← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VII BÀI HỌC YÊN THẾ:-*Nghị hòa lần thứ hai-*Phan Sào Nam gặp Đề Thám tại đồn Phồn Xương

CUỘC tấn công lần này của Đại tá Galliéni vào Yên Thế cũng không có kếl quả gì hơn những cuộc tấn công độ trước của Trung tá Dugenne, Thiếu tá Dumont và Piquel cùng tướng Godin và Đại tá Frey.

Ngay nửa ngày đầu hôm 29, Pháp quân đã thiệt hại rất nhiều, trong lúc đó nghĩa quân chưa nao núng gì cả.

Đêm đã bắt đầu đến…

Một màn âm u, đen tối vụt chốc đã bao trùm xuống cả một khu rừng thiêng bí hiểm, rậm rạp…

Rừng già đã bắt đầu chết trong cõi lặng lẽ và huyền bí lạ lùng…

Đại tá Galliéni ra lệnh dừng binh: Các đoàn quân đang ở tại nơi nào hãy đóng yên nơi đó.

Bởi Đại tá nhận thấy rằng tất cả cảnh vật âm u của núi rừng xung quanh có thể là cạm bẫy ác hiểm của nghĩa quân, đang chờ đợi sát hại bất cứ đoàn quân Pháp nào hay dễ ngươi bước chân đến.

Soát lại lực lượng, sau một ngày tác chiến, Pháp quân tổn hại đã nhiều mà cả ba đoàn quân chỉ tiến vào được có 1.500 thước xung quanh một vòng bán kính 300 thước mà thôi.

Các chiến lũy bí mật của nghĩa quân đầy rẫy trong rừng, kề cạnh bên các đoàn quân mà Pháp quân vẫn không khám phá nổi được.

Ngay chiều hôm đó, Đại tá Galliéni đã đánh một bức điện tín để báo cáo cho Thống tướng Tổng Tư lệnh Duchemin được rõ tình hình chiến trận đã xảy ra trong ngày như sau:

“Trời đã về chiều rồi…

Để tránh tổn thất nặng nề, tôi không cho tấn công vào các chiến lũy của nghĩa quân ngay trong đêm nay.

Đoàn binh thứ hai và thứ ba do hai Thiếu tá Rondony và Roget chỉ huy đã tới sát bên vị trí của địch cùng 8 pháo đài mạnh mẽ sẽ sẵn sàng tấn công nà nã đạn.

Tôi tính để đến ngày thứ hai và thứ ba mới đánh chiếm chiến lũy của đối phương. Đoàn quân thứ nhất do Thiếu tá Hoblingue chỉ huy sẽ chặn đường con sông Soi để không cho địch quân thoát thân.

Kết luận, trận chiến đã có kết quả tin tưởng, ta tiến được 1.500 thước và xua đuổi được địch quân vào một vòng vây nhỏ hẹp.

Hiện tại, chúng tôi còn lo ngại một điều là địch quân có thể lợi dụng đêm tối trời trong rừng này mà thoát thân ra khỏi vòng vây của chủng tôi.

Thiếu tá Lyautey đã gặp được tôi vào lúc 4 giờ chiều

Ký tên GALLIÉNI”

Cũng vào buổi chiều ngày hôm đó (29 tháng 11 năm 1895) Đại tá Galliéni ra lệnh cho tất cả các đơn vị tác chiến phải dọn dẹp tất cả những chướng ngại vật trên con đường tiến quân và canh phòng nghiêrn nhặt; đồng thời cũng chuẩn bị sẵn sàng để tấn công địch quân vào rạng ngày hôm sau.

Nếu, đang đêm tối mà nghĩa quân đến tấn công, phải dùng lưỡi lê và đoản đao xáp lá cà mà đẩy lui đi chớ không được dùng súng bắn lại.

Lệnh của Đại tá Galliéni ban hành: tuyệt đối cấm không được bắn một phát súng nào cả.

6 giờ sáng ngày hôm sau, Đại tá Galliéni đến gặp hai đoàn quân của Thiếu tá Rondony và Thiếu tá Roget ở nơi hai đoàn này đã hội lại. Đại tá Galliéni ra lệnh cho các đoàn quân khởi sự tiến vào các căn cứ điểm của nghĩa quàn.

Các cổ trọng pháo bắt đầu hoạt động để yểm trợ các đoàn bộ binh…

Đến nơi, tất cả rất đổi ngạc nhiên vì không gặp một bóng lạ nào. Tất cả nghĩa quân đều trốn thoát tự bao giờ, để lại các chiến lũy những xấp giấy má văng tứ tung.

Lần lượt, ba đoàn quân lại gặp nhau và không tìm được sự gì mới lạ… Đã vậy còn tốn phí đạn đại bác bắn yểm hộ rất vô ích.

Lục soát một hồi lâu trong rừng, Pháp quân mới tìm được một con đường rút quân của địch. Xem dấu vết, Đại tá mới hay rằng nghĩa quân Đề Thám rút lui rất có trật tự chớ không phải hỗn loạn như nghĩa quân của Hoàng Thái Ngân ở Lũng Bạt hay của Ba Ký ở Kẻ Thượng…

Bấy giờ, Đại tá mới thấy rõ tài điều binh khiển tướng của vị thủ lãnh cách mạng có võ trang ở rừng Yên Thế Thượng.

Sau đó, Đại tá mới ra lệnh cho một vị sĩ quan cấp tá lãnh nhiệm vụ cai trị vùng rừng núi này, sau khi Yên Thế đã trở thành một vùng quân sự mà phạm vi mở rộng đến trung tâm Chợ Phong, khu Vạn Linh và dọc theo đường xe lửa Kep và Than Mọi.

Ngoài ra, Đại tá Galliéni còn đặt thêm một đồn chính ở Phồn Xương, có pháo binh thường trực đóng giữ và sẵn sàng lên đường tác chiến, bất cứ vào lúc nào, nếu có mệnh lệnh của thượng cấp.

Những đường giao thông quan trọng, Đại tá cũng cho thiết lập lại tất cả.

Trong trận này, bên nghĩa quân mất hết một viên tướng. Đó là Thống Luận tức Thân Văn Luận, anh nuôi của Cô Ba (vợ của Đề Thám).

Thống Luận bị Pháp quân truy kích ráo riết quá nên phải đầu hàng.

Hàng ngũ nghĩa quân Đề Thám vì đó mà giảm bớt thế lực đi một vài phần.

Sau trận này, Đại tá Galliéni mãn hạn, được trở về xứ sở và nhớ mãi “bài học chiến trận tại rừng Yên Thế Thượng” của đất nước Việt Nam.

Xem xét lại chiến trận này, bên nào đã thắng?

Chưa hẳn nghĩa quân đã bại trận, tuy rằng nghĩa quân đã rút lui…

Còn xét về tài chỉ huy trận mạc giữa Đại tá Galliéni và Đề Thám ai hơn ai?

Người ta đã nhận thấy đại tá Galliéni là người rất nhiều kinh nghiệm về trận mạc, nhất là những cuộc hành quân nhưng còn thua vị Thủ lãnh nghĩa quân Yên Thế tinh thần dẻo dai và trí sáng suốt, nếu không nói là thua Đề Thám cái đức tính lầm lì đáng sợ của một nhà chỉ huy cương quyết và nắm vững phần thắng về phía mình.

Hơn nữa, vị Thủ lĩnh nghĩa quân Yên Thế đã phải ở trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn nhưng vì chính nghĩa nên lúc nào cũng ráng vượt qua được tất cả chướng ngại… Như vậy, Đề Thám còn thêm được một chí cả và một lòng dũng cảm khôn lường…

Yên Thế kể như đã mất, nhưng người anh hùng Yên Thế vẫn còn hoạt động không ngừng… đến hơi thở cuối cùng.

Sang năm 1897, Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm về nước… Nhờ có người thanh niên yêu nòi giống này giúp đỡ nên Đề Thám lần lần gây lại thế lực.

Sau trận Yên Thế, các đơn vị nghĩa quân phải phân tán lực lượng và phải di động luôn… Đề Thám phải cố gắng hết sức mới liên lạc với họ được.

Thêm nữa, Đề Thám vẫn cố gắng tiến hành công cuộc tổ chức nghĩa quân len lỏi vào hàng ngũ lính khố xanh, khố đỏ.

Đến tháng chạp năm 1898, Đề Thám kéo quân vào đột kích thành Hà Nội vào khoảng 1 giờ khuya đêm hôm 5 rạng ngày 6 dương lịch.

Pháp quân chống trả mãnh liệt lắm mới đẩy lui được quân Đề Thám…

Vụ đột kích này đã khiến Pháp quân phải kinh hoàng lên vì đây là lần đầu tiên Đề Thám xuất hiện trở lại, sau ba năm bôn ba và gần như im tiếng vì âm thầm hoạt động.

Sau hai giờ tấn công Pháp quân, nghĩa quân bị thiệt 4 người chết, 6 người bị thương và 71 người bị bắt…

Khoảng năm 1902 và 1903, cụ Phan Sào Nam gặp một võ tướng trong nhóm nghĩa quân Mai Xuân Thưởng trước kia, tên là Tăng Bạt Hổ.

Tăng Bạt Hổ vừa mới đi chu du các nước Tàu, Nhật và Xiêm về. Hội ngộ với Phan Sào Nam, Tăng Bạt Hổ trình bày kế hoạch của mình cho cụ Phan nghe là:

- Phải xuất dương để học hỏi thêm để tự cường.

- Bỏ lối học khoa cử từ chương sai lầm.

- Tranh đấu với Pháp bằng chính trị hơn bằng võ lực.

- Cổ xúy phong trào thanh niên xuất ngoại du học.

Đồng ý với Tăng Bạt Hổ, cụ Phan liền cùng với võ tướng họ Tăng đi khắp nơi, từ Nam tới Bắc để gặp gỡ các đồng chí cách mạng mà tuyên truyền kế hoạch cứu nước mới.

Trong chuyến đi này, cụ Phan và võ tướng họ Tăng có vào tận vùng Phồn Xương và tại nơi đây, hai người đã gặp vị Thủ lĩnh nghĩa quân Yên Thế và đã thảo luận trong một thời gian rất lâu.

Nhưng có lẽ đang ở trong một hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nên Đề Thám không thể tích cực hưởng ứng kế hoạch mới của Tăng Bạt Hổ được.

Dù vậy, Đề Thám cũng giúp đỡ cụ Phan hết lòng và dành riêng cho cụ Phan một vùng đất riêng biệt để cụ lập ấp mà luyện binh. Thêm nữa, cụ Phan có thể dùng nơi đây để làm chỗ tụ hợp các thanh nỉên ở vùng Nghệ Tĩnh cùng các bộ hạ của Phan Đình Phùng ngày trước.

Ngoài các nhóm kể trên, còn có con của ông Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật là Cả Tuyển cũng về hợp tác.

Chiến khu này do ông Tú Phạm Văn Ngôn lãnh đạo.

Vào tháng 12 năm 1896, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Rousseau mất. Chính phủ Pháp ở Paris liền cử ông Paul Doumer sang Việt Nam để thay thế Rousseau.

Đến năm 1901, Đề Thám nhận thấy hoàn cảnh kháng chiến vẫn còn nhiều điều chưa thuận tiện nên lại nghị hòa với Pháp quân một lần nữa.

Lần này, Đề Thám cũng lại nhờ giáo sĩ Velasco, Đức giám mục địa phận Bắc Ninh để đứng ra làm trung gian trong công cuộc thương thuyết.

Toàn quyền Paul Doumer chấp thuận.

Bởi lúc ấy, Toàn quyền Paul Doumer đang xin Quốc hội Pháp ở Paris chuẩn y một ngân khoản 200 triệu quan nên cố tình che đậy tất cả tình hình rối rắm như tơ vò ở Đông Dươgg.

Vì vậy mà Toàn quyền nhận lời của Đề Thám cho mối loạn Yên Thế được yên ổn một thời gian.

Đến ngày 27 tháng 4 năm 1901, Đề Thám chính thức ra trình diện với Chính quyền ở Nhã Nam trước sự hiện diện của:

- Tên Tổng đốc Bắc Ninh Lê Hoan khát máu.

- Moret, thanh tra dân sự vụ.

- Quennec, Công sứ Bắc Giang.

- Chéon, Đồng lý Văn phòng Phủ Thống sứ Bắc Kỳ.

Bắt đầu từ đây, Yên Thế sống trong cảnh thái bình, nhưng lại là một cảnh thái bình giả tạo…

Trong lúc này, cũng như lần cầu hòa thứ nhất với Pháp độ trước, Đề Thám vẫn lo củng cố lại hàng ngũ nghĩa quân trong khi bên ngoài mặt Thám hết sức tỏ lòng trung thành với Pháp.

Vì vậy, đến năm Thành Thái thứ 17 tức là năm 1905, một cuộc bạo động lại nổ bùng trong lòng Pháp quân…

Bởi, trong 4 năm thái bình giả tạo này, phong trào Duy Tân và Đông du Cầu học do các nhà cách mạng Phan Sào Nam, Tăng Bạt Hổ, Kỳ ngoại hầu Cường Để vận động và cổ xúy khiến các nhà cầm quyền Pháp đặc biệt lưu ý, theo dõi.

Nhờ vậy, phong trào Cần Vương ở Yên Thế mới có đà phát triển mau chóng dễ dàng trở lại được.

Đề Thám lại gây được một số tổ chức kháng chiến hùng mạnh ở trong hàng ngũ quân đội Pháp và trong các tầng lớp dân chúng.

Nghĩa quân cũng được trang bị lại bằng những võ khí tối tân hiệu Đức, một phần lớn do Đề Thám cho người đi mua ở Xiêm, Tàu, Nhật…

Lực lượng mỗi ngày một mạnh.

Để chuyển hướng theo trào lưu tiến bộ, Đề Thám cải tạo nghĩa quân Cần Vương trở thành những cán bộ đắc lực của đảng Nghĩa Hưng.

Nhờ có lực lượng hùng hậu như vậy, Đề Thám mới ra mặt chống cự Pháp quân trở lại vào năm 1905. Với chiến thuật “nội công, ngoại kích” và với mục đích táo bạo đánh bật Pháp quân ra khỏi thành Hà Nội.

Nhưng, kỳ này vẫn không thành công được.

Đến năm 1907, Đề Thám lại sai Lý Nho, Lang Seo và Đỗ Đàm tổ chức một âm mưu bạo động ở cửa Nam thành Hà Nội.

Ba người này được ủy thác làm nội ứng, để vận động binh lính và gây lực lượng võ trang, đồng thời phá lực lượng địch.

Những buổi hội họp thảo luận về chương trình hành động đã diễn ra liên tiếp ở một căn nhà đường Neyrel.

Tất cả mọi người đều tán thành ngày 17 tháng 11 năm 1907 sẽ là ngày hành động của toàn thể…

Lúc ấy, viên thanh tra dân sự vụ Morel được thay thế bởi Miribel. Và, căn nhà nói trên đã bị viên thanh tra dân sự vụ mới này chú ý theo dõi từ lâu.

Nhận thấy tình hình có vẻ khác thường, thanh tra dân sự vụ Miribel liền yêu cầu tòa án khiến một đội cảnh binh tới bao vây căn nhà nói trên để lục soát, ngăn ngừa trước các vụ nổi dậy của “phản loạn quân”.

Nhưng, viên Chưởng lý tòa án từ chối vì cho rằng không đủ bằng cớ. Viên Chưởng lý tòa án này lại bày tỏ ý kiến rằng nếu cho đội cảnh binh đến bao vây căn nhà nói trên ồ ạt thì thế nào dân chúng ở trong thành phố cũng sẽ hoang mang. Như vậy uy tín của Chính phủ Bảo hộ sẽ bị sứt mẻ.

Bị viên Chưởng lý tòa án chối từ, Thanh tra dân sự vụ Miribel liền cấp báo lên Thống tướng Tổng Tư lệnh quân đội, lúc bấy giờ là Piel.

Thống tướng Piel cũng không dám quyết định.

Thanh tra dân sự vụ Miribel chỉ được Thống tướng ra lệnh tước hết các súng đạn trong tất cả đơn vị lính “bản xứ” mà thôi.

Tuy thanh tra Miribel không hành động gì hơn, cuộc âm mưu của Lý Nho, Lang Seo và Đỗ Đàm không thành tựu, bởi đã bị nhà hữu trách Pháp theo dõi nên đảng viên Nghĩa Hưng không dám hành động.

Cuộc âm mưu này kể như đã thất bại.

Đảng Nghĩa Hưng lại chuẩn bị một cuộc nổi dậy khác nữa, ở trại lính Pháo thủ.

Lần này, nhờ rút kinh nghiệrn ở những lần thất bại trước, đảng Nghĩa Hưng tuyệt đối giữ kín các địa điểm chiến lược. Tất cả những hành động và mệnh lệnh đều tối mật.

Vào 9 giờ đêm hôm 22 tháng 5 nărn 1908, trong lúc binh lính sĩ quan Pháp đều mê ngủ, binh lính các trại khố xanh, khố đỏ đều tuân theo đúng mệnh lệnh của đảng Nghĩa Hưng. Tất cả đều lột bỏ hết phù hiệu của mình rồi mang súng chạy ra đón rước nghĩa quân từ hai ngã Gia Lâm và Sơn Tây sẽ lên tới.

Trong lúc đó, Cai Ngà lẹ tay tháo tất cả các bộ phận của các cỗ đại bác ở trong trại ra cốt để cho các đội Pháo binh phải bất lực khi có báo động, tiếp ứng.

Tất cả đều có kết quả tốt, đúng y như kế hoạch đã sẵn định.

Chỉ còn chờ hiệu lệnh là thi hành ngay giai đoạn cuối cùng của kế hoạch là sát phạt Pháp quân trong trại.

Trong giây phút chờ đợi nghĩa quân đến rất nặng nề, bỗng trong hàng ngũ chỉ huy các nhóm lính khố xanh, khố đỏ nổi dậy có những lời qua tiếng lại rất sôi nổi.

Có nhiều kẻ bất đồng ý kiến, rồi tự nhiên rút lui.

Một viên đội chán nản nhất định trở về trại và không tham dự cuộc nổi dậy nữa… Kế tiếp có nhiều người ngã ngũ về phía viên đội này thêm…

Thế là đã có nhiều người “trở cờ”.

Trước tình thế khủng hoảng này, Lý Nho phải gấp rút sửa đổi tình thế và hủy bỏ cuộc nổi dậy, hạ lệnh giải tán tất cả cho thật mau lẹ…

Nhưng, trong lúc đó, bỗng có tiếng reo hò vang dậy nổi lên của nghĩa quân, ở phía ngỏ Sơn Tây, mỗi lúc một gần, một gần thêm. Lửa bắt đầu cháy dữ dội, cũng về hướng này.

Nghĩa quân đã đến! Thôi rồi, cuộc nổi dậy đã lỡ dở rồi còn gì…

Pháp quân đã được báo động ngay tức khắc, chạy rần rật qua các ngỏ… Từ trong trại tung mình ra, chúng bổ nhào tới chặn đánh nghĩa quân…

Nghĩa quân đánh không lại, vừa kháng cự vừa thoái lui mau lẹ, rút về căn cứ…

Một lần nữa, cuộc nổi dậy có tổ chức bị Pháp quân đàn áp và nghĩa quân thất bại hoàn toàn.

Tuy nhiên, không một người nào bị bắt.

Nghĩa quân lại một lần được thêm mớ kinh nghiệm kháng Thực, ngay trong nội thành.