← Quay lại trang sách

Chương 3 Những dặm đường đăng đẵng

Cuộc chiến đã làm thay đổi ý nghĩa của từ khoảng cách . Tôi rời trường để về nhà gần như vào mỗi cuối tuần. Con đường làng như một dải lụa màu đen uốn lượn qua những đồng lúa và mù tạt, rặng liễu, cây phong Iran uy nghi hay cây chinar chạy dọc con suối chảy róc rách và những ngôi nhà nằm túm tụm trong vài ngôi làng nhỏ. Nhưng một chuyến đi sáu tiếng đồng hồ trên chiếc xe buýt địa phương thì thật nguy hiểm. Các xe tải quân sự và bán quân sự chạy trên cùng một con đường, chở hàng tiếp tế giữa vô số doanh trại hoặc đi càn quét trong các làng mạc. Quân du kích ẩn náu trong cánh đồng gần đường cái sẽ nổ súng vào các đoàn xe quân sự hoặc kích nổ mìn được chôn trên đường. Để trả đũa những đợt tấn công như vậy, bọn lính sẽ nã đạn vào mọi hướng và đánh đập bất kỳ ai chúng tóm được.

Một hôm cuối tuần trên đường về nhà, tôi đứng ở giữa lối đi trên xe buýt, gần bác tài xế. Xe buýt của người Kashmir giống như những quán cà phê ồn ào. Hầu hết mọi người đều quen biết nhau. Những giọng nói đủ mọi âm tầng tràn ngập cả xe. Bác tài mở một bài hát Bollywood và những lời hát sầu muộn vang lên trong mớ âm thanh hỗn độn đó. Đi được một dặm, một chiếc xe tải bán quân sự vượt mặt chiếc xe buýt của chúng tôi và lởn vởn ngay phía trước. Những người trong xe hạ giọng và bác tài tắt nhạc. Bọn lính thấy rằng, chạy gần một chiếc xe buýt dân sự sẽ ngăn quân du kích tấn công chúng. Nỗi lo lắng bao trùm cả xe. Bác tài bắt đầu sốt sắng cầu nguyện: “Lạy Chúa, tôi có ba đứa con nhỏ, xin ngài hôm nay đừng biến chúng thành con côi. Xin hãy đưa chúng con về nhà an toàn.” Xe chúng tôi chạy trong im lặng và hồi hộp chờ đợi. Rồi những giây phút đó cũng qua đi và chiếc xe tải bán quân sự tăng tốc. Bác tài giảm tốc độ để gia tăng khoảng cách. Khi chúng tôi ở trong địa phận làng Siligam, nằm giữa đoạn đường từ trường về nhà, thì tôi nghe một tiếng nổ lớn. Bác tài đạp thắng và chúng tôi thấy ở đằng xa chiếc xe tải bán quân sự chệch ra khỏi đường rồi dừng lại trên đồng. Tôi nghe hàng loạt tiếng súng bắn chặn – tiếng nhẹ là của những khẩu Kalashnikov, tiếng giòn là tiếng bắn trả của tiểu liên. Bác tài vòng xe và phóng hết tốc độ về hướng ngược lại. Mọi người trên xe đều cúi rạp xuống phía dưới ghế.

Tôi ngồi dưới sàn, nắm chặt một chiếc ghế. Tiếng gầm gừ của máy xe át cả tiếng súng đạn. Tôi nghĩ đến những phần cơ thể tôi có thể trúng đạn. Tôi ước ao trong tuyệt vọng là nó không phải khuôn mặt, đầu, hay cánh tay phải của mình. Tôi bỗng ý thức mãnh liệt về cơ thể mình. Tôi cảm nhận được cột sống đang căng cứng, cái cổ trống trải và đôi chân đang tê rần. Một viên đạn sẽ làm phần nào đau nhất? Tôi vùi đầu mình vào giữa hai đầu gối và nhắm mắt lại.

Chúng tôi đang chạy ra xa khỏi trận chiến. Tôi bắt đầu liệt kê những loại súng có thể bắn trúng chúng tôi. Có vẻ như chúng tôi đã ra ngoài tầm ngắm của AK-47 và tiểu liên cạc bin, nhưng một cây súng trường tự lên đạn, một khẩu súng máy tiểu liên hay trung liên hay súng cối 51 li có thể dễ dàng bắn trúng chúng tôi. Một lát sau, bác tài dừng xe lại. Tôi đứng bật dậy theo quán tính. Hai người đàn ông ôm lấy bác tài xế. “Anh đã cứu mạng chúng tôi,” một người khác nói, rồi bắt tay bác. Một ông già bật khóc. Một người phụ nữ vỗ lưng ông an ủi. Tôi cười với mọi người xung quanh. Chúng tôi bước xuống xe và uống nước ở dòng suối bên đường. Bác tài và một người đàn ông khác thì hút thuốc lá.

Chúng tôi vừa lên xe và bắt đầu chạy về hướng bãi đậu xe buýt ở làng Aishmuqam gần trường tôi, thì một đoàn xe tải bán quân đội chạy sầm sập về hướng chúng tôi. Đoàn xe dừng lại và chúng tôi cũng vậy. Đám lính có vũ trang lượn lờ quanh chiếc xe buýt và một viên sĩ quan của lực lượng bán quân đội ra lệnh cho chúng tôi xuống xe. Chúng tôi đứng thành hàng một trên đường. Tôi đứng gần cửa xe nhất và là người đầu tiên đi xuống. Tôi đang mặc đồng phục của trường và đeo balô đi học. Tên sĩ quan giơ cao khẩu súng như giơ cây ba ton. Tôi chờ hắn bắn. Mắt tôi không thể rời khỏi mắt hắn. Rồi hắn hạ súng xuống và đẩy tôi bằng tay kia. Tôi biết hắn sẽ bắn tôi. Nhưng hắn túm lấy một cánh tay tôi và thét lên, “Mày học ở cái trường gần trại bọn tao. Tao thấy mày đi ngang qua hàng ngày. Bây giờ thì biến khỏi đây ngay.” Hắn cho chiếc xe buýt và mọi người trên đó đi. Khi chúng tôi về đến bãi đậu xe, một đám đông đã tụ tập lại.

Hai tiếng sau, một chiếc xe buýt khác lại về đến và ông tài xế kể với tôi, “May cho chú mày là không có tên lính nào bị giết ở bãi mìn. Bây giờ đường đã thông, nhưng chúng bắt đầu mở một cuộc đàn áp ở các làng xung quanh.” Mười lăm phút sau, chúng tôi đi ngang qua nơi mìn phát nổ. Tôi không thấy một tên lính hay một chiếc xe quân đội nào. Chỉ có những cây dương liễu dọc hai bên đường, cánh đồng lúa, những mái tôn của một ngôi làng nằm bên kia đồng và một cái hố rộng bên góc phải của con đường bị lõm xuống sau vụ nổ. Ở các ngôi làng chúng tôi chạy ngang qua, những cửa tiệm đều đóng cửa và những con đường vắng bóng người, ngoại trừ các toán tuần tra của lính bán quân đội. May mắn là chúng đã cho xe chúng tôi qua.

Vài tuần sau tôi lại về nhà. Cuối tuần, chúng tôi chờ cha về thăm nhà từ văn phòng của ông ở Srinagar, nơi bị hư hại nặng nề vì bạo loạn. Hàng ngày chúng tôi nghe đài BBC Thế giới báo cáo về con số người chết ở đó. Cái giọng trang nghiêm của Yusuf Jameel, phóng viên đài BBC tại Srinagar, vang lên trong radio của chúng tôi hàng đêm: “Tôi nghe thấy tiếng súng.” Tiếng đạn réo chết người sẽ vang lên trên radio trong vài giây và giọng cam chịu của Jameel theo sau: “Lại một xác người vô danh nữa được tìm thấy trên sông Jhelum ở Srinagar.”

Xế trưa hôm đó, mẹ sai tôi đi mua sườn cừu để bà nấu bữa tối cho cha. Tôi bước ra khỏi nhà và nhìn thấy ông họ của mẹ, ông Saifuddin tóc trắng phau, đang ngồi bên quầy rau của mình và nhìn rà soát khu chợ. Ông không mua bán gì nhiều nhưng biết mọi việc diễn ra trong làng, vì ông dành hầu hết thời gian dòm ngó xem ai đi đâu và hỏi chuyện không ngớt. Ông vẫy tôi lại và hỏi, “Hôm nay là thứ bảy đấy! Sahib có về nhà không?”

“Dạ có, bố cháu sắp về tới rồi,” tôi đáp.

“Ông chỉ hỏi vì vẫn chưa thấy ông Hiệu trưởng (tức ông tôi) đến tiệm thịt. Ông ấy hay mua thịt vào tầm giờ này ngày thứ bảy. Ông đang thắc mắc, không biết mọi chuyện có bình thường không. Đây là thời khắc nguy hiểm mà.”

Tôi đảm bảo với ông là Ngoại đang bận rộn với mấy việc lặt vặt và tôi đang đi mua thịt. Tôi đi về hướng ông hàng thịt thì mấy người đàn ông tụ tập gần hiệu thuốc tây và tiệm may gọi to. “Cuộc phỏng vấn sao rồi?”

“À! Như mọi lần. Ông ấy chưa thấy Ngoại cháu đi mua thịt,” tôi nói.

Mọi người cười phá lên. Ông hàng thịt Abu nhìn về hướng chúng tôi, mỉm cười. “Làng này sẽ chẳng được như thế này nếu không có ông Saifuddin. Ít nhất thì ông ấy cũng hỏi thăm mọi người.” Ông bắt đầu chặt sườn cừu cho tôi, đồng thời chỉ tôi những phần thịt mà Ngoại sẽ đòi. Và nói: “Thầy Hiệu trưởng chắc là đi thăm vườn táo. Hay là thăm đồng?”

“Không ạ, ông cháu ở nhà, sửa mấy thứ đồ điện.”

Rồi tôi để ý một nhóm thanh niên mang súng đứng gần trạm xe buýt. Tonga, người đàn ông JKLF cao lớn ở làng tôi, đứng cùng với họ. Mấy thằng con trai trong làng đã bắt đầu gọi anh ta là Rambo, nhưng những người lớn tuổi vẫn gọi anh là Tonga. Một nhóm nhỏ dân làng đang tụ tập quanh Tonga và tranh cãi về cái gì đó. Ông Abu và tôi nhìn nhau. “Có Trời mới biết Tonga đang tính chuyện gì,” ông thở dài. Tôi chạy đến để tìm hiểu. Tonga và quân của anh ta đang bàn việc tấn công một đoàn xe tuần tra của Ấn Độ sẽ đi ngang qua làng chúng tôi. Dân làng đang cố thuyết phục anh đừng làm điều đó. Họ gọi anh bằng tên thật. “Mohiuddin Sahib, con là con trai của chúng ta, con là dân làng ta. Con phải dừng cuộc tấn công này lại.” “Mohiuddin Sahib, con biết bọn lính sẽ làm gì sau khi bị tấn công mà. Con muốn làng của con bị thiêu trụi sao?” “Con đã quên là nhà chúng ta còn có con gái sao? Chẳng lẽ con muốn bọn lính xông vào nhà chúng ta? Trời đất quỷ thần ơi, đây là làng của con mà!”

Tonga đứng tách khỏi những đồng chí đang ủ rũ của mình để thanh minh với dân làng. “Tôi biết! Tôi biết! Tôi đem mẹ tôi ra thề là tôi không thể làm được gì cả. Mỗi lần cấp trên của tôi dự tính một hành động nào ở làng này, tôi đều đấu tranh với họ. Chẳng lẽ tôi không biết sao? Bà mẹ già của tôi sống ở đây, ba đứa con gái của tôi sống ở đây.”

Ông thợ làm bánh Hasan cầm lấy tay Tonga. “Làm ơn đi! Con hãy làm điều gì đó đi!”

Ông Abu chêm vào. “Mohiuddin con ơi, làm ơn đi! Con có thể cứu vớt làng này. Làm ơn đi!”

Ngay cả ông lão Saifuddin cũng rời khỏi chỗ của mình và đi lại. “Mohiuddin Sahib, anh là con trai ta. Rahet, mẹ của anh, giống như chị ta vậy. Hãy nhớ lấy điều đó! Và hãy nhìn râu tóc bạc phơ của ta đây! Ta sẽ chạy đi đâu?”

Tonga cầm lấy tay ông lão. “Ông giống như cha của con vậy và con như con trai của ông. Nhưng con không thể ngăn được chuyện này hôm nay. Ông hãy làm ơn đóng cửa tiệm và đi đi! Làm ơn đi, chúng ta không có nhiều thì giờ đâu.”

Dân làng đành bỏ cuộc. Những người chủ tiệm kéo cửa sập xuống. Tôi chạy về nhà. “Mẹ ơi, người JKLF đang ở ngoài kia. Họ chuẩn bị tấn công một đoàn hộ tống,” tôi la lên. “Anh Tonga cũng ở đấy, nhưng anh ấy không thể ngăn được cấp trên. Chúng ta phải chạy đi thôi.” Mọi người đều hốt hoảng. Mẹ tôi xắn tay áo pheran và yêu cầu mọi người trật tự. Bà đang là giáo viên trung học và mọi người đều nghe bà. Bà giấu nữ trang của các dì để trong nhà tôi. Ngoại xách chiếc túi đựng các bằng cấp của gia đình, các giấy tờ nghiệp vụ, tiền bạc và sổ tiết kiệm. Chúng tôi đã sẵn sàng bỏ đi qua cánh cửa dẫn ra ruộng rau sau nhà. Rồi mẹ nói, “Còn đống sách thì sao đây?” Chúng tôi nhìn nhau.

Cha tôi đã xây dựng thư viện của mình trong nhiều năm trời. Mỗi cuốn sách đều có tên cha và số hiệu của sách ở trang đầu trong nét chữ nguệch ngoạc của cha hay nét chữ nắn nót hơn của mẹ. Tôi đã ngồi nhiều giờ dài trong thư viện của cha. Nhiều sách bìa cứng của những nhà văn Nga vĩ đại, của Nhà xuất bản Nhân Dân được bán trong những cửa hàng sách lưu động của Đảng Cộng sản Ấn Độ, nhiều cuốn sách mỏng bìa mềm của những tiểu thuyết gia người Mỹ và châu Âu, và cả sách của những nhà văn vĩ đại viết bằng tiếng Urdu như Premchand, Manto, Ghalib, Iqbal và Faiz. Và cả những sách về lịch sử, luật, sách chú giải về tôn giáo và chính trị ở Nam Á. Những cuốn sách đẹp nhất của cha tôi là bộ Tác phẩm toàn tập của William Shakespeare – một bộ sưu tập bìa bọc da, với những trang sách mạ vàng. Sách của cha là sách của một người tự học, những cuốn sách đã tạo nên con người ông, giúp ông gây dựng cuộc đời mình. Chúng làm cho ông nổi bật lên khi ông bàn luận về thời cuộc và những tư tưởng chỉ có một vài người trong thế giới của chúng tôi có thể bàn tới được. Việc sờ những gáy sách, rà ngón tay mình theo đường chữ, cảm nhận sự mịn màng của những trang giấy bên trong và bị mê hoặc bởi những câu chuyện đã làm cho tôi cảm thấy gần cha hơn và thấy mình chia sẻ được mối liên hệ của ông với một thế giới huyền diệu.

Nhưng không thể làm gì hơn, chúng tôi đành phải bỏ những cuốn sách này lại. Chúng tôi bước ra sân sau. Bà ngoại cứ nhìn hoài về hướng ngôi nhà. “Sahib chắc sẽ về bất kỳ lúc nào,” bà lặp đi lặp lại. Mặt trời đang chìm dần trên bầu trời và chúng tôi mong cha sẽ về vào bất cứ giây phút nào. “Thượng Đế sẽ che chở anh ấy. Mẹ không thể làm được gì bằng cách đứng nhìn,” mẹ thét lên với bà và cài chặt khóa.

Những người hàng xóm của chúng tôi đang đứng trong bãi cỏ nhà họ với vài ba chiếc túi. Yusuf và mấy đứa con trai ông, Manzoor, Khalid và Asif, cũng ở đó. “Bây giờ chúng ta còn nhìn gì nữa!” Ngoại gầm lên và chúng tôi bắt đầu đi. Ông Amin dược sĩ đi cùng với gia đình, ông Abu hàng thịt cũng ở đó với vợ và mấy đứa con trai. Phía trước một chút, tôi thấy ông thợ may cộc cằn Kaisar, đang giúp cha mình đi đến nơi an toàn. Và lão nông Gul Khan, người nhắc nhở việc cầu kinh, đang cõng cháu ngoại của mình trên vai. Không lâu sau, chuyến đi bộ của chúng tôi trở thành một cuộc chạy bộ. Tôi hy vọng cha sẽ nghe tin về vụ tấn công và tránh xa nơi này. Tôi hy vọng không ai bị giết trong cuộc tấn công và bọn lính không đốt nhà chúng tôi. Tôi nghĩ đến một số vật thân thương nhất của mình: mấy cuốn sách, cái tivi trắng đen, cái radio hiệu Sony và chiếc máy ảnh Polaroid.

Làng chúng tôi vắng người nhanh chóng, hầu như mọi người đều chạy về hướng Numbul, ngôi làng kề bên. Ngôi làng chạy ngang qua ruộng lúa và con suối Lidder của chúng tôi. Dòng nước suối màu ngọc bích chảy ào ạt qua những cánh đồng, sủi bọt trên những hòn đá. Đám cỏ dại mọc ven suối, những cây dương liễu đong đưa và đồng lúa đang chín vàng. Những ngọn núi đứng sừng sững như chứng nhân. Trên bầu trời xanh, đám quạ và diều hâu đang chao lượn. Dửng dưng. Chúng tiếp tục với mùa màng của chúng.

Chúng tôi đến cách dòng Lidder khoảng nửa cây số thì tiếng đạn đầu tiên vang lên. Ông Yusuf cố chạy nhanh hơn. Ông ngoại tôi dừng lại, còn ông Gul Khan thì nằm úp bụng xuống đồng, ôm chặt đứa cháu ngoại. Tôi muốn phá lên cười khi nhìn thấy ông Yusuf vừa chạy vừa lấy tay trái che gò má của mình như thể nó có thể ngăn được đạn. Cứ vài giây chúng tôi lại nghe tiếng đạn lốp bốp. Những khẩu Kalashnikov của nghĩa quân có tiếng khác với những cây súng máy và súng trường của bọn lính. Manxoor, con trai ông Yusuf, cố phân biệt tiếng súng nào là của bên nào. “Hiện giờ phe quân đội đang bắn trả. Nghĩa quân có vẻ đã ngừng bắn.” Ông bố thường ngày rất bình tĩnh tát vào mặt đứa con.

Tiếng súng vẫn nổ khi chúng tôi đến Numbul. Tất cả cánh cửa đều mở toang chào đón. Tôi không biết chúng tôi đã ùa vào nhà nào. Gia đình tôi được đưa vào một căn phòng. Dân của làng tôi đã ở sẵn trong đó, ngồi im lặng dọc các bức tường, tay cầm những tách trà đã vơi phân nửa. Khi gia đình tôi theo ông ngoại vào trong phòng, hai thanh niên đứng dậy nhường chỗ cho ông và bà, một thanh niên khác lấy tấm nệm mà anh ta đang dựa vào đặt sát tường cho ông. “Đây không phải là lúc khách sáo,” ông từ chối. Tiếp theo là trà. Không ai nói gì nhiều. Chúng tôi lắng nghe tiếng súng văng vẳng.

Sau một lúc, ông ngoại và vài người đàn ông khác bước ra ngoài. Tôi theo sau. Chúng tôi đứng nhìn về hướng làng mình. Tất cả những gì tôi có thể thấy là những ngọn cây xa xa, vài tháp nhà thờ và ngọn núi của làng. Không ai nói ra nhưng mỗi chúng tôi đều đang tìm kiếm phía chân trời những ngọn lửa và đọn khói. Thuốc súng không cần nhiều thời gian để đốt trụi một ngôi làng. Nhưng tôi không nhìn thấy khói mà chỉ thấy một bầu trời đang tối dần.

Tôi tưởng tượng cảnh người ta chặn một chiếc xe buýt địa phương ở làng bên, báo cho tài xế biết về vụ tấn công và cho nó quay ngược lại. Tôi tưởng tượng cha đang ôm chồng báo và hồ sơ văn phòng, rời khỏi xe buýt và tá túc ở nhà một người quen. Nhưng tôi không thể bỏ qua những ý nghĩ về việc chiếc xe buýt của cha đang chạy về hướng làng chúng tôi hoặc đang bị kẹt giữa các làn đạn. Lần đầu tiên tôi hiểu được trọn vẹn việc ông phải trải qua những cuộc hành trình nguy hiểm hết tuần này sang tuần khác để gặp chúng tôi như thế nào.

Tiếng súng im bặt sau một lúc. Gia đình tôi ở lại Numbul đêm hôm đó. Sáng hôm sau chúng tôi quay về làng trong nỗi bất an và hồi hộp. Chúng tôi đi bộ rất nhanh và chỉ dừng lại để chào hỏi người quen và nhìn về hướng các ngôi nhà trong làng hòng tìm dấu vết của trận chiến đấu tối qua.

Chúng tôi dừng lại đột ngột khi về đến sân sau nhà mình. Ông bà ngoại, mẹ, em trai tôi, các dì và tôi chết đứng trong một giây, nhìn trâng trâng ngôi nhà không hề suy suyển, giống như là chúng tôi đã phát hiện ra một vầng trăng non. Tôi chạy vù vào sân sau. Cha đang đứng trên hàng hiên. “Cha đã nghe tin đó trên đường về và ở lại Islamabad, chỗ ông Mohammad Amin,” ông bình thản nói.

Tôi lắc lắc tay ông. “Nhưng cha có sao không?”

Cha mỉm cười. “Khỏe! Bọn cha ổn mà.”

Ngoại kể lại cho cha chi tiết cuộc tháo chạy và việc chúng tôi ở lại Numbul. Tôi cũng tham gia và kể lại việc thấy nghĩa quân trên đường và cuộc nói chuyện của dân làng với anh Tonga. Thằng em trai tôi cũng không thể im lặng. “Cha ơi, anh Basharat đã khóc lúc nhà mình ở bên Numbul.” Cha nhìn đi nơi khác, giả vờ không nghe nó nói. “Thôi vào nhà đi!” ông nói.

Chúng tôi đi vòng vòng, kiểm tra từng phòng hướng mặt ra đường cái xem có dấu hiệu hư hại nào không. Vài viên đạn còn dính trên trần căn phòng của cha và vài viên nữa găm vào bức tường phòng khách xoay ra đường. Ông ngoại dùng kềm lôi mấy vỏ đạn ra. Chúng tôi nhìn chúng trong vài giây rồi quăng đi.

Đến xế trưa, cha ngồi trong cái góc thường lệ của mình trong phòng khách, cùng vài cuốn sách và một ấm samovar đựng trà nóng bên cạnh. Hai anh em tôi ngồi đối diện cha. Thỉnh thoảng, một người bạn hay một người bà con sẽ ghé qua và những câu chuyện của tối qua lại được thuật lại. Giữa những lần kể này, cha sẽ đọc một hay hai trích đoạn thơ Urdu hoặc một đoạn Shakespeare rồi quay sang hai anh em tôi, nói: “Đứa nào giải nghĩa được đoạn này sẽ được năm rupee.”