25. Bà Phù Thủy Con đang viết về Me (Linh Bảo)-và 22 tháng 4 năm 2024 Me đã vĩnh viễn ra đi-R.I.P Ma
Ngày xửa ngày xưa, có một bà… già về tuổi tác, nhưng nhìn bề ngoài, không ai ngờ bà đã tám bó.
.
Bà sống trong một ngôi nhà lớn, có bốn phòng ngủ, cộng thêm một phòng rất rộng dành làm phòng vẽ. Bà có hai đứa con gái ruột và hai đứa con gái nuôi, nhưng đứa nào cũng ở xa lắm, thỉnh thoảng mới gọi điện thoại về thăm hỏi. Cả ngày bà loay hoay ở khu vườn sau, bà chỉ tưới cây, ngắm cây cảnh không thôi, cũng đủ hết giờ. Bà trồng đủ thứ cây ăn trái, hoa quả, phần đông những thứ bà trồng đều phải làm được việc gì ích lợi, mới “được phép” chen chân vào khu vườn sau của bà.
Khách thân lắm đến thăm, mới được mang ra vườn giới thiệu với từng tên cây cỏ của bà trồng. Cây thì phải ra hoa quả, lá ít nhất phải là một vị thuốc, có thể bỏ vào làm trà, hoặc ăn như rau sống.
Nhắc đến trà, khách quí đến chơi sẽ được mời uống chén trà “có một không hai”, còn có tên gọi rất kêu: “Bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ”. Sở dĩ được đặt tên như thế, vì trong bình trà có đủ thứ vị thuốc, do chính tay bà phơi, sắc, chế lấy, từ các lá cây... ngoài vườn. Nào là vỏ quít, Rosemary, quế, tì bà, liên tiền thảo, mint, v...v. Bởi thế cho nên mùi vị của bình trà này chẳng bao giờ tìm mua được ngoài tiệm, ai thắc mắc hỏi, sẽ nghe được cùng một lời giải thích, kèm theo giọng cười thú vị:
– Nếu em uống vào mà bệnh chưa tiêu tán, thì chỉ tại vì em chưa đủ “bách bệnh”.
Ngày bà dọn đến đây, chung quanh có ít người Việt Nam lắm, bà sống âm thầm trong ngôi nhà to, chung quanh cửa đóng then gài, với các song sắt. Ít khi bà ra sân trước, mỗi khi đi đâu, hàng xóm chỉ thấy chiếc xe chạy lù lù từ trong nhà xe ra, rồi biến dạng. Lúc về, cánh cửa nhà xe tự động mở, chiếc xe cũ kỹ chui vào đóng ập xuống, thế là xong!
Với cuộc sống đầy bí mật, và hiếm khi giao thiệp với làng xóm, khiến mọi người chung quanh xầm xì, tặng cho bà biệt danh là “Bà Phù Thủy!” Nhất là từ ngày khu phố bà ở bỗng trở nên sầm uất, người Việt Nam tụ tập đông, nhiều hàng quán được dựng lên, nổi tiếng cùng thế giới với tên gọi: “Tiểu Sài Gòn”. Mặc dù ở ngay chỗ “động”, ngôi nhà bà vẫn “tĩnh”, vẫn cửa đóng then gài. Bà chỉ đi ra ngoài khi cần thiết, còn thì hiếm ai thấy mặt bà.
Cô con gái nuôi ở xa, thỉnh thoảng đến thăm ở lại qua đêm, thường được thưởng thức tất cả các thức ăn, đủ ngày ba bữa, kèm theo món ăn dặm, ăn chơi, toàn do chính tay bà chế biến.
Buổi sáng thức dậy, nhâm nhi điểm tâm, bằng những món “tự chế biến”, chẳng hạn như bánh mì quẹt mứt. Mứt làm từ các thứ trái cây trong vườn hái được, tùy mùa. Uống kèm với một chén trà nóng “bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ”. Hoặc nếm thử ly cà phê do đích thân bà làm, nhìn chẳng giống ly cà phê ngoài tiệm, nhưng uống vào bảo đảm là đầy đủ chất bổ. Cũng chút đường, nước sôi, chút cà phê, chút này, chút nọ, kèm theo vài hạt dẻ của Mỹ, hoặc đôi khi chút “mè giã nhuyễn”. Người không quen, uống vào sẽ “nhăn mặt” vì mùi vị lạ lùng, nhưng bà uống ly cà phê của bà một cách thích chí, vì những “gia vị” trong cà phê, toàn là chất bổ, bỏ vào một lúc, uống cho... tiện!
Trên bàn ăn, lúc nào cũng có rổ trái cây, tùy vào mùa nào. Ðến mùa trái gần chín, bà hái những trái vừa tầm tay, chừa lại những trái trên cao cho những chú chim! Ðủ thứ loại trái cây như hồng, quít, cam, sung, mãng cầu, tắc, táo tầu. Bà hái mang vào sắp đầy rổ, khách tới thăm, ra về thể nào cũng được quà xách mang theo. Còn dư lại, tùy thứ trái cây, bà chế biến thành nhiều món khác, có khi thì sấy khô để dành, như trái hồng, hoặc cam quít thì vắt lấy nước, nửa uống, nửa nấu. Vỏ quít được sắp trải ra khay, mang qua phòng vẽ. Phòng này có nhiều cửa sổ, và đầy nắng ấm buổi sáng, những khay vỏ quít, hoặc hoa quỳnh, hoa hồng phơi khô, để dành bỏ vào bình trà.
Ðã nói rồi, không có thứ nào “lọt” ra khỏi tay bà, để phí phạm cả! Từ thức ăn, cho đến các đồ đựng thực phẩm, hộp giấy, hủ, lọ, chai nhựa, cần gì cũng tìm thấy được tại đây. Cô con gái đến thăm, nhiều hôm thấy các loại giấy, báo chí, bà lưu trữ hàng hàng lớp lớp khắp nơi, năn nỉ xin cho dọn dẹp, bà cười mỉm chi:
– Chúng có mở miệng than phiền, đòi ăn, đòi uống, làm rộn ràng gì ai đâu. Chúng nằm đâu, yên đó, tại sao phải vất đi?
Bảo đảm, những vị khảo cổ có thể tìm đọc được những tờ báo của thập niên bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, bảy mươi... cho đến thế kỷ hai ngàn, tại đây. Những tạp chí, giấy tờ, may mắn lắm khi lọt vào tay bà, chúng được bà bảo vệ tối đa, nằm yên ổn khắp nơi trong nhà. Tệ lắm thì cũng vào thùng rác “giấy xài lại” của chính phủ, cứ hai tuần một lần, có xe đến tận nhà, lấy mang đi.
Có lẽ ai vào nhà bà sẽ nghĩ rằng ngôi nhà này bừa bộn, nhưng một người cháu đến thăm bà đã nói:
– Chẳng hiểu có một cái gì đó cuốn hút con vô cùng, đồ đạc trong nhà bày biện không thứ tự, nhưng hình như có một “trật tự” trong sự “vô trật tự” của Dì.
Buổi cơm trưa hay cơm chiều, thể nào cũng phải có một chén nước chấm, dĩ nhiên cũng do chính tay bà làm. Mỗi mùa trái cây vừa xong, sau khi cho, biếu, tặng, trái cây còn dư, được bà chế biến thành nhiều món khác nhau. Có năm quít được mùa, bà vắt quít cho vào nồi, trộn với nước mắm, ớt, đem kho lửa riu riu, cho đến lúc kẹo lại, bỏ vào hủ, để nguội, cất vào tủ lạnh, ăn dần. Thiên hạ đến ăn, khen rối rít, thể nào cũng được sớt bớt mang về.
Buổi cơm tối, có thể nhâm nhi tí rượu thuốc, dĩ nhiên do bàn tay bà pha trộn, uống vào là khoẻ ngay. Nhờ biết đọc tiếng Tàu, bà nghiên cứu các vị thuốc bắc, mua về ngâm rượu, để dành khi có khách quí đến ăn cơm, dùng chút cho ấm bụng.
Chưa kể đến phần ăn chơi, ăn dặm thêm giữa các bữa, khi thì bà mời những lát mứt khô, từ trái cây bà cắt, sấy. Hoặc những miếng cà rem, từ những trái chuối chín, ăn không kịp, bà pha trộn bỏ vào khuôn đá, để lên ngăn lạnh. Những món ăn dư qua tay bà, đều trở thành những món ăn bổ dưỡng, hữu dụng. Bà khoe:
– Trong đây không bỏ các “độc dược” đâu nhé, toàn thứ nguyên chất, bảo đảm.
Có một lần, bà đã trở thành bà chủ phố, khi một căn phòng được cho mướn bởi cô bạn thân của con gái bà, từ xa xuống núi đi làm việc. Ngôi nhà có thêm người tưởng sẽ rộn rịp hơn, nhưng không! Cô bé sáng sớm dậy đi làm, lúc bà còn ngủ nướng thêm ít phút trong phòng, và trở về nhà khi trời tối mịt, lúc bà đã vào phòng nghỉ. Ngày cô bé dọn đến, thỉnh thoảng có giờ rảnh, cô cũng trổ tài nấu nướng, mời bà dùng. Cô có cái tánh nấu ăn rất kỹ lưỡng, phải đúng điệu, món gì phải ăn với món đó, đầy đủ gia vị. Thế mà ngày cô xong công việc, dọn lại về quê, cô học được thêm một món khó tìm ở đâu ra, từ bà phù thủy, với cái tên gọi nghe rất kêu: “món tùy cơ ứng biến”.
Nhiều lần bà cho cô dùng thử những món này, cô khen ngon rối rít, xin bà chỉ dẫn cách làm. Bà cười cười bảo lấy giấy bút ra ghi:
– Em ăn thừa các thức ăn, không biết làm sao cho hết, đừng vất, tội chết, em chỉ việc bỏ tất cả vào từng hộp, cất trên ngăn đá, mỗi khi cần, lấy ra chế biến lại, thành món mới.
Con cháu, láng giềng nhìn vào, ai cũng lo sợ cho bà, với cái tuổi đời chồng chất, sống cô đơn, họ cứ sợ bà buồn! Ðâu ai biết được bà bận rộn, và vui như thế nào. Bà cảm thấy một ngày hai mươi bốn tiếng không đủ vào đâu! Con cháu sợ bà chết già, chết khô, mỗi lần hỏi thăm, bà cười, dặn dò:
– Yên chí, cứ ba ngày ông phát thơ thấy không mang thơ vào, nghe từ trong nhà bốc mùi là biết bà “tiêu diêu miền Cực Lạc” rồi đó.
Bà chẳng có nỗi sợ giống như con cháu, bà chỉ sợ không đủ giờ cho bà học hỏi. Thời còn trẻ bận rộn con dại, công việc, kéo cày ngày hai bữa, bà chỉ viết lách lai rai. Ðến lúc con cái mọc đủ lông, đủ cánh, bay xa, bà bắt đầu ghi danh đi học. Học xong lớp vẽ, qua đến lớp điêu khắc, học võ, học đàn, cái gì học được, sắp xếp tiện giờ giấc, lái xe đi được là bà đều tham gia một cách mê say.
Lối sống của bà thật thoải mái, vì bà theo thuyết “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”. Sao cũng được. Những người ở cạnh, kể cả những đồ vật chung quanh, đều thích bà. Vì con cháu ở xa, bà ngại nhờ vả chúng, nên bà tự sáng chế, biến hoá các thứ. Cái mắt kính sút cán gãy gọng, chỉ việc lấy băng keo, quấn dán, miễn dính liền với nhau, đeo vào còn thấy đường là được. Cánh cửa tủ bị sút, không làm sao gắn vào được, cũng lại dán miếng băng keo, cho dính vào nhau, rồi cũng xong.
Theo đà tiến triển của khoa học hiện đại, bà cũng bắt đầu biết “leo lưới”, bà bỏ nhiều thì giờ thiện nguyện, đánh bài vở cho thư viện “trên trời”, giữ một chân trong mục trả lời thư tín, và bỗng dưng càng ngày bà càng có đông con cháu…”trên trời”.
Láng giềng ngạc nhiên vì từ xưa đến giờ, ngôi nhà bà vắng lặng, sân trước im lìm. Nay thỉnh thoảng lại có năm, bảy chiếc xe đậu tràn đầy ngoài sân, dọc theo lề đường, vì đám con cháu “trên trời” ghé thăm.
Có khi chúng tự động mở tiệc, sắp xếp chương trình với nhau, xong mới hỏi xin phép, mỗi đứa mang đến một món, vào bếp tự do lôi nồi niêu xoong chảo, xào nấu. Ra phòng khách sắp xếp bàn ghế, gắn máy nhạc hát hò ầm ỉ. Cỡ nào bà cũng theo kịp, bọn nhỏ mang cái ghế thượng hạng để giữa sân khấu, bắt bà ngồi tham dự, bà “bị”nghe những bản nhạc chúng mới sáng tác. Cái phòng khách nhỏ đầy người, lại còn gắn thêm “microphone” cho thật to, xe cộ đậu đầy trước sân, bọn nhỏ còn lôi nhau ra trước sân, chụp hình, nói cười to tiếng. Chắc chắn phải làm hàng xóm láng giềng ngạc nhiên không ít. Tiệc tàn, chúng tự động mỗi người một tay dọn dẹp sạch sẽ, ra về, trả lại vẻ âm thầm, bí ẩn cho ngôi nhà!
Cuộc đời làm gì có thuyết tuyệt đối, nếu đường đời bằng phẳng thì còn chuyện gì để kể. Cũng như bao nhiêu người khác, hên thì gặp bạn tốt, xui thì gặp người cho…. “leo cây”. Những lần như thế bà đều cười xính xái, tự an ủi:
– Cứ xem như kiếp trước mắc nợ họ, kiếp này phải trả cho vui vẻ, để đừng gặp họ kiếp sau!
Bà vẽ cuộc đời cô đơn của bà bằng những tảng màu tươi sáng, nên thu hút rất nhiều nhóm bạn trẻ. Cứ nghe cách xưng hô, người ta có thể đoán biết được nhóm bạn này từ đâu ra. Này nhé, nếu từ nhóm bạn trên trời, họ sẽ gọi bà bằng Chị, cho dù bà đáng tuổi cô dì, chú bác, cha mẹ chúng. Nếu nhóm bạn từ cô con gái nuôi, họ thường gọi bà bằng Cô. Bà chẳng kỳ thị tuổi tác, bạn của bà đủ mọi tầng lớp, từ mười mấy, hai mươi mấy, cho đến sáu, bảy mươi mấy, cũng có.
Biết bà ít khi đi đâu, nhiều người hay ghé ngang thăm bất ngờ. Lúc nào họ cũng đến với đủ các món thức ăn vặt, cà phê, bánh trái. Họ bày ra ăn uống tại chỗ, nói chuyện trên trời dưới đất rồi từ giã.
Biết bà chẳng ngại, nên ai có chuyện lòng muốn tâm sự, cũng tìm đến bà “vấn kế”. Trăm lần như một, họ sẽ ra về với lòng thơ thới, vì được nghe những lời bàn rất “có hậu” từ bà.
Tôi vừa kể cho các bạn nghe một chuyện giả tưởng, chuyện của bà Phù Thủy ở thế kỷ hai ngàn. Từ xưa đến nay, các bà phù thủy đều xấu xí từ trong ra ngoài. Tánh tình độc ác, cho đến hình dạng… nhìn là phải bỏ chạy, làm gì tìm được bà Phù Thủy... đáng yêu, có duyên, dễ thương như thế chứ!
Ðọc xong truyện bà phù thủy, không biết có ai như tôi? Tôi vừa tìm ra được bí quyết trẻ mãi không già của bà, không phải vì những lọ thuốc: thức ăn pha chế của bà, mà là vì với lối sống, cách suy nghĩ luôn tự tin, yêu đời, dù cuộc đời đôi lúc chán ngấy!
Chuyện viết lai rai đã từ lâu, cho đến đầu năm 2006 mới tạm chấm dứt. Tôi nhất quyết phải đi tìm cho ra bà để học hỏi, trước khi bà “hô biến”, mất trên cõi đời này. Cầu cho tôi có chút duyên may, tìm gặp được bà.
Nếu mong ước thành sự thật, tôi muốn nhìn mặt trái của đồng tiền. Bộ mặt dấu kỹ sau nụ cười và những nét tươi vui bất di bất dịch, hằng mấy chục năm. Tôi muốn gõ cánh cửa tâm linh u uất sâu xa, xưa nay vẫn ẩn dấu, đóng chặt! Tôi muốn tìm lại nhân vật trong chuyện “Con Ngựa Chết” [1] để hỏi xem vết thương đã liền da chưa?
Mỹ Ngọc
01/2006
Chú thích:
[1] “Con Ngựa Chết” là 1 câu chuyện của nhà văn Linh Bảo, bạn có thể tìm đọc trong tuyển tập Mây Tần