. Nhất định sẽ có một ngày nào đó dân ta lại vùng lên.
Triệu Thành lộ vẻ mừng:
-Phải vậy mới được chứ! Nghề võ nước mình không bị diệt thì nước mình cũng còn hi vọng có ngày vùng lên!
-Thật ra võ nghệ không phải là yếu tố quyết định thắng bại trong chiến tranh đâu. Như xưa kia Hạng Vũ là người vũ dũng vô địch, dưới tay Hạng Vũ cũng có các tướng vũ dũng phi thường như Bành Việt, Anh Bố, Long Thư… Trong khi đó Lưu Bang võ nghệ thua kém Hạng Vũ rất xa nhưng nhờ được lòng dân hướng về, nhờ mưu hay kế giỏi nên cuối cùng Lưu Bang đã đánh bại Hạng Vũ. Một kẻ chỉ giỏi võ mà không biết mưu kế vẫn thường bị người đời chế nhạo là “hữu dũng vô mưu”. Những kẻ đó chỉ có thể làm tiểu tướng mà thôi. Muốn trở thành đại tướng phải giỏi binh thư, phải có văn hóa, phải có bộ óc phải đầy mưu lắm kế, biết tổ chức, biết quyền biến mới được. Xét về cháu Trinh nhà mình, tôi thấy cháu không những có năng khiếu đặc biệt về võ nghệ mà còn có chí khí, có mưu trí, đó là một triển vọng đáng mừng. Từ nay tôi sẽ dạy lần cho cháu về binh thư…
Triệu Thành vui mừng nói:
-Thôi thì trăm sự chúng tôi trông cậy vào thầy cả. Tài năng của cháu Trinh là do thầy Lữ un đúc, đào tạo, công lao của thầy rất lớn. Sau này nếu cháu Trinh làm nên được công nghiệp gì hẳn thầy Lữ cũng được tiếng thơm lây.
-Ông Triệu cứ yên chí. Tôi một đời lưu lạc khắp thiên hạ đã mệt mỏi mà ước vọng vẫn chưa thành. May mắn cuối đời lại gặp được vợ chồng ông và trở thành tri kỷ, tôi thỏa dạ lắm. Chúng ta đã tin tưởng nhau mà trao đổi, ký thác những ước vọng cho nhau tôi còn ngại gì mà không đem hết mình lo cho tương lai của cháu Trinh? Nhất định cháu Trinh sẽ nên người!
Ngoài việc dạy võ, dạy văn, dạy binh thư, thầy Lữ còn có ý dạy cả y thuật cho bé Trinh nữa. Những lần lên núi hái thuốc, thầy thường dắt bé Trinh đi theo để chỉ dẫn cho bé quen dần với các loại cây thuốc.
Ngày kia, hai ông cháu đến hái thuốc ở ven một dòng suối. Thầy Lữ đi trước, bé Trinh đi sau. Thình lình bé Trinh bỗng hét lên một tiếng kinh khiếp quá. Thầy Lữ giật mình nhìn lại thấy bé Trinh đã nằm sóng soải bên bờ cỏ. Thầy Lữ hoảng hốt nghĩ ngay tới một loại rắn cực độc! Nhưng rồi thầy định thần lại ngay. Kinh nghiệm cho thầy biết một con rắn độc bình thường không thể nào cắn gục được một người trong chớp nhoáng như thế. Với bé Trinh lại càng khó gục hơn vì thể chất của bé rất mạnh mẽ. Hơn nữa, một người bị độc vật cắn thường phải giãy giụa chứ đâu dễ nằm im ngay như thế. Thầy Lữ đến chỗ bé Trinh nằm quan sát kỹ nhưng không thấy một dấu hiệu nào khả nghi và cũng chưa kịp tìm ra vết thương nào trên thân thể của bé bỗng nghe tiếng hỏi lớn:
-Cô bé bị chuyện gì mà hét dữ như thế?
Thầy Lữ ngạc nhiên nhìn về phía tiếng hỏi. Thấy bốn năm người đàn ông vừa tắm suối lên đang mặc lại quần áo, thầy Lữ trả lời:
-Tôi cũng chưa biết tại sao cháu nó hét dữ như vậy nữa! Mấy ông coi thử giúp tôi với, cháu đang bị bất tỉnh nhân sự.
Hai người đã mặc lại áo quần xong vội vã chạy sang. Thấy thầy Lữ đang bắt mạch cho cô bé, một người hỏi:
-Không phải bị con gì cắn chứ? Cụ biết bắt mạch ư? Liệu cháu có sao không?
Thầy Lữ đáp:
-Vâng, tôi là thầy thuốc. Không có con gì cắn cả. Mạch cháu không sao, một lát cháu sẽ tỉnh lại thôi. Điều khó hiểu là không biết nguyên cớ nào làm cho cháu xúc động đến thế?
Người kia lại hỏi tiếp:
-Hay là cháu bị động kinh? Lâu nay cháu đã bị như vậy lần nào chưa? Hai đứa tôi vừa tắm xong mới bước lên chưa đứa nào kịp mặc quần bỗng nghe tiếng hét kinh quá!
Câu nói của người đàn ông đã làm thầy Lữ hiểu ra ngay nguyên nhân đã làm bé Trinh ngất xỉu. Thầy vừa bắt mạch cho bé và trả lời:
-Không sao. Trước đây cháu đã bị ngất như vậy một lần rồi. Ban đầu tôi hoảng quá vì sợ cháu bị rắn cắn nhưng bây giờ thì yên chí không phải. Cám ơn hai ông, một chốc nữa cháu sẽ tỉnh lại thôi.
Khi hai người đàn ông đi khỏi thì thầy Lữ bắt đầu bấm huyệt cho bé Trinh. Lát sau bé Trinh tỉnh lại. Thầy Lữ hỏi:
-Cháu thấy trong người có khó chịu không?
Bé Trinh im lặng quay mặt không trả lời. Thầy Lữ hiểu ý nói:
-Thôi, hôm nay ông cháu hái như vậy là đủ rồi. Mình ngồi nghỉ một lát rồi về.
Rồi thầy Lữ đem cơm bới theo ra hai ông cháu cùng ăn. Vừa ăn thầy Lữ vừa nói chuyện vui cho bé Trinh nghe. Ăn xong thì hai ông cháu ra về.
Buổi tối ấy thầy Lữ kể lại chuyện đã xảy ra cho Triệu Thành nghe. Triệu Thành lo lắng than thở:
-Tội nghiệp con gái tôi quá! Chuyện xảy ra đã mấy năm rồi không ngờ trong đầu óc cháu vẫn còn lưu lại cái ấn tượng khốn nạn đó. Liệu sau này lấy chồng cháu có bị có trở ngại gì không?
Thầy Lữ trầm ngâm giây lát rồi nói:
-Ấn tượng này có lẽ cũng thuộc về chứng “ái khiết úy ô”. Từ nay chúng ta phải làm sao gắng giữ gìn đừng để cháu gặp lại chuyện tương tự như thế một lần nữa. Hi vọng khi cháu trưởng thành cái ấn tượng đó sẽ lạt phai!