CHIẾC Ô Tác giả: Guy de Maupassant-(Le parapluie)
Biết rằng ti tiện, đè sẽn quá độ sẽ làm mất đi phần nào phẩm giá của chính mình và của cả những người thân, nhưng ở đây với bà Oreille, khi đã suy tôn đồng tiền lên địa vị chủ nhân ông để tự dìm mình xuống thành đứa tớ trung tín, thì bà không còn biết suy nghĩ hơn gì ngoài cái “cố làm sao cho đồng tiền chóng sinh sôi nẩy nở”, ngoài cái “tiếc rẻ, đau buốt tận tim và đêm không hề chợp mắt được mỗi khi đồng tiền có dịp ra khỏi nhà cho dù nó ra một cách chính đáng”. Qua ngòi bút châm biếm tế nhị của Guy de Maupassant, ta tìm thấy nơi đây một vài giây phút thoải mái và hài hước thật cởi mở …
Bà OREILL LÀ MỘT NGƯỜI DÈ SẺN. Hiểu rõ từng giá trị của một đồng xu. Bà rất giỏi làm cho tiền bạc chóng tăng lên hàng nghìn hàng vạn lần. Do đó người tớ gái giúp việc cho bà khó mà ăn xén, ăn bớt được tiền chợ. Và ông Oreille cũng khổ sở lắm mới có được ít tiền bỏ bóp để tiêu xài. Gia thế khá giả, lại không con, ấy vậy mà mỗi khi nhìn những tờ giấy bạc lìa khỏi nhà, bà đau lòng lắm, đau buốt tận tim. Và cứ mỗi lần phải dùng đến một số tiền hơi to tát nào đó, dù cho là không cần thiết, bà cũng không làm sao ngủ yên giấc, trong đêm tối.
Ông Oreille vẫn không ngừng bảo vợ:
- Bà nên nới tay, rộng rãi một chút vì lợi tức chúng ta, có bao giờ chúng ta ăn hết đâu!
Bà đáp:
- Làm sao biết trước được những gì sẽ đến. Có nhiều chẳng hơn là ít ư!
Bà trạc 40, da nhăn, người bé nhưng nhanh nhẹn, ưa sạch và hay cau có.
Chồng bà luôn phàn nàn về những thiếu thốn của ông, do bà gây ra. Ông rất khổ tâm, vì đã nhiều lần bà làm cho ông phải mất thể diện với người đời. Ông làm tham tá tại bộ Chiến tranh. Sở dĩ ông còn giúp việc ở đó là chỉ vì muốn nghe theo lời bà để làm tăng thêm những số lợi tức vô dụng của gia đình
Ấy vậy mà, trong suốt hai năm dài, ông vẫn đi làm với một chiếc ô loang lổ, khâu víu khắp cùng, để phải chịu tiếng chế nhạo của đồng nghiệp ông. Bị mai mỉa mãi, ông không thể nào chịu được, ông bèn bắt bà phải mua cho ông cái mới. Bà đến một gian hàng cầu khách, mua ngay một cái ô với giá tám quan rưỡi. Những người cùng sở khi thấy hàng ấy cái thứ hàng mà người ta gạt bỏ ra, đem bày bán hàng ngày ở Ba-lê, lại càng nhạo báng ông già hơn, làm ông phải khổ tâm thêm nữa.
Cái ô không giá trị gì. Chỉ dùng được trong ba tháng rồi phải vứt đi. Người trong sở lấy đó làm vui, lại còn đặt thêm một bài ca để đùa ông, họ hát mãi từ sáng đến chiều trong khắp cùng phòng việc có lầu cao, rộng mênh mông.
Ông đâm cáu, gắt gỏng bảo bà phải chọn mua cho ông một chiếc ô mới bằng lụa, hạng cỡ hai mươi quan và phải mang hóa đơn về trình ông.
Bà mua một cái giá mười tám quan, và khi đưa cho chồng, bà bỗng giận đỏ mặt tía tai, gắt:
- Ít ra ông cũng phải dùng cái này cho đến năm năm.
Như kẻ chiến thắng, khi đến sở, quả nhiên ông Oreille được người ta hoan nghênh nhiệt liệt.
Buổi chiều lúc đi làm về, bà bỗng nhìn chiếc ô với vẽ lo sợ rồi bảo chồng:
- Ông đừng nên để sợi dây thừng siết chặt cái ô quá, nó sẽ làm rách lụa đi. Chính ông, ông phải tự giữ gìn trông coi nó, vì tôi không thể sớm mua cho ông cái khác được đâu.
Rồi bà cầm ô, lấy mốc, giũ tung các nếp, giương ra. Bà chợt điếng người, đứng lặng. Một lỗ tròn, to bằng một phần trăm đồng phật lăng, hiện ra giữa chiếc ô, do vết cháy của một điếu xì gà.
Bà ấp úng:
- Cái gì thế này hở?
Không nhìn bà, ông bình tĩnh hỏi lại:
- Hả? Cái gì? Bà nói sao?
Bấy giờ sự tức giận bỗng dâng lên làm bà không nói được suông câu:
- Ông… ông… ông đã làm cháy… cái ô của… của ông rồi đấy! Như thế là ông… ông… ông điên ứ… Ông muốn cho chúng ta khánh tận à?
Ông bỗng quay nhanh lại, tái mặt hỏi:
- Bà nói gì?
- Tôi nói rằng ông đã làm cháy cái ô của ông. Này! Này!…
Rồi bà bỗng lao người về phía ông như muốn chực đánh. Bà dí mạnh cái lỗ cháy của chiếc ô vào tận mũi ông, mắt ông.
Ông kinh hãỉ và lắp bắp nói:
- Cái này… cái này… Cái này là cái gì thế? Tôi, tôi không hiểu! Tôi không làm gì nó cả! Tôi xin thề với bà. Tôi chẳng biết cái ô này vì sao lại thế được?
Bà quát to lên:
- Chắc ông đã làm trò hề với nó, đã múa may với nó và giương nó ra cho thiên hạ xem.
Ông đáp:
- Tôi chỉ giương nó ra có mỗi một lần để tỏ cho người ta biết là nó đẹp, thế thôi. Tôi xin thề vời bà.
Nhưng bà lại càng nổi giận và làm cho cảnh gia đình trở thành một xô xát hỗn loạn, hỗn loạn còn hơn là bãi chiến trường bom đạn như mưa.
Xong, bà lấy một mảnh lụa của chiếc ô cũ, không tiệp màu, đem chấm vá vào lỗ cháy. Và rồi hôm sau, ông Oreille với vẻ mặt buồn thiu, vẫn phải mang cái ô chấm vá đó đến sở.
Ông giấu chiếc ô vào trong tủ và chỉ nghĩ đến nó như nghĩ đến một vài kỷ niệm xấu xa.
Chiều lại, khi vừa trông thấy ông về, bà đã vội chộp ngay cái ô trong tay ông, rồi giương ra ngắm nghía. Bỗng bà như nghẹn, đứng trơ trước một sự hư hỏng không thể nào còn chữa được. Chiếc ô đã điểm đầy những lỗ nhỏ do nhiều vết cháy như có ai cố tình trút tàn thuốc từ trong một cái ống điếu còn đang cháy dở vào đấy, chiếc ô hỏng cả không còn cách nào chữa được.
Bà tiếc rẻ ngắm nhìn cái ô hư nát, không nói một lời, lòng đầy tức giận. Ông cũng nhận thấy được sự hư hại ấy. Ông ngẩn ngơ kinh khiếp, hãi hùng.
Cả hai đứng lặng, gườm nhau. Rồi ông bỗng cúi xuống. Rồi bà vụt ném cái ô lũng nát vào mặt ông. Rồi bà chợt hét lên, bật thành tiếng, giận dữ:
- À! Đồ súc sinh! quân vô loại! Ừ, mày đã cố ý làm thế! Nhưng rồi mày sẽ phải đền tội cho tao! Mày sẽ không còn cái ô mà dùng nữa đâu đấy.
Tấn kịch tái diễn. Và sau một giờ bão tố, ông mới có thể giải thích được nỗi oan của mình, ông cho đấy có thể là do bởi sự tinh nghịch, ác ý và thù hằn của ai đó.
Một tràng chuông reo, báo có người bạn đến chơi, dùng cơm chiều, đã giải thoát cho ông.
Bà Oreille đem chuyện cái ô ra phân bua với ông bạn ấy. Còn việc mua ô mới, đã hết rồi, chồng bà sẽ không bao giờ có nữa!
Người bạn bỗng thêm ý kiến và lý luận:
- Thưa bà, giá bây giờ y phục ông nhà hư rách, chắc chắn là sẽ đắt tiền hơn cái ô nhiều đấy bà ạ!
Người đàn bà bé nhỏ vẫn còn giận dỗi:
- Thì ông ấy sẽ phải dùng cái ô nhà bếp, chứ đời nào tôi chịu mua cho ông ấy nữa!
Nghe hiểu ý bà, ông Oreille đâm gắt, gào lên:
- Thế thì tôi, tôi sẽ xin từ chức! Vì với cái ô nhà bếp ấy, tôi còn mặt mũi nào lê chân đến sở mà làm được nữa kia chứ!
Người bạn chen vào:
- Hay là bà mang ô đi lợp lại, chắc không đắt lắm đâu, bà ạ!
Bà Oreille lại cáu, lắp bắp:
- Ít ra phải mất tám quan mới lợp lại được ô. Tám quan với mười tám quan, vị chi là hai mươi sáu, hai mươi sáu quan với một cái ô! Có mà điên! Có mà khùng!
Ông bạn, vốn là tiểu tư sản, bỗng có cảm hứng nói thêm:
- Ồ, lo gì! Bà cứ đòi hãng bảo hiểm trả cho phần tiền lợp ô! Các công ty vẫn có lệ bồi thường những vật bị hư cháy, miễn là sự hỏa tai ấy xảy ra ngay trong gia đình chúng ta.
Nghe xong lời khuyên ấy, cơn giận của bà bỗng dần dịu lại. Rồi, sau một phút nghĩ suy, bà vội bảo chồng:
- Ngày mai, trước khi đến sở ông nên tạt qua hãng bảo hiểm để đưa cho họ xem hình dung chiếc ô của ông, rồi đòi họ bồi thưừng cho.
Ông Oreille dùng dằng:
- Không đời nào tôi đi làm thế. Thôi đành chịu mất mười tám quan vậy. Chúng ta không đến nỗi chết vì nó đâu!
Và ngày hôm sau, ông đi làm với chiếc gậy. Cũng may, trời không mưa.
Còn ở lại nhà một mình, bà Oreille không biết phải làm sao để có thể tự an ủi mình về việc mất mát mười tám quan kia. Bà mang ô để trên bàn ăn và cứ đi quanh mãi mà vẫn không tìm ra một giải pháp nào.
Ý nghĩ về hãng bảo hiểm vẫn cứ ám ảnh bà. Thế nhưng bà cũng không dám mang mặt đến để đối điện với những người có thừa mánh khoé, sẽ tiếp bà qua cái nhìn chế nhạo của họ. Tính bà lại hay nhút nhát trước chỗ đông, chỉ hơi động một chút là mặt bà bỗng đỏ lên và luôn bối rối trước người lạ.
Tuy nhiên, sự tiếc rẻ mười tám quan vẫn cứ ray rứt bà, làm bà đau như bị phải một vết thương.
Bà cố không nghĩ đến việc đó. Nhưng sự thiệt hại kia vẫn cử lẩn quẩn trong trí óc bà, khiến cho bà phải đau khổ thêm. Nên làm thế nào bây giờ? Thời gian trôi qua, bà vẫn không quyết định được gì. Rồi thình lình, như kẻ nhát đâm liều, bỗng nhiên bà quyết định “Ta cứ thử xem!”. Nhưng điều trước tiên là phải làm sao cho cái ô có vẻ hư hỏng hoàn toàn đã, vịn vào cớ đó, mới nói được dễ dàng. Bà lấy một que diêm trên lò bếp, đánh lên, châm ngay vào những cây gọng chống ô. đốt cháy một lỗ to bằng bàn tay. Xong, bà quấn những chỗ lụa còn lại dùng dây buột chặt. Rồi đó bà lấy khăn quàng cổ lấy mũ chụp đầu; vội vã bước ra đường, đi nhanh về phía hãng bảo hiểm.
Nhưng khi đến gần; bà bỗng chùn chân lại. Bà sẽ nói gì? Người ta sẽ trả lời ra sao?
Bà dò từng số nhà. Còn những 28 căn nữa. Khá lắm! Bà có thể suy nghĩ thầm. Bà đi chậm lại. Nhưng thốt nhiên, bà bỗng giật nẩy mình. Đây rồi, trên cửa hàng có một hàng chữ mạ vàng óng ánh: “Bảo hiểm công ty chống hỏa hoạn”. Bà dừng lại một giây, lo ngại, ngượng ngùng, rồi bà đi qua, rồi bà trở lại, rồi đi, rồi lại mãi.
Cuối cùng bà tự bảo: “Dù sao thì cũng phải vào. Sớm hẳn hơn là muộn”.
Nhưng rồi khi vào đến hãng, bà bỗng cảm thấy tim mình lại đập quá mạnh. Bà bước qua một gian phòng rộng, có nhiều ô cửa nhỏ xung quanh. Sau mỗi ô cửa lại thấy có một người ngồi nhưng chỉ trông được cái đầu, phần thân dưới thì bị che khuất bởi tấm mành lưới.
Một người đàn ông bước ra, mang theo nhiều giấy tờ. Bà đứng lại và bằng một giọng rụt rè, bà khẽ hỏi:
- Thưa ông, xin lỗi, ông có thể chỉ cho biết ở đây, nơi nào người ta nhận bồi thường những vật dụng bị cháy.
Người đàn ông trả lời với giọng oang oang và cộc lốc:
- Lầu nhất, bên trái, phòng hỏa tai.
Câu đó làm cho bà thêm lo sợ. Bà chợt có ý nghĩ muốn rút lui, không đòi hỏi gì nữa, bỏ cả 18 quan cho xong. Thế nhưng, khi nghĩ lại số tiền ấy, một chút can đảm bỗng đến với bà. Và bà lên thang, mệt lả, mỗi bậc bà phải dừng lại, thở hổn hển.
Đến tầng lầu nhất, thấy cửa, bà khẽ gõ. Một giọng nói trong trẻo vọng ra:
- Cứ vào!
Bà bước vào và thấy trong gian phòng rộng thênh thang ấy có ba người đàn ông có mang huy hiệu ở áo, đang đứng nói chuyện với nhau, vẻ trịnh trọng.
Một trong ba người khẽ hỏi bà:
- Thưa bà, bà muốn hỏi gì ạ?
Bà ú ớ không nói nên lời:
- Tôi đến… tôi đến… về… về một vụ hỏa tai.
Lễ phép, ông nọ khẽ chỉ vào một cái ghế mời bà:
- Xin bà cảm phiền ngồi đợi đây, một phút nữa tôi sẽ hầu chuyện với bà.
Xong, ông ta quay lại tiếp tục câu chuyện với hai người kia.
- Hãng chúng tôi, thưa quý ông, không thể nào chịu hơn số 4 trăm ngàn quan ấy với quý ông được. Chúng tôi không thể chấp nhận về khoảng một trăm ngàn quan mà quý ông đòi chúng tôi phải trả thêm, vả lại, khế ước…
Một trong hai người kia ngắt lời:
- Thưa ông, thế đủ rồi, tòa sẽ phán quyết sau. Bây giờ chúng tôi xin kiếu từ.
Sau khi lễ phép chào, hai người đàn ông vội bước ngay ra.
Ôi, nếu bà Oreille dám ra theo với họ, tưởng bà cũng đã ra, đã trốn và cũng đã bỏ cả! Nhưng làm sao bà có thể ra được? Viên giám đốc đã quay vào và khẽ cúi đầu hỏi bà:
-Thưa bà, có việc gì ạ?
Bà phải khổ sở lắm mới nói được:
- Tôi đến về việc… về việc này!
Viên giám đốc đưa mắt nhìn về phía cái vật mà bà đang đưa với một vẻ vô cùng ngạc nhiên.
Tay run lẩy bẩy, bà cố gắng tháo sợi dây ra, rồi mở thật nhanh, nhưng nó đã tơi tả, chỉ còn trơ lại bộ xương.
Người đàn ông, với vẻ thương hại, khẽ bảo bà:
- Cái này trông bệnh quá!
Bà ngập ngừng:
- Nhưng nó có giá đến những 20 quan kia đấy!
Viên giám đốc ngạc nhiên:
- Thực à! Đắt thế ư?
- Vâng, hồi mới nó đẹp lắm. Tôi muốn ông thử thí nghiệm nó rồi sẽ biết.
- Hay lắm! Tôi biết lắm! Nhưng tôi không hiểu tại sao cái ô này lại có liên quan đến tôi.
Một chút lo sợ bỗng đến vời bà. Có lẽ hãng bảo hiểm này không nhận bồi thường những vật nhỏ mọn. Bà nói:
- Nhưng… nó đã bị cháy…
Người đàn ông nhìn nhận:
- Vâng, tôi thấy rõ cả.
Bà đứng trơ ra, không còn biết phải nói gì nữa. Nhưng rồi thình lình như nhớ ra, bà vụt nói với một vẻ hấp tấp:
- Tôi là bà Oreille. Chúng tôi có bảo hiểm đồ vật ở hãng ông và tôi đến để xin ông bồi thường sự hư hại này.
Rồi, như sợ sẽ bị từ chối, bà vội vã nói thêm:
- Tôi chỉ xin ông lợp lại nó mà thôi.
Viên giám đốc khẽ bối rối đáp nhanh:
- Nhưng… thưa bà… Chúng tôi không phải là những nhà buôn bán ô. Chúng tôi không thể nhận chữa được.
Người đàn bà bé nhỏ ấy cảm thấy sự bạo dạn như đã trở về. Chót tranh đấu thì phải tranh đấu! Không còn sợ nữa, bà nói:
- Tôi chỉ đòi tiền thường để chữa ô mà thôi. Việc thuê lợp, tôi sẽ tự đi thuê lấy.
Người đàn ông bấy giờ như cảm thấy ngượng, gượng đáp:
- Thật là ít oi quá, thưa bà. Người ta chẳng bao giờ đi đòi chúng tôi thường cho những vật nhỏ mọn như thế này cả, xin bà nhớ cho rằng chúng tôi không thể xuất tiền ra để bồi thường những vật như khăn lau, bao tay, chổi quét và giẻ rách được. Vì tất cả những thứ cỏn con đó dễ bị lửa cháy xén hư hỏng hàng ngày.
Bà bỗng đỏ mặt, cảm thấy cơn giận như trọn vẹn xâm chiếm mình:
- Nhưng thưa ông, chúng tôi đã bị cháy lò sưởi trong tháng chạp vừa qua, thiệt hại gần ngót 500 quan. Thế mà ông Oreille nhà tôi đã không đòi hãng bồi thường gì cả. Nay thì lại rủi ro nữa, nhưng chỉ xin ông đền cho cái ô này mà thôi.
Bà không còn vấp phải tiếng nào nữa, bà tiếp:
- Nhưng xin lỗi ông, 500 quan thiệt hại trước kia thuộc về túi tiền của nhà tôi, còn 18 quan lần này thuộc về tôi. Cả hai không phải cùng là một việc.
Viên giám đốc như thấy không còn có lối thoát và nếu dùng dằng mãi câu chuyện có thể sẽ làm mất cả ngày, nên miễn cưỡng hỏi bà:
- Vậy xin bà nói cho biết tai nạn, đã xảy ra như thế nào?
Bà cảm thấy đắc thắng và bắt đầu kể:
- Thưa ông, thế này ạ. Số là tôi có để ở phòng ngoài một cái ống bằng thau dùng cắm ô và gậy. Hôm ấy, khi đi xóm về, tôi đã để ô vào đấy. Tôi tưởng cần phải nói để ông biết là ngay trên cái ống, có một tấm ván nhỏ dùng để nến và diêm quẹt. Tôi đưa tay lên với lấy 4 que diêm. Tôi đánh một, nó không cháy. Tôi đánh que khác, nó cháy nhưng lại bỗng tắt. Tôi đánh que thứ ba, vẫn không gì hơn…
Viên giám đốc bỗng ngắt lời bà để chen vào một câu chế nhạo:
- Thế thì những diêm này là của nhà nước chắc?
Bà không hiểu và vẫn tiếp tục nói:
- Điều đó cũng có thể lắm. Nhưng đến que thứ tư thì cháy hẳn được nến. Xong, tôi vào phòng nằm nghỉ. Nhưng chỉ một khắc sau, tôi nghe có mùi cháy. Tôi bao giờ cũng sợ lửa. Ồ, nếu như nhà tôi bị phải hoả tai, thì chắc đó không phải là lỗi của tôi. Nhất là từ khi xảy ra vụ hỏa hoạn ở lò sưởi như tôi vừa kể với ông, tôi luôn sống không yên lòng. Thế rồi tôi bỗng choàng dậy, đi ra, tìm kiếm. Tôi bắt hơi cùng khắp như một con chó săn, và cuối cùng tôi nhận ra cái ô này đang cháy dở. Có thể đó là do một que diêm đã rơi vào. Đấy, ông xem nó đã ra nông nỗi này…
Viên giám đốc có việc cần đi, nên hỏi:
-Thế bà định đòi bao nhiêu về sự thiệt hại ấy?
Bà đứng yên, im lặng, không dám vội định ngay một con số. Rồi, như muốn tỏ ra mình rộng rãi, bà đáp:
- Xin ông chỉ cho lợp lại nó mà thôi. Tôi không so đo gì với ông đâu.
Viên giám đốc chối từ:
- Không, thưa bà, tôi không muốn thế. Xin bà hãy cứ nói thẳng là bà đòi bao nhiêu?
- Nhưng… hình như là... Ồ, thưa ông, tôi không có ý gài bẫy ông đâu, tôi… Ừ, hay là ta làm thế này: Tôi mang ô lại hãng người chữa để cho lợp lại bằng thứ lụa tốt và bền; rồi sẽ mang hóa đơn đến cho ông. Như thế chắc ông đồng ý?
- Hoàn toàn lắm, xin đồng ý.Đây là giấy hoàn tiền lại cho bà, xin bà hãy giữ để chuyển qua két.
Ông ta đưa cho bà Oreille một tấm carte. Bà cầm lấy rồi đứng lên, vừa cảm ơn vừa bước vội ra như sợ rằng viên giám đốc sẽ đổi ý.
Và, bây giờ, bà vui vẻ bước trên đường, cố dò tìm một hàng ô nào cho có dáng thanh lịch. Khi bà gặp được một gian hàng ô có vẻ sang trọng, bà rẽ ngay vào và nói với giọng chắc nịch:
- Đây là chiếc ô cần lợp lại bằng lụa, một thứ lụa thật tốt. Xin ông hãy cứ dùng món lụa tốt nhất của ông, tôi sẽ không mặc cả gì đâu ạ…
(Le parapluie)