← Quay lại trang sách

7. Tính lại sổ đời

Ngày xưa tôi hay nghe các cụ nhắc về chuyện tuổi tác như:”Canh Cô Mồ Quả”, “Thân Tí Thìn, tam hạp”, “Dần Thân Tị Hợi, tứ hành xung”…, lung tung beng …Nghe hoài cũng đâm ra “hơi’ tin!

Tôi tuổi Canh Ngọ, là con út trong gia đình nên được cưng lắm, lớn lên đi du học ở Pháp, ra trường với bằng Bác Sĩ, sau đó lập gia đình. Có lẽ mọi người đều nghĩ vừa thành danh lại vừa thành công, như vậy là cuộc đời ưu đãi tôi lắm phải không?

Sự thực không phải như thế. Tuổi trẻ làm việc như điên …..Tuổi già ……

Gia đình tôi có sáu anh chị em ruột, vì loạn lạc, mỗi người mỗi ngả, trôi dạt qua Mỹ chỉ còn anh Cả, chị Ba, chị Năm và tôi, Sau gần ba chục năm tha hương, ai cũng thành trên “bảy bó”, trừ anh Cả tôi, năm nay đã 82 cái xuân xanh.

Tháng Tư 1975, gia đình tôi cùng gia đình anh Cả. Đi cùng lúc, đến cùng nơi, nhưng sau đó mỗi gia đình định cư ở thành phố khác nhau, ít có dịp gặp lại. Tôi an cư lạc nghiệp được mươi năm thì vợ tôi đòi ly dị, lý do giản đơn, vợ tôi muốn tôi mở phòng mạch riêng như những vị bác sĩ khác, tôi nhất định làm việc nhà thương, với số lương cố định.

Ngày lại ngày, cứ thế mà đưa đến chuyện đổ vỡ. Không hiểu nàng ” đầu độc” kiểu gì mà hai đứa con không muốn gặp tôi nữa! Tôi ở với chị Năm được vài ba năm sau đó thì sanh bệnh, chị tôi không trông chừng nổi nên gửi tôi vào Viện Dưỡng Lão. Những năm mới vào Viện, cô cháu gái tôi cố gắng liên lạc, gửi thư từ hình ảnh, báo cho các con tôi biết tình trạng của tôi, cô cháu còn cẩn thận gửi bằng thư bảo đảm, để chắc ăn là chúng sẽ nhận được tận tay, nhưng hoàn toàn vô vọng. Tôi không hề nhận được một lời thăm hỏi của những đứa con tôi đã săn sóc yêu thương từ thuở chưa lọt lòng!

Lúc mới nhập viện, tôi còn tỉnh táo, nhìn chung quanh phần đông là người bệnh, tôi phát nản! Thỉnh thoảng tôi lững thững ra ngoài đường chơi, đi loanh quanh một hồi lạc lối, thiên hạ thấy tôi lang thang tưởng là người điên, nên gọi cảnh sát đến chở về lại Viện, chắc cũng nhờ cái vòng nhựa đeo nơi cổ tay của tôi, nên họ biết tên tuổi và nơi cư trú. Vài lần như thế thì Viện chuyển tôi qua nơi dành cho dân ” đặc biệt”, thứ hay ngao du lạc bước như tôi, mỗi lần muốn đi ra cửa phải bấm số vào máy, nếu không thì chuông reo inh ỏi, mà tôi có thấy tôi gây nguy hiểm cho ai đâu! À, phải rồi, họ sợ nguy hiểm cho tôi và phiền cho Viện. Đi lạng quạng xe đụng nhẳm thì Viện chịu trách nhiệm!!!

Ở đây lâu không nói chuyện, tôi cảm thấy lưỡi hình như cứng đờ, cô cháu gái ở xa thỉnh thoảng lái xe vào thăm, tôi mừng đến ứa nước mắt, tôi muốn nói nhiều lắm, nhưng sao không ra lời! Cứ thấy cô cháu dí lỗ tai sát vào tôi để lắng nghe, là tôi biết tôi “có vấn đề” rồi đó! Thằng cháu trai vào thăm, mang giấy bút tặng cho tôi, sao đúng ý tôi thế không biết, ngày xưa tôi hay tìm mua, cất giữ đủ thứ loại bút viết.

Nhưng từ ngày vào đây thì thôi, quà cáp các anh chị hay các cháu tặng, chỉ giữ được vài hôm, rồi không cánh mà bay cả. Chỗ công cộng mà, bao nhiêu người ra vào tự do suốt ngày, bao nhiêu là “quý khách” như tôi, nhưng còn tỉnh táo hơn tôi ….. ai biết ai là ai, trong lúc mình nửa mê nửa tỉnh, mà phần nhiều mê nhiều hơn tỉnh.....

Chị Ba tôi ở gần nên mỗi tuần đều ghé thăm vài lần, chị ngồi cả giờ, và mỗi lần gặp, chị thường hay xoa bóp tay, vai cho tôi, tôi thích lắm, tuy ban đầu cũng hơi đau đau, khó chịu nhưng tôi vẫn để yên. Chị là người phụ trách giấy tờ và việc phúc lợi của tôi, hội họp, liên lạc với Viện hàng ngày, hàng tháng, để nghe báo cáo tình hình, thuốc men, chữa trị và theo dõi sức khỏe của tôi.

Có hôm chị Ba dẫn theo chị Năm, nhưng tôi không thích mấy, chị Năm mới vào ngồi chưa nóng chỗ đã đòi về, hình như chị Năm không chịu được “không khí” nơi đây! Mà dị ứng cũng phải, vừa bước vào cửa, trước khi đến phòng của tôi, phải đi ngang qua mấy dãy hành lang dài, nhìn vào các phòng thấy quí cụ nằm, hay ngồi xe lăn, nếu không rên rỉ thì gục đầu, vẹo cổ, im lìm bất động, trông nản lắm!

Người ngồi, kẻ nằm ngoẹo đầu ngủ, có người thì khóc la, hét nghe phát sợ, ở đây lâu ngày e tôi cũng sẽ phát điên hồi nào không hay. Nhìn chung quanh toàn người già bệnh, một số không đi đứng được, một số khác thì không còn biết trời trăng mây nước gì nữa cả. Tỉnh táo như tôi, ở trong hoàn cảnh này, không sớm thì muộn cũng xuống tinh thần theo là cái chắc! Dần dần thấy có thêm một số các cụ VN nhập viện, nên viện bắt đầu mướn thêm nhân viên người VN làm việc.

Mỗi lần cô cháu gái vào thăm thường hay chở các anh chị tôi theo, ai cũng già cả, lụm khụm, dắt díu nhau đến thăm tôi, tôi cảm động lắm! Mà nhỏ cháu tôi cũng khôn thiệt, đợi đến lúc tôi được đẩy ngồi vào bàn ăn rồi mới từ từ “chuồn êm” từng người. Tôi ngồi cùng bàn với ba người bạn nữa, ai cũng tự mình ăn uống được, nên không cần nhân viên giúp đỡ, chả bù với bàn bên cạnh, phần nhiều đều có người đút cho ăn, ông Hải cũng có cô y tá xinh đẹp ngồi cạnh chăm sóc!

Bên góc phải là chỗ ngồi của Bà Lan, lúc nào cũng thấy bà ta khóc thút thít, chắc là có tâm sự buồn gì đây! Đầu bàn là bà Smith, mặt lúc nào cũng rầu rầu, bữa kia tôi nghe lóm các cô y tá nói chuyện với nhau về hoàn cảnh bà Smith, thằng con trai bận làm ăn, không trông nom nỗi, đành phải gửi mẹ vào viện, thăm được hai lần, thì phải đi làm ăn ở tiểu bang khác, thế là từ đó biệt tăm. Ngày nào bà Smith cũng xin đẩy ra cửa trước để ngồi đợi cậu con trai. Thấy người rồi lại nghĩ đến mình, cũng không thua gì bà Smith, con tôi cũng biền biệt từ lâu.

Tuần rồi có một bệnh nhân mới nhập viện, thấy cũng vui tánh, tôi lân la làm quen, ông Hoàng bị tê liệt, phải ngồi xe lăn, nhưng đầu óc thì còn tỉnh táo, nên chúng tôi thông cảm nhau lắm. Tôi đi đứng tạm gọi là khá, mỗi khi ông Hoàng được tôi đẩy đi lòng vòng trong viện, ông ta mừng ra mặt, vui cười hớn hở. Mỗi lần như vậy tôi chợt nhớ câu:”Lá rách đùm lá tả tơi” vì tôi và ông Hoàng cũng như nhau, cả hai kẻ trước người sau, đều là “quí khách” nơi đây.

Càng ngày tôi càng hay quên, chân tay cũng yếu đi, cho đến khi không thể tự ăn uống một mình được nên các y tá phải săn sóc kỹ hơn. Tôi chỉ thích cô Lan thôi, mỗi lần ngồi bên cạnh đút tôi ăn, tôi phải ăn thật chậm rãi để nghe cô nói chuyện. Tôi không thích ông Tom chút nào, cứ hối thúc tôi, nhai nhai nuốt nuốt, ăn lẹ để cho kịp với mọi người! Ăn xong họ đẩy xe lăn cho tôi ra sân ngồi hóng gió rồi đẩy vào phòng ngủ trưa, bây giờ tôi hết đi nổi rồi, lên xuống giường cũng phải có người dìu. Nhiều lúc tôi muốn chết quách cho xong, sao cuộc đời con người khổ quá vậy? Nhớ ngày nào mình là người chăm sóc bệnh nhân, mỗi sáng đi một vòng trong nhà thương, thăm hỏi, xem biểu đồ từng giường bệnh nhân một, ra đơn cho thuốc. Bây giờ mình mới hiểu được tâm trạng của họ đây! Họ quên quên, nhớ nhớ, thậm chí có nhiều người quên cả thở luôn nữa là đằng khác! Có ai vào đây mà vui vẻ được đâu nhỉ?

Thấm thoát mà cũng đã bốn năm, tôi biết tôi không còn sống bao lâu nữa, ăn uống cũng hết nổi, họ bắt đầu thông ống vào bụng, để cho thức ăn vào. Trước tôi đã ký giấy, nếu đến bước đường cùng, xin hãy để cho tôi được “tự nhiên”, không cần ống thở, hoặc cấp cứu hồi sinh, đeo dây nhợ chằng chịt, cố giữ chút hơi tàn trong khi linh hồn cũng như trí não đều đã không hiện diện nữa.

Tôi không muốn làm phiền thân nhân và người chung quanh của tôi. Nghĩ lại cuộc đời cũng buồn cười, có nhiều cụ được con cái lo cho đầy đủ, nhất định không gửi các cụ vào đây sống, nếm mùi đời cho biết, thì các cụ lại làm eo, làm xách, đày đọa con cái, nổi cơn “chướng ách”. Hay là phải “thấy quan tài mới đổ lệ”, Tôi nghĩ nên mời các cụ vào đây thăm viếng để cho biết cái cảnh Lão – Bệnh của chúng sanh, và cảm nghiệm cái phong vị cô đơn lúc một mình “xuống núi”! Nhìn thấy để biết trân quí hơn khi bên mình có những đứa con hiếu thảo thương yêu.

Một giờ sáng, ngày một tháng mười một, hai ngàn lẻ tư, (1-11-2004) tôi trút hơi thở cuối cùng, giả biệt trần gian!

Sáng hôm qua thằng cháu tôi còn chạy vào thăm tôi nhưng không ai biết đó là lần cuối. Khuya nay, chết rồi lại thấy thằng cháu chạy vào. Nhất định là Viện đã gọi điện thoại báo tin. Lúc một giờ sáng họ phải gọi một thanh niên trai trẻ, chứ không gọi mấy bà chị già, sợ lái xe đêm khuya sinh thêm vấn đề, hay tai nạn.

Hồn tôi bay bổng trên cao, xác tôi được đậy kín trùm lên đầu bằng tấm vải trắng, cháu tôi vẫn ngồi bên cạnh lẩm nhẩm niệm kinh cho tôi. Ban đầu tôi mừng quá, ngỡ là con trai tôi đã hồi tâm quay về thăm tôi vào phút cuối! Nhưng nhìn kỹ lại, thì ra con trai của anh Cả đã ở bên tôi cho đến gần sáng, khi nhân viên nhà quàn mang băng ca tới đẩy xác tôi rời Viện.

Hành lang buổi sáng sớm yên tĩnh, cũng giống như những giờ có thân nhân vào thăm, mặc dầu nhân viên lui tới, những bước chân nơi hành lang vẫn lặng lẽ nhẹ nhàng như không muốn phá tan cảnh êm đềm tĩnh mịch của những người đang chờ sang thế giới bên kia.

Vâng, tôi biết tôi tuổi “Canh ngọ”, “canh cô mồ quả “, như các cụ ngày xưa thường nói, về già tôi sống cô đơn, không con cái viếng thăm, nhưng ít ra tôi còn được chút may mắn, các anh chị và các cháu tôi đã ở bên tôi, đã thăm nom và tiễn đưa tôi đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Ai rồi cũng qua ngưỡng cửa:” Sanh, Lão, Bệnh, Tử”, tôi đã trả sạch nợ trần. Bây giờ tôi đã được về quê cha đất tổ, hồn lâng lâng muốn đi đâu cũng tới trong chớp mắt, không còn hạn chế nào của không gian hay thời gian.

Giờ đây ở cõi hư vô, tính lại sổ đời, tôi muốn tìm hiểu tại sao tôi xuất thế và với sứ mệnh gì. Ra đời, đi học, đỗ đạt, đi làm nuôi vợ nuôi con. Một cuộc sống bình thường, tận lực làm việc trong khả năng của mình, cũng như tất cả những ai lương thiện trên đời.

Tôi không phải là một người thông minh xuất chúng, cũng không phải là “anh hùng hào kiệt”, không làm gì “cứu nhân độ thế ”. Nhưng cũng không hề làm chuyện ác, nói lời ác, hay dù suy nghĩ đến chuyện ác cũng không dám.... Mẹ đã dặn ý nghiệp tội còn nặng hơn cả khẩu nghiệp mà!.

Tôi từ giả cõi đời ở tuổi 75, nếu muốn tìm lại quá khứ, tôi phải lùi lại hơn 80 năm trước. Cha mẹ tôi đã ở tuổi thành nhân, nghĩa là các cụ đã sinh ra từ thế kỷ trước, cái thời phong kiến với những đạo lý Khổng Mạnh xa xưa mượn của nước láng giềng rồi giữ luôn quên trả lại.

Ấy là thời theo thuyết “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô“. Một con trai là có một con, 10 con gái có cũng như không, ý nói sẽ theo chồng về lo gia đạo người khác. Cha mẹ tôi sinh trưởng trong cái văn hóa ấy. Cũng như mọi gia đình phong kiến khác, phải có vài đứa con trai để “nối dõi tông đường”. Mặc dầu tôi đã có một anh trai đầu “làm vốn” rồi, nhưng vẫn chưa chắc. Vì cái câu “nhất nam viết hữu....” ấy, có một địch thủ là câu:

“Anh khoe anh có 5 con trai à? Nó là cái thá gì, nếu chưa có đứa nào lên đậu “!!!

Câu ấy phải phát minh ra từ cái thời chưa có thuốc chủng đậu mùa, thảo nào người ta chưa chắc là phải!

Ấy thế mà dù khi thuốc chủng đã phát minh, người ta vẫn muốn có vài đứa con trai để “nắm dao đằng chuôi” cho chắc ăn.

Trong tình hình cả dòng họ mơ tưởng thêm vài đứa con trai ấy, mẹ tôi lại liền bốn năm, mỗi năm cho ra đời một tiểu thư!!!!!!!!!!!! Một thất vọng cho cả nhà, một tủi thân cho mẹ tôi. Làm mẹ một bầy con gái, mẹ tôi không được trọng vọng lắm, địa vị Nhất phẩm Phu nhân cũng bấp bênh, nếu chẳng may có một cô “gái ngoan” nào sinh ra được vài thằng nhóc để làm giống cho cha tôi!

À, Tôi thấy rồi! Đây là nhiệm vụ vì sao tôi đã sinh ra đời: Tôi là thằng Con Trai Út, là trung tâm của vũ trụ tí hon này. Tôi đem lại hạnh phúc cho gia đình đã chờ đợi tôi mòn mỏi. Tôi đem lại vinh dự cho mẹ tôi. Tôi làm cho địa vị trong gia đình của mẹ tôi thêm vững chắc.

Tôi đã là Út, Bé Út, Em Út, Thằng Út, Cậu Út!!!!!!!!!!

Tôi được cưng chiều từ thuở mới lọt lòng, cho đến khi khôn lớn.

Thế nhưng những năm cuối cùng mới thê thảm làm sao!!!!!!!!

Mẹ tôi, cuộc sống cũng không ngọt ngào lắm trong thời kỳ đổi đời: Ông thành thằng, thằng hóa ra Ông. Một bầy con bị bắn tung ra khắp bốn phương trời. Những năm về già mẹ cũng sống cô đơn trong một ngôi chùa trên núi.

Mẹ ơi! Con đã ra đời vì mẹ, Con đã được mẹ thương yêu vô cùng. Giờ đây con sẽ tìm mẹ bất kỳ ở cõi Ta Bà nào. Con sẽ được mẹ ôm vào lòng như thuở sơ sinh, những ngày hạnh phúc sung sướng nhất đời của mẹ con mình. Con muốn nói con thương mẹ cũng vô cùng! Dù ở thế giới này hay thế giới U Linh nào bên kia!

Mỹ Ngọc

11/1/2004