← Quay lại trang sách

11. Dây tơ “đồng”

Thập niên bốn mươi, Ba tôi gia nhập Thanh Niên Tiền Tuyến, giỏi về máy móc, thích phát minh, sáng tạo, nên được giữ một chân làm việc ở phòng Tham mưu. Nhân một hôm ngồi trực văn phòng, bỗng có một cú điện thoại gọi vào xin nói chuyện với cấp Chỉ Huy Trưởng, bị “ám ảnh” bởi giọng nói dễ thương êm tai của cô Tổng Ðài, ba tôi nào muốn ngừng, cứ kiếm chuyện nói mãi, vừa nói vừa suy nghĩ tìm cách làm sao quen và gặp được tận mặt cô nàng, thời may sao khi nghe ba tôi làm ở Bộ Chỉ Huy, cô nàng bèn hỏi:

– Tôi nghe nói các anh ở Bộ Chỉ Huy có rất nhiều sợi dây dù của đồng minh thả xuống phải không?

– Ðúng thế, chị cần dùng thứ ấy làm gì?

– Dạ để buộc vào “xắc” tay cho đẹp.

– Giây ấy bền chắc vô cùng. Nhưng người ta kiêng không bao giờ dám tặng nhau.

– Sao vậy anh?

– Thì tại vì nó bền chắc hơn dây tơ hồng nên người ta sợ cho thì buộc chặt lấy nhau!

– Anh không cho thì thôi, chưa gì đã bịa chuyện.

– Nói đùa thế chị cần bao nhiêu, tôi gởi cho.

Trong trí ba tôi đã sắp đặt kế hoạch dò xét trước khi tấn công.

– Ngày mai tôi không rảnh, nhưng sẽ cho tùy phái mang đến cho chị.

Ngày hôm sau, dĩ nhiên tùy phái và ba tôi cũng là một, ba tôi đích thân mang gói dây dù đến cho cô Tổng đài, vừa trao gói quà, vừa cố vận dụng hết thính giác, thị giác để thu thập tất cả chi tiết về người đối diện. Muốn kéo dài phút gặp gỡ ngộ nghĩnh nhưng đành phải từ giã vì sợ kế hoạch bị gãy vỡ.

Ngày xưa con gái cha mẹ đặt đâu ngồi đó, nhưng nếu là con trai thì môn đăng hộ đối cũng quan trọng hàng đầu. Là con của “quan lớn”, từ chuyện ba tôi quen me tôi rồi sau đó đi đến chuyện hôn nhân, cũng phải tranh đấu dữ lắm. Năm 1946, ba me tôi lấy nhau, bắt đầu xây dựng tổ ấm bằng một cuộc sống chung với với đại gia đình đúng theo với nề nếp của thời tàn phong kiến!

Thế mà đời vẫn chưa yên.Hạnh phúc lứa đôi chưa được hưởng bao lâu…Nhật hạ Pháp…VM hạ Nhật… Ðổi chánh phủ, đổi chính thể, đổi màu cờ, đổi qua đổi lại…Chỉ những thanh niên của thời đại là… lãnh đủ.

Vì là trưởng ban của một xưởng làm vũ khí chống Pháp, ba tôi còn phải bị ngồi tù Tây bao nhiêu năm, me tôi vừa lo nuôi con thơ dại, vừa phải đi bới xách thăm nuôi!

Khi được dọn ra riêng, từ căn nhà lá “thơ mộng” đầu tiên ở Khe Trò, phải bỏ tiền ra mua từng tấm tranh, sợi lạt, cây tre, tự xây cất từ đầu đến cuối, thật đúng nghĩa với câu “Một mái nhà tranh, Hai quả tim vàng”. Cho đến căn nhà ở Tân Kiểng, với bốn bức tường xiêu vẹo, hai mái tranh mục nát, để lộ trăng sao trên trời. Nhưng cũng là những ngày hạnh phúc tuyệt vời bên nhau.

Lắm lúc cao hứng ba tôi hay đọc bài thơ ông nội tôi làm riêng cho ba tôi, làm tôi cũng thuộc lúc nào không hay:

“Sum ơi nghe cậu dặn đôi lời

Gắng lấy học hành bớt chuyện chơi

Thấm thoát mỗi năm thêm mỗi tuổi

Làm sao cho xứng ở trên đời

Ở đời chỉ lấy phúc mà đong

Ăn ở thủy chung cứ một lòng

Xảo trá ngược xuôi đừng học lấy

Làm sao cho xứng chữ con giòng.

Những bài thơ dạy dỗ từ thuở bé thơ như đã nhập vào trong máu, mặc dù thế sự thăng trầm, trải qua những ngã rẽ bất ngờ, tản cư, lên bưng, chế thuốc súng kháng chiến…Vào tù ra khám vì tội đã là một thanh niên, và đã muốn làm gì cho đất nước…

Dần dà rồi cũng tìm ra được con đường chính. Ba tôi vào trường huấn luyện sĩ quan, thành một quân nhân…cứ theo ánh đuốc trước mặt mà đi…

Tháng Tư, 1975, mất nước, cả gia đình trôi dạt qua Mỹ, bỡ ngỡ nơi xứ lạ quê người, may nhờ có cô tôi đã lập nghiệp ở đây lâu rồi, tận tình giúp đỡ, gia đình tôi phải làm lại từ đầu. Không còn cái cảnh ông chồng đi làm nuôi hết cả nhà như ở VN, không còn người giúp việc hay chú tài xế, mọi việc tất cả mọi người trong gia đình phải tự sắp xếp, lo liệu. Me tôi cũng phải học lái xe, đi xin việc như bao nhiêu người khác. Con cái ngoài giờ học phải đi tìm việc làm thêm để phụ giúp cho gia đình.

Rồi cũng “nhập gia tùy tục” đàn con như bầy chim non đã đủ lông cánh, sau khi lập tiểu gia đình thì lập tức bay đi xây tổ ấm tản mác khắp nơi! Không phải như bên VN, một ngôi nhà chứa cả đại gia đình, vợ chồng, con cháu chắc, gì cũng ở chung dưới một mái nhà. Lối sống ở đây, người Mỹ họ theo thuyết “cá nhân”, biệt lập, mỗi người một cái xe riêng, con đến 18 tuổi cũng dọn ra riêng, Phải tự lập không thể ỷ lại vào người khác!

Tháng Ba, 1985, một buổi chiều sau khi đi làm về, ba tôi ra vườn, đào đào xới xới, vì quá sức, đã tự ý gây ra tai biến mạch máu não. Ông vào nằm nhà thương mất một tháng, và mất thêm hai tháng tập luyện cơ thể. Cũng may là mạch máu não chỉ sưng chứ không bể, thế mà cũng hại đến trí óc không kém. Ba tôi chẳng nhớ gì cả, cử động cũng không được, một nửa phần cơ thể như tê liệt.

Sau khi ra khỏi nhà thương, mỗi ngày vẫn phải chở ba tôi vào lại phòng tập để tập đi, tập viết, tập nói, như một đứa con nít phải tập lại từ đầu. Trong vụ này me tôi vẫn là người khổ cực nhất, lúc ấy phải vừa đi làm, vừa chăm sóc cho ba tôi. Nhất là sau khi về lại nhà, không đi đứng mà phải ngồi xe lăn, không ăn uống một mình được, con cái đã lập gia đình đi xa cả, chỉ còn lại thằng em út thay thế các anh chị lo phụ me tôi. Thế mà mấy năm sau, nhờ sự chăm sóc cẩn thận nghiêm túc của me tôi, ba tôi khoẻ mạnh gần như bình thường để tiếp tục làm việc thêm vài năm trước khi về hưu trí.

Thật cám ơn Trời thương gia đình tôi, năm ấy ba tôi đã 64 tuổi, ở tuổi này mà bị tai biến mạch máu não thường khó lòng qua khỏi, các bạn của ba tôi bị trường hợp này, phần đông đều đi về cõi vĩnh hằng, hẹn nhau bên kia thế giới cả! Duy chỉ có ba tôi, có lẽ nhờ sự tập luyện bền chí cũng như sự săn sóc kỹ lưỡng của me tôi bên cạnh, nên ba tôi mới còn “thọ” được tới ngày nay.

Tôi nhìn ba me tôi ngoài cặp mắt “kính trọng”, phải nói còn có sự “khâm phục” nữa thì đúng hơn. Cả một cuộc đời me tôi hy sinh cho chồng con, từ ngày đầu về làm dâu nhà chồng cho tới nay, trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, lúc nào me tôi cũng có bên cạnh ba tôi, trừ những năm xưa, ba tôi bị tù đày, và khi còn trong Hải quân, phải đi cắm trại hoặc đi công tác xa, me tôi ở nhà lo chăm nom con cái.

Năm 1987, lần đầu tiên trong đời me tôi đi du lịch một mình, anh chị Cả tôi ở Singapore, mời me tôi đi chơi một chuyến, sẵn dịp qua thăm cháu nội luôn. Lúc ấy ba tôi còn đi làm, bận rộn với công việc nên có nhớ me tôi, chắc cũng để “trong lòng”?

Năm nay ba tôi đã 82 cái xuân xanh, hai ông bà cụ đã về hưu, quanh quẩn bên nhau, me tôi là “tài xế thường trực” của ba tôi. Mùa lễ Tạ Ơn 2004, sẵn nghe tin mộ bà ngoại tôi ở ngoài Huế sắp bị dời đổi, me tôi bàn qua tính lại thế nào mà cuối cùng anh chị Cả ra lệnh:

– Các em bên Mỹ sắp xếp lo cho ba, anh chị mời Me đi nghỉ hè, xả hơi một chuyến.

Thường thì lúc nào ba me tôi cũng đi đủ đôi đủ cặp, nhưng bây giờ sức khỏe ba tôi yếu lắm, không cho phép đi xa, thế là ông cụ “đành” phải chịu cho bà cụ đi xa mười hai hôm! Các anh chị em ở Mỹ, sắp xếp, chia ngày giờ để trông nom ba tôi, cho me tôi được yên lòng đi nghỉ phép! Thật ra đường bay từ Mỹ về Á Châu quá dài, chỉ việc ngồi trên máy bay cũng đã mất cả ngày đường, thành ra đi có mươi ngày chả đủ vào đâu!

Chắc các bạn biết đến bản nhạc “Bảy ngày đợi mong” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh chứ nhỉ? Chuyến này ba me tôi phải hát bài “Mười Hai ngày đợi mong”, nghe thì đâu có bao lâu, nhưng tôi đoán chắc là ba tôi thấy lâu lắm! Chở me tôi lên phi trường Los Angeles, chờ me tôi vào trong phòng đợi, anh và em trai tôi mới quay về, hai ngày đầu ở nhà em trai tôi, có mấy đứa cháu nội lăng xăng, chắc cũng làm ba tôi quên “đợi mong” một tí tẹo! Cuối tuần, em Út chở ba tôi về lại nhà, đổi phiên gác qua chị Tư, và tôi, chiều hôm ấy mới lái xe đến tiếp tay chị tôi. Mới bước vào nhà, đã nghe ba tôi hỏi:

– Me đang ở mô? Răng lâu về rứa? Khi mô me về? …

Ngày hôm sau, chị Tư vác đơn đi xin việc, cũng chở ba tôi theo, buổi trưa về lại nhà, tôi từ trong sở gọi hỏi thăm chị xem có gì lạ không, đang nói chuyện với chị Tư, nghe điện thoại trong phòng nhấc lên, chị tôi chạy vào xem, thấy ba tôi đang cầm điện thoại mở lên nghe, lệ thường khi có me tôi ở nhà, ba tôi không hề bao giờ nghe điện thoại, dù có “nhờ” ba tôi nhắc lên nghe dùm. Hình như ba tôi tưởng me tôi gọi về, nên hể điện thoại gọi tới nhà là ba tôi nhắc lên ngay, trong điện thoại, tôi nghe giọng ba tôi cười mà như Khóc!

Có một buổi sáng, mới 5 giờ mấy, thấy cửa phòng ngủ ba tôi đóng nhưng ánh đèn bên trong hắt ra, chị Tư tôi đến gõ cửa hỏi thăm, mở cửa ra đã thấy ba tôi thay đồ đàng hoàng, ngồi nơi bàn làm việc của me tôi, tay còn cầm tờ giấy me tôi ghi ngày giờ nào sẽ đi đến những đâu, tay kia còn đang cầm tấm hình me tôi ….ngắm nghía! Trên bàn, bộ máy cạo râu để sẵn.

– Ba làm chi dậy sớm rứa?

– Ba cạo râu, thay đồ để chút đón me.

– Hôm nay me chưa về, mới có mấy ngày ba à!

Chị Tư trông nom ba tôi ba ngày, đến phiên tôi ghé lại đổi ca trực, cứ mỗi lần vừa vào đến cửa là ba tôi lại hỏi:

– Khi mô me về? Răng lâu rứa!

Hôm nay tôi chở ba tôi lên “tiểu Sài Gòn” thăm cô tôi, ở lại dùng trưa xong, chở ba tôi qua nhà em Út, sẽ gửi ba tôi lại đó, và cuối tuần em tôi chở về lại cho tôi trông hai ngày cuối tuần. Mười hai ngày me tôi đi không lâu, nhưng nghe ba tôi nhắc hoài khiến tôi cũng sốt ruột, thấy sao mà lâu thiệt! Buổi chiều cuối tuần, hai chị em tôi ngồi ăn cơm tối với ba tôi, ba tôi dặn:

– Nì, Ba không theo Út về trên nớ nữa mô nghe, ba chỉ thích ở nhà thôi!

Hai chị em tôi nháy nhau cười quá xá. Nghe em Út tôi kể hôm qua gọi điện thoại về Sài Gòn cho ba tôi thăm me tôi, mà có nói đựơc gì đâu, cả hai cùng xúc động, nói không nên lời, chỉ có khóc là nhiều nhất.

Còn hai ngày nữa me tôi về, ai cũng trông dữ, nhất là ba tôi, hôm nay chị Tư hỏi ba tôi xem muốn đi đâu chơi không, ba tôi bảo:

– Không, không đi đâu cả, phải ở nhà để me về, có người mở cửa.

Hôm nay me tôi về, tôi hỏi xem ba tôi có hồi hộp không, ba tôi bảo:

– Hồi hộp từ đêm qua.

Sáng nay ba tôi dậy thật sớm, tắm rửa, thay quần áo, chả hiểu đi đâu vào 5 giờ sáng thế không biết! Em Út tôi sẽ đón me tôi từ phi trường Los Angeles chở thẳng về San Diego, máy bay đến là 8 giờ sáng, nhưng chuyến bay quốc tế vào Mỹ, phải bị khám xét hành lý, thêm mấy tiếng lái xe từ đó về đây, phải đến trưa mới tới nhà.

Chị Tư chuẩn bị thức ăn trưa và tối rồi đi làm, tôi ở nhà cũng sốt ruột, nên chở ba tôi đến văn phòng tôi cho qua giờ, trên đường về, ghé chợ mua một bó hoa cho “cụ ông” tặng “cụ bà”. Gần đến giờ, em Út xi-nhan gọi điện thoại cầm tay cho hay, tôi mang cái ghế ra để đàng trước cửa cho ông cụ ngồi ôm bó hoa chờ. Xe đến nơi, me tôi vừa bước vào, ba tôi đứng bật dậy, mắt sáng rỡ, ba tôi cười ra tiếng …KHÓC! Hai cụ ôm nhau mừng, nghẹn ngào, tôi lo chụp hình, em Út quay phim, ráng thu hết giây phút “thiêng liêng” cảm động vô ngần này. Hai cụ dắt díu nhau vào phòng khách, ngồi xuống, ba tôi, chắc là quá “xúc động” lại …khóc tiếp! Trời đất ơi, tôi chưa thấy ai mùi như ba me tôi, khóc tới khóc lui, đến ba bốn bận mới ngưng, me tôi đùa:

– Chắc mai mốt đi chuyến nữa.

– Ði mô cho anh theo với.

Bây giờ đi đâu ba tôi cũng theo me tôi cả, thậm chí lên nhà em Út chơi, buổi trưa ba tôi đi nằm nghỉ, cũng dặn me tôi:

– Ði về nhớ gọi anh nghe em.

Cả nhà ai cũng cười chọc quê ba tôi, ba tôi cũng cười theo mà thôi. Tôi cười nhưng nghĩ lại cũng nguy hiểm, rủi mà ba tôi quá xúc động, có chuyện gì chắc nguy to!

Bây giờ ba tôi đã ngoài 80, đi đâu cũng phải chống gậy, cả hai ông bà cụ tai nghe yếu, nhiều khi ông nói gà, bà nói vịt, có những chuyện kể nghe mà cười bể bụng. Ba tôi có tài ăn nói có duyên “tán” me tôi hay lắm, những lần đi ăn ngoài mừng sinh nhật, hay kỷ niệm cưới, tôi hay dặn nhỏ ba tôi “nhớ hôn me nghe”. Thế là vào tiệm, vừa ngồi vào bàn là ba tôi hỏi ngay “hôn chưa, hôn chưa”.

Ngày tôi còn nhỏ, tôi nhớ có thấy ba tôi chế ra một cuộn băng, cho chạy hoài tới khi nào mình chán, phải tắt máy mới chịu ngưng, cái băng cassette chỉ nói có mỗi một câu:”Anh vẫn yêu em như hai mươi năm về trước”. Ba tôi nghịch lắm, lại có máu tếu trong người, ngược lại me tôi là gái “đất Thần Kinh”mà, tánh tình rất kín đáo, cổ kính và rất “xưa”.

Người xưa thường dùng danh từ “Dây Tơ Hồng” để nối kết cho các cặp trai gái nên duyên vợ chồng. Từ ngày sang Mỹ, tôi thấy dây tơ hồng coi bộ thật mong manh, nhiều cặp vợ chồng lấy nhau đã hai mươi, ba mươi năm, thậm chí các ông già bà cả, gần đất xa trời, vẫn còn đâm đơn ly dị nhau! Có nhiều cặp, tưởng sẽ ăn đời ở kiếp, yêu nhau từ thuở xa xưa, cùng khổ cực tạo dựng nên cơ nghiệp, con cái ngoan ngoãn, thành danh, thế mà không hiểu vì lý do gì, hai vợ chồng lại đùng một cái, chia tay nhau, bà con, bạn bè cứ ngẩn ngơ thắc mắc? Ngày xưa còn nói đến câu “tình nghĩa”, vợ chồng ăn ở với nhau hết tình, còn nghĩa, sang đây không còn có cái màn đó đâu nữa. Hết tình, thì nghĩa cũng “tung cánh bay đi tìm tổ … mới”! Có khi thì cũng còn yêu nhau, nhưng tại tham lam, muốn vừa có vợ, vừa có “sơ cua” thêm người yêu, thế là “dứt đường tơ” thôi!

Riêng ba me tôi, “dây Tơ Ðồng” đã buộc chặt đến tuổi suốt gần một thế kỷ, mong rằng các con cháu trong gia đình, cũng như mọi người đều nắm chặt được dây Tơ Ðồng ấy, như chuyện tình của ba me tôi thì lý tưởng biết bao!

Tôi không như ai khác, đợi các cụ ngồi trên nóc tủ bàn thờ, rồi mới “tung hô vạn tuế” nói thương, nói nhớ cha mẹ. Tôi tin rằng chúng đã tận lực của kẻ làm con, và riêng tôi luôn cầu mong ba me tôi sẽ đi bên nhau, ngoài vui vẻ, hạnh phúc, dồi dào sức khỏe, còn mãi mãi thương quý nhau, tình mãi mãi vẫn nồng nàn như thuở ban đầu, để không thấy bơ vơ lúc còn được sống chút đoạn cuối đời bên con cháu.

Giờ đây nhìn hai đấng sinh thành, tuổi trời đang đếm tháng, đếm ngày, dắt díu nhau tản bộ quanh vườn, tôi như người tỉnh ngủ, cảm thấy thấm thía sâu xa: Tình Già đúng thật là một mối tình quý giá nhất trên đời!!!

Thương Yêu về Ba Me nhân dịp kỷ niệm 59 năm cưới

Mỹ Ngọc 2005