CHƯƠNG 17
Triệu Tráng phải vất vả mấy ngày mới lên đến ngàn Nưa. Thấy Triệu Tráng lại lên núi đột ngột, Trinh Nương vừa mừng vừa lo:
-Chắc ở nhà có việc quan trọng cậu mới trở lại đây sớm thế?
Triệu Tráng thưa:
-Đúng thế! Em lên đây để báo cho chị biết huynh trưởng đã quyết định khởi nghĩa!
Trinh Nương tươi nét mặt, Bà hỏi:
-Phải vậy mới được chứ! Cậu thuyết phục được huynh trưởng hả? Thế là phúc cho nhà ta rồi!
Triệu Tráng lắc đầu nói:
-Không phải em thuyết phục được huynh trưởng đâu! Chính tình thế nguy hiểm cấp bách đã khiến huynh trưởng phải quyết định như vậy.
Trinh Nương ngạc nhiên hỏi nhanh:
-Nguy hiểm cấp bách thế nào?
Triệu Tráng liền thuật hết mọi việc đã xảy ra tại Hương Vân cho Trinh Nương nghe. Nghe xong, Trinh Nương kêu lên:
-Trời ơi! Thế này thì huynh trưởng nguy mất rồi! Đúng là nước đến chân mới nhảy! Hương Vân xa quá bây giờ ta làm sao đưa quân về giải cứu kịp?
Tướng Trần Vân bàn:
-Tình thế đã cấp bách như vậy ta chỉ còn cách đưa quân xuống quấy phá các nơi gần đây khiến giặc phải báo động, chỗ nào chúng phải lo phòng giữ chỗ ấy, không dám tập trung lại để hướng mũi dùi vào Hương Vân may ra giảm được phần nào áp lực đối với Triệu tướng quân!
Bà Vương nói:
-Trần huynh nói phải lắm. Nhưng đây cũng chỉ là một việc làm cầu may, chưa chắc thành công! Cậu Tráng nên trở về Hương Vân gấp để xem tình hình ra sao rồi trở lại cho ta biết sớm. Phải hết sức cẩn thận mới được!
Nói xong Trinh Nương ra lệnh cho các tướng chuẩn bị hành quân gấp. Bà chỉ định ba tướng Trần Vân, Ngô Quân và Lý Huấn mỗi người đem một đội quân nhỏ chia làm ba hướng xuống núi quấy phá các nơi. Riêng Trinh Nương cùng hai nữ tướng Hướng Dương và Hải Đường kéo đội quân chủ lực nhắm lỵ sở huyện Triệu Sơn thẳng tiến.
Khi ra trận, Trinh Nương mặc áo giáp vàng, chít khăn vàng, đi hia gót ngà, một tay cầm cờ vàng một tay cầm kiếm ngồi trên đầu voi oai phong lẫm liệt như một thiên thần. Trinh Nương đã huấn luyện được một đội quân luôn đi sát bên mình voi, nương sức voi mà chiến đấu. Hai nữ tướng Hướng Dương và Hải Đường luôn cỡi ngựa đi sát bên cạnh chủ tướng. Sự phối hợp đặc biệt này đã làm cho nghĩa quân càng lên tinh thần.
Ngàn Nưa không xa cách huyện lỵ Triệu Sơn bao nhiêu. Trước kia khu vực núi Nưa vẫn là nơi tàn quân của phản tướng Sĩ Huy ẩn náu. Lực lượng này hay kéo về khuấy phá, uy hiếp các huyện xã ở quanh khu vực. Vì thế, chính quyền địa phương đã cho xây dựng gần huyện lỵ Triệu Sơn một căn cứ quân sự lớn để tiện việc bảo vệ cho huyện lỵ và các làng xã gần đó. Người ta vẫn quen gọi căn cứ ấy là đồn Trấn Sơn. Đồn Trấn Sơn có một hệ thống phòng thủ vững chắc gồm một đội quân khoảng 500 người dưới quyền chỉ huy của một viên đốc binh. Mới đây, viên huyện lệnh Mã Quyên nhận được chỉ thị của Thái thú Tiết Kính Hàn cảnh giác phải triệt để đề phòng dân bản xứ nổi loạn. Mã Quyên lo sợ bèn đến gặp viên đốc binh đồn Trấn Sơn là Đào Thành Lạc để hỏi thăm tình hình. Mã Quyên hỏi Đào Thành Lạc:
-Quan đốc binh nhận được chỉ thị của quan Thái thú chưa?
Đốc binh Đào Thành Lạc cười khinh bạc:
-Nhận được rồi. Quan huyện cứ an tâm. Một Triệu Ẩu ấy làm nên trò trống gì mà ngại? Quan huyện cứ việc thẳng cẳng mà ngủ, nay mai ta sẽ bắt sống Triệu Ẩu đem về cho quan huyện xem.
Huyện lệnh Mã Quyên vẫn chưa yên lòng:
-Ta nghe nói Triệu Ẩu này võ nghệ cao cường lại nhiều mưu trí. Quan đốc binh không nên khinh thường quá đôi khi lại hư việc đó. Binh pháp dạy “tiên hạ thủ vi cường”, sao quan đốc binh không thử đem quân lên núi Nưa diệt chúng tận gốc để trừ hậu hoạn?
Đào Thành Lạc cười, vẫn giọng ngạo mạn:
-Dẫu cho mười Sĩ Huy còn sống ta cũng xem như cỏ rác huống gì một Triệu Ẩu! Ta đâu cần nhọc công leo núi phá rừng làm gì? Cứ ngồi đây chờ giặc đến quật cho chúng một trận là xong! Đó là kế dĩ dật đãi lao (lấy khỏe đợi mệt) vậy! Quan huyện cứ yên chí!
Mã Quyên thấy Đào Thành Lạc nói cứng như vậy cũng hơi yên tâm. Thế nhưng khi ra về Mã Quyên vẫn khuyên Đào Thành Lạc:
-Cẩn tắc vô ưu, dù sao cẩn thận vẫn hơn!
Thật ra Đào Thành Lạc đã truyền cho tất cả quân sĩ phải kiểm soát lại khôi giáp, khí giới và túc trực sẵn để đợi lệnh. Hôm sau quân do thám đưa tin hỏa tốc cho biết nghĩa quân núi Nưa đang tiến về huyện Triệu Sơn. Đào Thành Lạc nghe báo cười ha hả nói:
-Phen này ta quyết bắt sống Triệu Ẩu làm quà cho quan huyện Mã Quyên lác mắt chơi!
Đợi đến khi nghĩa quân tiến gần đồn Trấn Sơn đốc binh Đào Thành Lạc mới điểm bốn trăm quân xuất trận. Khi quân hai bên đối mặt Đào Thành Lạc mới đâm hoảng. Triệu Trinh Nương cỡi trên đầu con voi đi trước, một tay cầm kiếm một tay phất cờ trông rất lẫm liệt. Tả hữu Trinh Nương là hai nữ tướng cỡi ngựa trông cũng rất oai phong. Con voi bỗng rống lên một tiếng làm những con ngựa chiến của Đào Thành Lạc đều khựng lại. Trinh Nương chỉ lưỡi kiếm về phía Đào Thành Lạc nói lớn:
-Triệu Bà Vương đã đến đây, các ngươi muốn sống hãy xuống ngựa đầu hàng đi!
Đào Thành Lạc đã nao núng trong lòng nhưng vẫn làm cứng ra lệnh:
-Cung thủ hãy tập trung bắn vào con voi!
Nhưng lệnh truyền chưa dứt con voi đã gầm lên một tiếng rồi lướt tới dùng ngà đâm chết tươi một tên lính Tàu Ngô, đồng thời dùng vòi quấn một tên khác quăng vào đám loạn quân đang hoảng sợ lo chạy trốn. Những con ngựa chiến của quân Tàu Ngô thấy con voi hung tợn quá đều hoảng hồn quay đầu chạy dẫm đạp nhau hỗn loạn. Nghĩa quân thừa thắng đuổi theo chém giết rất nhiều. Đốc binh Đào Thành Lạc quá kinh hãi vội rút tàn quân về cố thủ trong đồn Trấn Sơn. Bà Vương thừa thắng chia quân làm hai cánh, một mặt bao vây đồn Trấn Sơn, một mặt tiến đánh lỵ sở huyện Triệu Sơn. Viên huyện lệnh Mã Quyên ở huyện Triệu Sơn không ngờ Đào Thành Lạc thua nhanh đến thế nên không kịp tính đường rút chạy. Khi nghĩa quân tràn vào lỵ sở thì viên huyện lệnh này đã bị loạn dân giết mất rồi.
Nghe được tin lỵ sở huyện Triệu Sơn đã mất, đốc binh Đào Thành Lạc càng khiếp sợ. Quân sĩ trong đồn cũng vô cùng hoảng hốt, hoang mang. Trong số quân sĩ ấy người bản xứ cũng nhiều nên Đào Thành Lạc rất lo sợ những người này sẽ trở cờ. Vì vậy Đào Thành Lạc bí mật lựa một số thuộc hạ thân tín, lợi dụng đêm tối, mở một đường máu chạy thoát vào rừng biệt tích.
Nghĩa quân hạ được căn cứ Trấn Sơn, chiếm được huyện Triệu Sơn quá dễ dàng đã khiến uy tín của Triệu Bà Vương nổi như cồn. Quân Tàu Ngô các nơi nghe tin đều khiếp vía. Trong khi đó trai tráng các nơi theo về giúp Bà Vương càng đông. Khí thế nghĩa quân càng lên cao. Bà Vương đã nhân thế chẻ tre, tiến chiếm thêm nhiều đồn lũy lân cận. Nghĩa quân tiến đến đâu quân Tàu Ngô tan rã đến đó.
Trong khi Bà Vương đang bàn với các tướng sẽ tiếp tục đánh chiếm những mục tiêu nào thì Triệu Tráng lại tìm đến. Bà Vương thấy mặt Triệu Tráng thì thất sắc hỏi:
-Huynh trưởng ta ra sao rồi?
Triệu Tráng khóc mà thưa:
-Huynh trưởng đã ra người thiên cổ rồi chị ơi!
Bà Vương nghe nói lặng người giây lát rồi bảo Triệu Tráng thuật lại những gì anh ta đã biết được. Nghe xong Bà Vương khóc nức nở:
-Ta đã biết trước chuyện đó sẽ phải xảy đến! Nhưng chính ta cũng có lỗi lớn trong việc gây nên cái chết oan nghiệt của huynh trưởng ta! Huynh trưởng ơi, công lao huynh trưởng nuôi nấng bao nhiêu năm em chưa đền đáp được một phân. Từ nay anh em xa cách mãi, khổ lòng em lắm huynh trưởng ơi. Em thề quyết sẽ trả mối thù này.
Rồi sực nhớ ra một chuyện, Bà Vương vụt hỏi:
-Thế hai đứa cháu ta bây giờ ra sao cậu có biết không?
Triệu Tráng thưa:
-Dạ, huynh trưởng đã bảo Triệu Hùng cùng bốn gia nhân đưa hai cháu lên trại Lâm An trước đó. Bây giờ hai cháu ra sao em cũng chẳng rõ. Chắc không đến nỗi nguy hiểm.
Bà Vương thở dài:
-Khổ thân hai cháu từ nay chịu cảnh mồ côi cả cha lẫn mẹ!
Triệu Tráng gạt nước mắt mà thưa:
-Xin hiền tỉ giảm bớt sầu bi, kéo quân về đánh huyện Nông Cống bắt viên huyện lệnh này giết đi để trả thù cho huynh trưởng!
Tướng quân Trần Vân nghe Triệu Tráng nói vậy liền lên tiếng can:
-Không nên! Tên huyện lệnh Nông Cống chỉ là kẻ thừa hành lệnh của tên Thái thú quận Cửu Chân thôi. Vả lại từ đây đến huyện Nông Cống khá xa, trong khi đó căn cứ Tư Phố gần hơn. Quân ta vừa thắng lớn, khí thế đang lên cao. Phải lợi dụng lúc toàn quân đang hăng hái tiến đánh Tư Phố ngay kẻo lỡ cơ hội! Chiếm được căn cứ Tư Phố, chiếm được trị sở quận Cửu Chân thì huyện Nông Cống coi như nằm trong tay ta rồi chẳng tiện hơn sao?
Mọi người đều khen phải. Bà Vương nói:
-Trần Tướng quân nói rất hợp ý ta. Căn cứ Tư Phố dù lớn và vững chắc hơn đồn Trấn Sơn nhưng với khí thế của quân ta hiện nay ta tin chắc sẽ hạ nó dễ dàng. Hạ xong cắn cứ Tư Phố thì huyện Nông Cống nằm trong tay ta rồi!
Ngừng một lát Triệu Bà Vương lại hỏi:
-Ai chỉ huy căn cứ Tư Phố?
Tướng quân Trần Vân thưa:
-Viên Đô úy Lỗ Huỳnh!
Như sực nhớ ra, Bà Vương hỏi:
-Có phải Lỗ Huỳnh là viên Đô úy nổi tiếng nhiều vợ mà chỉ sinh toàn con gái đó không?
Tướng quân Trần Vân đáp:
-Đúng vậy.
Triệu Bà Vương quay lại nói với hai nữ tướng:
-Gặp oan gia đây rồi! Trước đây lão này từng muốn gặp ta khiến chị dâu ta đã gây nên chuyện xáo trộn trong nhà. Bây giờ trời cho hắn thỏa mãn đấy! Hắn đã hại không biết bao nhiêu đời con gái Lạc Việt để truyền cái giống bóc lột ăn bám lên đất nước khốn khổ này! Chuyến này hai em phải giúp ta làm cho hắn biết mặt nữ kiệt nước Nam!
Hải Đường và Hướng Dương cùng nói:
-Chúng em nguyện ra sức với Bà Vương diệt trừ tên dâm tặc!
Thế là hôm sau Bà Vương tập trung quân kéo về căn cứ Tư Phố.
Tư Phố là một căn cứ lớn đóng trên tả ngạn sông Mã để bảo vệ quận trị Cửu Chân và yểm trợ các vùng lân cận. Căn cứ được đặt dưới quyền chỉ huy của viên Đô úy Lỗ Huỳnh. Viên võ quan này tuổi đã gần năm mươi và nổi tiếng hoang dâm vô độ. Thiên hạ đồn khi qua tuổi bốn mươi mà thấy vợ chỉ sinh toàn con gái, lão mượn cớ kiếm con trai để cưới thêm cả hàng chục nàng hầu. Đặc biệt là các nàng hầu này ai sống với lão được một năm mà chưa có thai lão lại cho về nhà để thay một nàng khác. Vì thế dân quanh vùng luôn bị quấy nhiễu bởi nạn tìm gái của lão. Tới giờ thiên hạ vẫn chưa biết lão đã có bao nhiêu con và đã có con trai chưa. Lão cũng đã có lần nhờ người hỏi cưới Triệu Trinh Nương nhưng không thành. Khi Thái thú Tiết Kính Hàn báo cho lão biết tin Bà Vương đang rục rịch khởi nghĩa ở ngàn Nưa, lão chỉ cười khảy:
-Mụ đàn bà đái không qua ngọn cỏ việc gì quan Thái thú phải ngại? Tôi đoan chắc với quan Thái thú trong vòng một tháng nữa tôi sẽ bắt tên nữ yêu này về làm tì thiếp cho quan Thái thú coi.
Tiết Kính Hàn cười:
-Tướng quân giỏi việc đó ai mà không biết!
Lỗ Huỳnh cũng cười đắc ý. Tuy đã hứa vậy nhưng Lỗ Huỳnh còn chần chờ chưa ra quân. Tới khi nghe tin đồn Trấn Sơn đã bị phá vỡ lão mới rối lên:
-Không ngờ mụ đàn bà này dữ thật! Ta phải ra tay ngay mới được!
Rồi Lỗ Huỳnh cho huy động quân sĩ chuẩn bị đi cứu huyện Triệu Sơn. Nhưng lão chưa kịp ra quân thì Triệu Bà Vương đã đến tìm lão. Nghe tin báo nghĩa quân đang tiến về căn cứ Tư Phố, lão tức giận nói:
-Phen này chúng bây tự tìm chỗ chết chứ không phải tại ta đâu nhé!
Thế rồi Lỗ Huỳnh kéo ngay năm trăm quân ra khỏi căn cứ dàn trận chờ đợi. Lúc quân của Bà Vương đã đến gần Lỗ Huỳnh vẫn còn dể ngươi thản nhiên ngồi trên ngựa để quan sát. Khi thấy viên nữ tướng mặc giáp vàng ngồi trên đầu con voi trắng đi trước, một tay cầm kiếm, một tay phất ngọn cờ vàng trông oai hùng quá, lão hơi chột dạ:
-Tất cả cung thủ hãy sẵn sàng!
Nhìn kỹ hơn Lỗ Huỳnh lại thấy hai nữ tướng khác cỡi ngựa đi hai bên nữ tướng cỡi voi trông cũng rất oai phong. Thấy là lạ, lão nghết mắt nhìn đợi cho họ đến gần hơn. Viên tướng đứng cạnh lão thấy vậy nhắc lão:
-Sao Đô úy chưa cho lệnh bắn?
Lỗ Huỳnh đáp:
-Từ từ. Lũ chúng bất quá chỉ là một đội quân ô hợp chưa được luyện tập kỹ càng đáng gì mà phải ngại? Quân ta sẽ tiêu diệt chúng trong chớp mắt!
-Đô úy nói phải. Nhưng thuộc hạ ngại con voi của chúng lắm. Quân ta chưa quen đánh nhau với voi bao giờ, cũng nên đề phòng mới được!
-Được rồi, có gì cứ việc bắn vãi tên vào con voi là xong!
Lỗ Huỳnh chưa kịp cất tiếng chào hỏi đối phương đã thấy viên nữ tướng cỡi đầu voi phất cao cây cờ vàng một cái rồi tiếng tù và đồng loạt trỗi lên. Lỗ Huỳnh cũng phất cờ lệnh thúc quân. Quân hai bên lăn xả vào nhau giao chiến dữ dội. Lúc đó Lỗ Huỳnh mới biết lão đã đánh giá lầm đối phương. Nghĩa quân của Triệu Bà Vương cũng chiến đấu dũng mãnh chẳng chút nhường bước trước đội quân thiện chiến của lão! Con voi trắng một ngà của Triệu Bà Vương càng lúc càng hăng đã lần lượt triệt hạ hết những tên lính Tàu Ngô năng nổ nhất khiến thế thắng nghiêng hẳn về phía nghĩa quân. Đô úy Lỗ Huỳnh liệu thế chống không nổi bèn kéo quân chạy về căn cứ đóng cửa lại cố thủ. Thái thú Tiết Kính Hàn vẫn theo dõi trận chiến từ đầu. Tới khi thấy đội quân của Lỗ Huỳnh tan vỡ, Tiết Kính Hàn sợ quá liền cùng vài thuộc hạ thân tín bỏ cả gia đình mà chạy trốn. Triệu Bà Vương thừa thắng kéo quân vây kín căn cứ Tư Phố. Hai ngày sau thì trong căn cứ sinh biến, có người mở cửa cho nghĩa quân tràn vào. Đô úy Lỗ Huỳnh lâm thế cùng phải tự sát.
Thấy nghĩa quân đã hạ được căn cứ Tư Phố, Thái thú quận Cửu Chân đã bỏ chạy, đồng bào quanh vùng đều vui mừng khôn xiết. Họ đã kéo nhau dắt bò gánh heo đến xin gặp Bà Vương để bái tạ và xin được khao quân. Số trâu heo dân chúng mang đến khao quân quá nhiều khiến các tướng sĩ đâm ra lúng túng. Quá cảm động trước thịnh tình của đồng bào, Triệu Bà Vương thân hành ra gặp họ để khích lệ và ngỏ lời cám ơn họ. Bà nói với dân chúng nghĩa quân chỉ xin nhận một phần nhỏ vừa đủ dùng còn bao nhiêu xin gởi lại đồng bào. Mấy vị phụ lão đại diện dân chúng thưa:
-Đây là một niềm vinh quang quá lớn! Ngót hai trăm năm sau thời Trưng Nữ Vương nay chúng tôi mới được thấy lại uy nghi nước cũ, chúng tôi vô cùng xúc động. Niềm vinh quang này có được là nhờ ơn Bà Vương, nhờ ơn các tướng và tất cả nghĩa quân. Vì vậy nên toàn dân chúng tôi nguyện xin đóng góp một chút gì để đền ơn Bà Vương cùng các chiến sĩ. Chúng tôi thiết tưởng một trận thắng quá vẻ vang, quá lớn lao mà các chiến sĩ chưa được tưởng thưởng cũng là một điều đáng tiếc. Chúng tôi thỉnh cầu Bà Vương cho mở tiệc khải hoàn để quân dân cùng vui một lần cho thỏa tình cá nước. Tất cả mọi phí tổn toàn dân chúng tôi xin gánh vác. Cúi xin Bà Vương chấp thuận cho.
Trước sự thỉnh cầu tha thiết của đại diện dân chúng, Triệu Bà Vương rớm lệ đáp lại với giọng xúc động:
-Thật tình ta đã có ý định tổ chức tiệc khải hoàn để khích lệ tinh thần nghĩa quân sau khi chiến thắng. Thế nhưng việc quân không thể dễ dãi, ta ngại tổ chức liên hoan sớm có thể khiến nghĩa quân quá ham vui mà ngủ quên trên chiến thắng. Giặc Tàu Ngô có thể lợi dụng cơ hội này để quật lại ta. Giờ đây việc phòng thủ đã vững, lại có sự thỉnh cầu của dân chúng, chư tướng được phép mở tiệc khải hoàn để quân dân cùng vui mừng chiến thắng.
Nghe Bà Vương nói xong quân dân đều hô lớn:
-Đa tạ Bà Vương! Đa tạ Bà Vương!
Một bô lão cao hứng quá đề nghị luôn:
-Nữ chủ tướng của chúng ta uy nghi diễm lệ chẳng kém gì thiên thần, chúng ta nên tôn Bà Vương thêm một mỹ danh thật xứng đáng: Nhụy Kiều Tướng Quân. Thưa quí vị tướng lãnh, quí nghĩa quân và đồng bào có đồng ý như vậy không?
Mọi người lại đồng loạt hô vang:
-Hoan nghênh Nhụy Kiều Tướng Quân! Hoan nghênh Nhụy Kiều Tướng Quân!
Đêm đó nghĩa quân lẫn dân chúng quanh vùng phủ quận Cửu Chân đã thể hiện tình quân dân cá nước một cách tuyệt vời. Ai nấy đều trọn vui!
Từ đó nghĩa quân lẫn dân chúng còn dùng mỹ danh Nhụy Kiều Tướng Quân để gọi vị nữ chủ tướng của mình.
Sau buổi tiệc mừng chiến thắng ở quận lỵ Cửu Chân, Bà Vương kéo quân tiếp tục bình định nốt những xã huyện nằm phía đồng bằng ở hữu ngạn sông Mã. Quá khiếp hãi trước khí thế của nghĩa quân nên quân Tàu Ngô mất hết cả ý chí chiến đấu. Quân của Bà Vương đến đâu quân Tàu Ngô tan rã đến đó. Con voi trắng một ngà Bà Vương cỡi được coi như biểu tượng của thần chết đối với quân Tàu Ngô. Hễ gặp mặt Bà Vương là chúng hết mong đường sống. Vì vậy ngoài danh xưng Triệu Ẩu, quân Tàu Ngô còn đặt thêm cho bà một danh xưng khác chứng tỏ sự khiếp hãi tột cùng của chúng: “Lệ Hại Bà Vương” (Vua Bà Hung Dữ). Chúng cũng nhắc nhở nhau phải lo tránh mặt khi gặp Bà bằng hai câu thơ của một thi sĩ nào đó sáng tác:
“Nhập sơn cầm hổ dị,
Đối diện Bà Vương nan!”
(Vào núi bắt cọp dễ,
Đối mặt Bà Vương khó.)
Chỉ trong vòng bốn tháng, toàn vùng đất thuộc quận Cửu Chân ở hữu ngạn sông Mã đều lọt cả vào tay nghĩa quân.
Triệu Bà Vương bèn chọn làng Bồ Điền để lập một căn cứ lớn, coi đây là tổng hành dinh tạm thời của nghĩa quân. Thiên hạ vẫn quen gọi căn cứ này là căn cứ Bồ Điền.