← Quay lại trang sách

Chương 4 Boongke hóa

Trong vòng vài tháng sau đó, đã có vô số cuộc đàn áp xảy ra trong làng tôi và những làng lân cận.

Thêm nhiều doanh trại quân đội Ấn Độ được dựng lên ở Kashmir. Những chiếc xe quân đội, lính có vũ trang, những khẩu súng máy ló ra khỏi các boongke bằng bao cát ở khắp nơi. Chết chóc và sự sợ hãi đã thường trực, như việc đi học hay chơi cricket hay bóng đá. Có những lúc chúng tôi đã quên mất cuộc chiến tranh ở quanh mình. Có những lúc chúng tôi không thể.

Mùa hè năm 1992, dì tôi có thai và mẹ thường xuyên lo lắng về một cuộc tấn công của quân đội hay một trận càn vào làng. “Chúng ta sẽ làm sao nếu có chuyện gì xảy ra đây?” mẹ lẩm bẩm. Một buổi trưa tháng sáu, những cơn đau đẻ bắt đầu hành hạ dì tôi. Chồng dì, chú Bashir (ông chú có cái giọng nói tiếng Anh bí ẩn), ông ngoại và mẹ bàn việc đưa dì đến một bệnh viện ở Anantnag.

Nhưng có một cuộc bãi công, hoặc là một cuộc chống đối bằng cách đóng hết cửa tiệm ngày hôm ấy để phản đối điều gì đó – một sự kiện rất thường xảy ra trong những ngày đó. Những cửa tiệm đều đóng cửa và không có một phương tiện vận chuyển nào đi lại. Mấy đứa con trai hàng xóm chơi cricket với một trái bóng quần vợt trên đường. Không có cách nào để đến bệnh viện ngoại trừ cách thuyết phục một trong hai ông tài xế trong làng chở dì tôi đến đó. Ngoại tìm được Dilawa Khan, một trong hai ông tài xế. Chú Bashir, mẹ và Ngoại cùng hộ tống dì tôi đến bệnh viện. Khi họ chuẩn bị đi, một người quen đi chiếc scooter đến và bảo họ đợi.

Nghĩa quân đã tấn công một đoàn xe tải của quân đội gần bệnh viện ở Anantnag và một trận bắn nhau gay gắt đang diễn ra. Dì tôi đang đau quằn quại. Mẹ tìm cách xoa dịu dì. Chú Bashir hồi hộp đi ra đi vào. Ngoại thì cầu nguyện.

Sau một lúc, chúng tôi không thể chờ thêm nữa. Mẹ và chú cùng ngồi với dì ở ghế sau taxi. Ngoại ngồi ở ghế trước. Dilawar, người tài xế cao, đầu hói, ngồi sau tay lái, nghiêm nghị và quả quyết. Ông nổ máy xe và quay sang Ngoại. “Thầy Hiệu trưởng ơi, con bé cũng là con gái tôi. Cho dù bọn chúng có đem xe tăng ra, tôi cũng quyết đưa nó đến bệnh viện.” Các cầu thủ cricket đã dừng cuộc chơi và đứng bên chiếc xe. Hầu hết mọi người trong làng đã tập trung lại để tiễn họ. Bọn trẻ con cố chen đến gần cửa sổ xe và nhìn dì ấy. Những người đàn bà với tay vào trong để vỗ đầu và cầm tay dì. Những người đàn ông la lối, nhắc họ nhanh chân lên và phải dũng cảm và kiên nhẫn. Chiếc xe chạy đi. Hàng loạt những cánh tay giơ lên và những giọng nói đồng thanh hòa thành lời cầu nguyện: Miyon Khoday Thaeyinav Salamat! Miyon Nabi Kariney Raecchih! (Cầu xin thánh Allah giữ gìn cho con được bình an! Cầu xin đấng tiên tri Mohammad canh chừng con!)

Ba tiếng sau, ông Dilawar tấp xe vào bên ngoài nhà chúng tôi. “Một thằng con trai!” ông ấy la lớn.

Tôi bắt tay ông. “Dì con có khỏe không ạ?”

“Khỏe, khỏe, nó khỏe. Ta đã lái rất nhanh. Đến những trạm kiểm soát, ta gọi tất cả bọn lính là ‘Đức ngài’ và nói với bọn chúng là đứa con gái ta sắp sinh đến nơi rồi. Suy cho cùng, chúng cũng là con người mà thôi. Chúng ta đến đó vừa kịp lúc.” Tôi cảm ơn ông và ông mỉm cười. “Dì cháu giống như con ruột của ta vậy. Thằng bé thật kháu khỉnh!” Chúng tôi đặt tên nó là Murtaza – người dũng cảm.

Vài tháng sau, vào một ngày mùa thu, tôi đi cùng với vài người bạn trong một chợ nhỏ gần nhà. Một tên quân cảnh bước vào và chúng tôi lần tay vào túi để lấy chứng minh thư. Một tên lính dừng lại bên cạnh bạn nghĩa là bạn sẽ có rắc rối. Bạn sẽ bị kiểm tra chứng minh thư, hoặc bị đánh đập, hoặc ghé thăm doanh trại quân đội gần nhất. Hay đơn giản là hắn có thể ra lệnh cho bạn vác một cái bao đựng hàng tiếp tế đến trại của hắn. Binh lính ép buộc thường dân làm việc cho chúng là chuyện thường ngày.

Tên lính đi về phía chúng tôi chỉ để hỏi mua mấy cục pin cho radio của hắn. Tôi chỉ hắn đến tiệm của ông Bashir Lala, anh họ xa của mẹ tôi, một người đàn ông tốt tính khá nổi tiếng trong dòng họ về tính nhút nhát. Chúng tôi hay mua vui trong sự bối rối của ông.

Một ngày nọ ông Bashir đi thăm họ hàng ở Anantnag. Dân địa phương thường gọi Anantnag bằng cái tên từ ngày xưa của nó, Islamabad. Bọn lính sẽ đánh đập bất cứ ai dùng cái tên Islamabad, bởi nó cũng là tên thủ đô của Pakistan. Ông Bashir luôn nhắc nhở mình phải nói Anantnag mà không nói Islamabad nếu có một tên lính hỏi ông đi đâu. Xe buýt của ông bị bắt dừng lại tại một trạm kiểm soát ngoài thị trấn và một tên lính hỏi, “Ông đang đi đâu đó?”

Ông Bashir quên mất câu trả lời mình đã tập dượt trước. “Islamabad.” Cây ba ton của tên lính vụt vào tay trái ông đau điếng và ông Bashir thét lên, “Anantnag, thưa ông! Anantnag, không phải Islamabad.”

Người ta đồn ông Bashir đã đón chiếc xe buýt kế về nhà và không thăm viếng cả Anantnag lẫn Islamabad hàng mấy tháng sau đó.

Tên lính muốn mua mấy cục pin bước đến tiệm ông Bashir. Tôi thấy ông Bashir đứng dậy khỏi chiếc ghế gỗ của mình và đi về chỗ những bậc thang dẫn đến tiệm, run lẩy bẩy và tuôn mồ hôi đầm đìa. Ông hỏi tên lính, “Thưa ông! Tôi đã làm gì ạ? Xin đừng tin mấy thằng ngốc này, chúng nó không có chuyện gì khác để làm ngoài việc chọc ghẹo tôi. Tôi bằng tuổi cha chúng, mà chúng vẫn hù dọa tôi. Tôi chỉ là một chủ tiệm nhỏ bé.” Tên lính phá lên cười và hỏi mua pin. Ông Bashir lóng ngóng lục lọi mấy kệ trong tiệm, không tìm thấy gì và lại xin lỗi. “Ông nên bán pin ở đây,” tên lính nói. Ông Bashir hỏi, “Hiệu gì thưa ông?”

Tên lính đi tiếp sang tiệm khác. Ông Bashir dõi theo cả toán lính cho đến khi chúng đi mất. Chỉ khi ấy ông mới dám hét lớn: “Đồ con lợn! Tụi mày dám giỡn mặt với tao! Đồ con chó!” Ông ấy tiếp tục la hét chúng tôi. Rồi ông vùi đầu mình giữa hai đầu gối, che bằng hai bàn tay và òa khóc. “Sao tụi mày lại đối xử với tao như vậy? Tim tao có vấn đề, mấy cây súng làm tao sợ chết khiếp. Đúng, tao là thằng hèn. Tao không muốn chết. Tao có hai đứa con gái. Tao phải gả chúng nó trước khi tao chết.” Ông ôm cái đầu hói tròn trịa của mình và khóc. “Mày cũng vậy nữa! Mà mày là con trai của chị tao,” ông ấy nói, nhìn thẳng vào mắt tôi.

Không lâu sau, tôi đã hiểu hơn về nỗi khiếp sợ của ông. Một buổi tối mùa đông nọ, tôi và thằng Wajahat đang xem bộ phim Ba chàng ngự lâm pháo thủ . Dù là chiến tranh hay hòa bình, người ta cũng không thể để vuột mất cơ hội xem một bộ phim như thế. Truyền hình Pakistan chiếu vô số bộ phim Hollywood cổ điển. Chiếc tivi của chúng tôi thu tín hiệu kém, nên thằng Wajahat và tôi phải tốn hàng mấy tiếng điều chỉnh ăng ten. Tôi sẽ vác cái ăng ten trên một cọc gỗ từ mái nhà xuống bãi cỏ sân trước, qua chuồng bò và xoay nó từ từ. Thằng Wajahat sẽ chạy không kịp thở giữa phòng khách và chỗ tôi làm để báo cáo tiến trình. Thỉnh thoảng cái tivi sẽ bắt được hình ảnh, nhưng âm thanh sẽ bặt vì nhiễu. Thỉnh thoảng chúng tôi có thể bắt rõ âm thanh và những con người sẽ hiện lên màn hình như trong phim âm bản. Rốt cuộc chúng tôi cũng sẽ dò được trúng chỗ cho cái ăng ten và hình ảnh, âm thanh sẽ cùng song hành.

Tôi vặn âm thanh xuống mức nhỏ nhất, thắp một ngọn đèn và hạ hết màn xuống để tránh mọi sự chú ý. Bên ngoài, đêm giới nghiêm vẫn nằm im thin thít như một người đàn ông đang chờ đợi cuộc tập kích. Ba chàng ngự lâm chiến đấu, nô đùa, mua vua cho chúng tôi một lúc. Bỗng tiếng ầm ầm của những chiếc xe tải quân đội bên ngoài xua đi những trận đấu kiếm. Chúng tôi tắt tivi và nhìn he hé qua màn cửa. Ánh đèn pha của chiếc tải thắp sáng con đường vắng và những ngôi nhà xung quanh. Sau khi đoàn xe quân sự đi qua, chỉ còn lại sự im lặng và vầng trăng đăm chiêu tựa mình vào những đám mây.

Buổi sáng đến đột ngột bằng một câu thông báo thật to qua cái loa công cộng của đền thờ: “Asalam-u-alikum! Đây là thông báo khẩn. Quân đội đã bao vây làng. Tất cả đàn ông, thanh thiếu niên phải tập trung trong bãi cỏ ở sân bệnh viện trước sáu giờ. Sẽ có một cuộc trấn áp. Từng căn nhà sẽ bị lục soát. Đàn bà có thể ở nhà.” Ông Gul Khan, lão nông sống trong một cái lán bằng gạch gần đền thờ và là người nhắc nhở việc cầu nguyện, lặp đi lặp lại thông báo đó vài lần. Chỉ vài người hưởng ứng lời nhắc cầu nguyện buổi sáng sớm của ông. Nhưng lời thông báo về cuộc càn quét đã mang đến cho ông một thứ quyền lực mới. Chỉ trong vài phút, cả nhà tôi đã có mặt tại gian bếp. Sau một bữa sáng nhanh gọn, Ngoại, cha, tôi và đứa em bước ra ngoài đường. Những nhóm nhỏ đàn ông và thanh thiếu niên trong làng xóm đã đứng sẵn ở trước cửa mấy cửa tiệm gần đó.

Không lâu sau, mẹ và các dì sẽ mở hết cửa tất cả gian phòng và tủ bếp cho bọn lính lùng sục quân khởi nghĩa, súng, hoặc đạn dược. Ở Kashmir vẫn thường xảy ra chuyện bọn lính giở trò xấu với đàn bà con gái trong những trận càn quét. Nhưng chúng tôi đã không thể làm được gì.

Một nhóm nhỏ những khuôn mặt mắt nhắm mắt mở bắt đầu di chuyển qua những cái chợ rỗng không về hướng khu bệnh viện. Vầng mặt trời nhợt nhạt, giấu mình sau những ngọn núi, chạm khẽ vào mấy nóc nhà lợp tôn. Chúng tôi đi trong màn sáng tù mù qua các cửa tiệm đìu hiu, giữa những hàng lính đội nón cối kim loại ánh màu xanh lá đang ôm chặt những khẩu súng trường và súng máy. Tôi do dự đi theo cha. Mấy tên lính quát tháo chúng tôi bước nhanh hơn. Chúng tôi phục tùng. Một nhóm khác kêu chúng tôi đưa chứng minh thư ra và giơ tay lên. Trong vòng vài giây đã có một hàng người dài nối đuôi nhau trước cổng bệnh viện. Hai hàng tay giơ lên, cánh tay phải nắm chặt chứng minh thư cao hơn cánh tay trái để không vài xentimét. Không có một nét nào riêng để phân biệt giữa tay của một nông dân và một ông thẩm phán, mà chỉ có chuyện người này đứng sau người khác.

Tôi đi vào bên trong khu bệnh viện, nơi có hàng trăm người đang ngồi dưới cái sàn trống trơn lạnh lẽo. Cha, Ngoại, tôi và em trai ngồi chung với một nhóm những người hàng xóm. Một viên sĩ quan quân đội ra lệnh cho khách ghé thăm bệnh nhân đứng vào một nhóm cách xa dân làng. Dân làng được lệnh đi hàng một ngang qua một xe quân sự. Từng người được yêu cầu dừng lại tại cửa sổ xe và đưa mặt cho một gã mukhbir bịt mặt xem. Mukhbir là từ để chỉ một người Kashmir đã trở thành kẻ chỉ điểm nghĩa quân và những người ủng hộ họ.

Một số tên mukhbir vốn là nghĩa quân đã bị tra khảo đến khuất phục. Một số khác tình nguyện làm vì tiền. Một số khác gia nhập những toán vũ trang để trả thù việc nghĩa quân đã giết thành viên nào đó trong gia đình họ. Cách đây khá lâu, nghĩa quân đã đem một tên bị tình nghi là chỉ điểm đến con kênh chạy dài theo chân ngọn núi nằm sừng sững che chắn làng chúng tôi và bắn hắn. Họ ném gã đàn ông bị thương xuống kênh và bỏ hắn lại cho đến chết. May mắn thay, gã đàn ông bị thương, hóa ra là tên lang thang ở làng bên trước đây là học sinh của ngoại tôi đã sống sót. Hai viên đạn trúng vào cổ hắn nhưng dòng nước lạnh của con kênh đã làm máu của hắn đông lại và cứu hắn.

Trong những giờ tiếp theo chúng tôi bị bắt xếp thành hàng một và đi ngang qua tên mukhbir . Nếu tên chỉ điểm giơ tay lên, bọn lính sẽ nện người bị tình nghi rồi đem anh ta đi thẩm vấn. Đến lượt tôi. Tim tôi đập thình thịch, nhưng tôi cố không tỏ ra hồi hộp. Tên mukhbir đợi một giây và bảo tôi đi tiếp. Nhưng Manzoor, thằng con trai mười sáu tuổi của người hàng xóm chúng tôi, thì bị đem đi thẩm vấn. Cha nó từng làm quản lý khách sạn ở một khu du lịch gần đó. Sau khi trận chiến nổ ra, du khách đã ngừng đến Kashmir và người ta phải đóng cửa khách sạn. Cha nó sửa sang gian phòng tầng trệt nhà nó và mở tiệm bán rau. Thằng Manzoor đi học, nhưng vào những ngày liên tục xảy ra bãi công chống lại việc bắt bớ, phóng hỏa, hay giết chóc người bị giam giữ của bọn lính, nó nán lại cửa tiệm trong khi trường vẫn đóng cửa. Nó là một thằng choai choai nói nhiều và thích đàn đúm. Thỉnh thoảng, nghĩa quân đi ngang qua tiệm, sẽ mua gì đó hoặc đơn giản là ngồi lại và nói chuyện. Thằng Manzoor rất khoái được chú ý và được nói chuyện với những người chỉ huy. Lính quân đội có vẻ đã nghe về việc nghĩa quân từng ghé lại tiệm nó.

Tôi quay về chỗ của mình trên bãi cỏ, cạnh cha và Ngoại đang an ủi người cha quẫn trí của thằng Manzoor. Rồi hai tên lính đi về hướng chúng tôi. “Ở đây có ai tên là Basharat Peer không? Nó là học sinh lớp chín.” Chúng biết trường tôi. Tôi đứng dậy. “Đi theo tụi tao,” một tên nói. “Nhưng... tôi là học sinh mà,” tôi thử phản đối. “Tụi tao biết. Tụi tao chỉ cần mày nhận mặt một người,” tên lính nói cụt lủn. Họ đi về trung tâm thẩm vấn, trước kia từng là nhà ở cho bác sĩ. Tôi đi theo họ, không quay đầu lại để xem cha và ông ngoại phản ứng thế nào. Chúng đưa tôi đi vào trong một tòa nhà ba phòng. Tôi đã nhiều lần đến đó gặp một người bạn của gia đình làm bác sĩ. Tôi bị bắt ngồi trong một phòng chứa đồ và bọn lính dập cửa lại sau lưng tôi.

Căn phòng trống và chỉ có một cửa sổ duy nhất quay mặt về hướng ngọn núi của làng. Tôi đứng gần cửa sổ và nhìn chằm chằm vào cửa đi. Nó là một cái cửa gỗ tầm thường, được sơn màu xanh nhạt theo quy định dành cho những tòa nhà của bệnh viện. Tôi nhìn chằm chằm vào cánh cửa rồi nhìn đồng hồ trên tay mình. Tôi quay sang phía cửa sổ và nhìn ngọn núi, nhìn những cây thông đứng trong ánh sáng rực rỡ của bình minh, nhìn con đường mòn gồ ghề uốn lượn theo sườn núi dẫn xuống con kênh, nhìn những túp lều cũ chơ vơ nằm trong khoảng đất trống bên cạnh con kênh. Tôi lại nhìn đồng hồ và quay về hướng cửa. Cánh cửa gỗ vẫn bất động. Tôi ngồi xuống sàn và nhìn chằm chằm vào cánh cửa, đầu óc hơi tê dại. Việc dự đoán về nội dung cuộc thẩm vấn còn tệ hơn chính cuộc thẩm vấn.

Tiếng than khóc và kêu la từ mấy phòng bên cạnh làm tôi giật mình. Tôi liên tục nghe những từ: Khodayo Bachaav! (Cứu con, Thượng Đế ơi!) và Nahin Pata sir! (Tôi không biết, thưa ông!) Chúng đang tra tấn những người đàn ông và thiếu niên bị đưa đi sau khi tên mukhbir chỉ mặt họ. Tôi nghĩ đến thằng Manzoor. Cái thân mảnh khảnh của nó làm sao có thể chịu đựng được bất kỳ cái gì kia chứ? Tôi nghĩ đến đứa con trai trong trường mà chúng muốn tôi nhận mặt. Tôi lẩm nhẩm tất cả lời cầu nguyện mà tôi biết. Cái cửa vẫn im lìm. Tôi nhìn cái sàn dơ bẩn và đợi. Những tiếng kêu rú lại tiếp tục giữa những khoảng yên lặng ngắn ngủi.

Khoảng hai giờ sau, cửa mở bật ra. Hai tên lính đứng chĩa súng vào tôi. Tôi đứng dậy. Tôi bị tê cứng người, sợ hãi, chăm chăm nhìn vào mặt bọn chúng. Nhưng chúng không đánh tôi. Một trong hai tên bắt đầu tra hỏi.

“Mày tên gì?”

“Basharat, thưa ông!”

“Nguyên tên họ?”

“Basharat Ahmad Peer, thưa ông!”

“Tên cha?”

“Gulam Ahmad Peer, thưa ông!”

“Ông ta làm gì?”

“Nhân viên chính phủ, thưa ông!” Rồi tôi nhanh nhẩu nói thêm vào để gia tăng hiệu quả, hy vọng nó có thể giúp chút gì, “nhân viên Phòng Dịch vụ Hành chính của Kashmir, thưa ông!”

Hắn có vẻ như không nghe thấy tôi. “Mày sống ở đâu trong làng?”

“Ở cuối đường, thưa ông! Kế bên tiệm thuốc tây.”

Tôi tiếp tục nhìn hắn rồi nhìn thật nhanh sang tên lính kia. Nhưng những gương mặt vô cảm và lạnh lùng của chúng không tiết lộ điều gì.

Đột nhiên: “Mày theo nhóm nào? JKLF hay HM?”

“Không theo ai hết, thưa ông! Tôi là học sinh.”

Hắn dừng lại và nhìn tôi. “Đứa nào cũng nói mình là học sinh.”

“Có bao nhiêu đứa bạn mày theo tụi đó?”

“Không có đứa bạn nào của tôi, thưa ông! Tất cả tụi nó là học sinh.” Tôi lấy thẻ học sinh trong túi áo sơ mi của mình ra và trình nó.

Hắn đọc lướt, lật qua lật lại và trả cho tôi. “Vũ khí đâu?”

“Tôi không có vũ khí, thưa ông! Tôi là học sinh.”

“Thôi nào, nói cho tụi tao nghe. Mày biết là tụi tao có những cách khác để tìm ra mà.”

“Tôi biết, thưa ông! Nhưng tôi chỉ là một học sinh.” Tôi năn nỉ.

“Nghĩ kỹ hơn đi. Tao sẽ quay lại trong vài phút,” tên thẩm vấn nói, rồi bỏ đi.

Tên lính kia đứng đó im lặng. Tôi cố gắng thuyết phục hắn rằng tôi chỉ là một học sinh. “Nói với ông sĩ quan khi ông ta quay lại,” hắn nói và giữ nguyên thái độ im lặng đáng sợ của mình. Sau một hồi, gã thẩm vấn quay lại và hỏi lại những câu đã hỏi. Tôi chỉ có đúng một câu trả lời:

“Tôi là học sinh.”

“Thôi được rồi,” hắn nói, “tao biết mày là học sinh.” Hắn có vẻ đã dịu đi một tí. Hắn hỏi về một học sinh trong trường tôi, cái đứa vẫn còn tên trong danh sách nhưng ít khi đến trường. Nó là thằng Pervez, bạn chí cốt của tôi ở trường, một giọng ca Bollywood dở tệ, tiền vệ trụ của đội đá banh, một thằng con trai có đôi má hồng và mặc đồ thể thao màu xanh dương. Tôi nhanh nhảu trả lời và cho biết tên ba nó, nghề nghiệp và tên làng của họ. Tôi cũng nói thêm là nó có bà con ở làng chúng tôi. Thằng Pervez đang thăm bà con và đã bị bắt trong đợt càn quét này. Chúng muốn kiểm tra chứng minh thư của nó. Gã thẩm vấn nhìn tôi trong một giây và nói, “Thôi được rồi! Mày có thể đi.”

Tôi cảm ơn hắn rồi đi ra khỏi kho chứa đồ. Tôi có thể cảm thấy hàng trăm đôi mắt tò mò, thông cảm nhìn vào khuôn mặt mình. Tôi trở nên rất ý thức về bản thân, bước đi thận trọng và cố gắng mỉm cười. Cha và Ngoại đứng dậy và bước về phía tôi. Tôi ôm lấy họ. “Bọn chúng có đánh con không, ngài Tổng tư lệnh?” Cha cố pha trò. Mắt của Ngoại ươn ướt, ông choàng một cánh tay qua vai tôi và không nói gì cả. Sau một lúc nữa, thằng Manzoor xuất hiện, đi khập khiễng. Lát sau, khi đợt càn quét chấm dứt, bạn bè của tôi đều được thả. Thằng Pervez đi cà nhắc đến chỗ tôi. Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Tôi rủ nó về nhà tôi. Nó nói: “Tao phải đi về nhà. Cảm ơn nhé! Mày đã cứu tao hôm nay.” Tôi nhìn nó đi. Cái áo sơ mi carô màu quế dần biến mất trong đám đông.

Tôi không bao giờ thấy nó nữa. Vài năm sau, tôi nghe nói nó đã gia nhập nhóm JKLF và bị giết trong một trận đọ súng.

Ngày hôm ấy qua đi bằng các cuộc viếng thăm chóng vánh nhà những người đàn ông và thanh thiếu niên đã bị bắt. Khắp người thằng Manzoor đầy vết bầm tím do bị đánh đập nhiều lần. Cha nó cấm tuyệt nó không được bám trụ tại tiệm tạp hóa. Ở nhà, gia đình tôi nói về dấu vết ria mép và râu quai nón đã bắt đầu xuất hiện trên mặt tôi. Bọn lính đặc biệt nghi ngờ người có bất kỳ loại râu ria nào trên mặt. Một số đàn ông lớn tuổi trong làng – kể cả cha của Manzoor – trước đây từng nhuộm tóc cho đen, nay đã ngừng việc đó. Tóc muối tiêu làm bạn ít bị nghi ngờ hơn. “Một tí râu quai nón không có lợi cho con,” cha nói với tôi. “Con phải cạo râu.” Ông ngoại cười mỉm. Mẹ thì cười phá lên. Tôi cảm thấy xấu hổ. Cha đem bộ dao cạo của ông ra. “Đi nào. Cha sẽ dạy con làm. Dễ lắm.” Tôi vẫn luôn xem cha cạo râu. Tôi đứng trước gương của nhà tắm, ông đứng gần tôi. Tôi tấp nước vào mặt và bỏ một ít kem cạo râu hiệu Old Spice của ông lên một bàn chải. “Xoay bàn chải chậm chậm thành vòng tròn trên da,” cha nói. Trong chốc lát mặt tôi biến mất trong đám bọt trắng. Cả gia đình đang xem tôi. Cha đưa tôi dao cạo của ông. “Kéo nó chậm thôi. Đừng ấn mạnh, nếu không con sẽ cắt vào mặt mình.” Tôi đã cạo được râu.