Chương 5 Chuyến tàu tốc hành đi Shalimar
Một buổi trưa mùa xuân năm 1992, tôi nhìn thấy một đoàn xe quân sự chạy trên con đường mòn bụi mù dẫn từ trường tôi đến làng Aishmuqam. Tôi bước vội về hướng rặng liễu và bạch dương gần hàng rào kẽm của trường để nhìn cho rõ hơn. Đoàn xe tải thắng két lại ngay tại cổng trường tôi. Bọn lính xông vào trường. Khu nhà này thuộc quyền sở hữu của Trung tâm Nghiên cứu Địa chất của Ấn Độ, nhưng họ đã đóng cửa các văn phòng ngay sau khi cuộc chiến bắt đầu và trường chúng tôi đã thuê lại một vài tòa nhà. Trong vòng vài giờ, chúng đã dỡ hết đồ trên xe tải và biến khu nhà thành một doanh trại quân đội.
Vài ngày sau, chúng xây những vọng gác và boongke cát dọc theo hàng rào của trường. Những họng súng máy và gương mặt lạnh lùng của binh lính nhìn trừng trừng ra ngoài từ những lỗ châu mai hình chữ nhật của các boongke, được chắn bằng lưới kim loại hòng làm chệch hướng những quả lựu đạn có khả năng sẽ được ném vào. Không lâu sau chúng tôi có những luật lệ phải tuân theo. Nhiều phần thuộc khu vực trường, kể cả một nửa tòa nhà chính, trở thành khu cấm địa. Chúng tôi phải mang theo chứng minh thư và trình ra mỗi khi ra vào trường. Một tấm biểu ra lệnh người ra vào phải trình giấy tờ được dựng lên gần trạm kiểm soát ngay cổng trường. Khách phải viết tên, địa chỉ và những thông tin khác của họ vào một bảng đăng ký và chỉ được vào bên trong trường sau khi bị bọn lính lục soát thân thể.
Đám lính không bao giờ làm phiền chúng tôi. Chúng tôi đến lớp học, chơi đá banh và cricket và trong phần sân của mình, chuyện trò về đề tài mọi người đều đang bàn tán ở Kashmir: chiến tranh. Chúng tôi giả vờ thờ ơ với chính trị nếu có một tên lính nào đó hỏi chuyện. Bọn lính bắt đầu công việc “thống trị theo khu vực”, tức là tuần tra con đường đi ngang qua trường và ra đi thật sớm vào buổi sáng để thực hiện những cuộc càn quét ở những làng lân cận. Trong vài tuần lễ, tôi và bạn bè cùng trường bắt đầu quen dần với hình ảnh đoàn xe tải quân đội quay về sau những trận càn quét và đàn áp những người bị tình nghi là quân khởi nghĩa. Những thanh niên bị trói bằng thừng được đưa vào các tòa nhà của trường thuộc phần đất quân đội chiếm đóng. Tối tối trong phòng mình, chúng tôi sẽ nghe thấy tiếng kêu la của những tù nhân bị tra tấn. Những đám học sinh sẽ tụ họp lại bên ngoài, suy diễn về các hình thức tra tấn mà những người hàng xóm mặc quân phục của chúng tôi đang hứng chịu. Chúng tôi bàn đến việc giúp đỡ các tù nhân chạy trốn nhưng không có cả phương tiện lẫn ý chí để thực hiện.
Cái doanh trại quân sự và những chiến dịch của nó là một lời mời mọc sự tấn công của quân du kích. Chúng tôi chờ đợi một điều quá hiển nhiên. Bọn lính bảo các thầy cô cấm chúng tôi ra khỏi ký túc xá sau khi mặt trời lặn.
Một buổi tối, sau bữa ăn, tôi ngồi trong phòng mình nói chuyện với anh Shabnam, bạn chung phòng với tôi. Điện mất và tôi đốt nến. Một tiếng nổ bất thình lình vang lên! Một tiếng nữa! Những tràng đạn liên tục, dồn dập. “Súng Kalashnikov!” tôi hét lên. Rồi hàng loạt tiếng bắn trả lớn hơn của những khẩu súng máy hạng nhẹ đặt trong những boongke dọc theo đường biên của trường. “Nhóm LMG!” Tôi thổi tắt nến và chúng tôi ngồi xổm bên dưới thành cửa sổ. Chúng tôi nghe đủ loại tiếng súng. Đó là một bầu không khí mạo hiểm, ly kỳ. Nhưng vài phút sau trận đấu súng trở nên vô cùng căng thẳng và sự phấn khích hạ xuống thành nỗi sợ hãi. Anh Shabnam lẩm nhẩm kinh Koran mà hầu hết người Hồi giáo cầu nguyện trong lúc đối mặt với nguy hiểm. Tôi đọc đi đọc lại những lời kinh tôi biết như là “Aaya-ul-Kursi” , hay Bài xướng của Ngai vàng : “Thánh Allah! Không có Thượng đế, chỉ có Ngài – một sinh thể tự sinh, bất diệt. Cả giấc ngủ lẫn giấc điệp mơ màng đều không thể chế ngự Ngài. Ngài là vạn vật, trên thiên đường lẫn trên mặt đất. Ngai vàng của Ngài trải rộng khắp thiên đường và trên mặt đất. Và Ngài đang canh giữ không mệt mỏi cho chúng con. Vì Ngài là đấng Tối cao.”
Mắt chúng tôi bị hút về phía cửa sổ. Một dãy nhà nho nhỏ tường trắng mái xanh lá cây nơi bọn con gái đang ở, cùng cái sân cricket rộng thênh thang của chúng tôi và những cây đào, bạch dương tạo thành một kiểu ranh giới giữa chúng tôi, cái gara buýt của trường dựng bằng mấy tấm amiăng, một cái lưới trắng giăng trên sân bóng chuyền và những ngọn núi xa xa đang lấp lánh trong một thứ ánh sáng trắng đáng yêu. Thứ âm nhạc thô ráp của tiếng súng tiếp tục phát ra. Một tiếng bùm vang lên và một vầng mặt trời sẽ xuất hiện, bùng nổ trong ánh sáng chói lòa. Tôi đứng như đang mơ cạnh cửa sổ và chăm chú nhìn lên bầu trời: một ngàn vầng mặt trời nho nhỏ dường như vừa bừng nở.
Vụ tấn công vào trường đã làm gia đình tôi hoảng hốt. Họ thu xếp cho tôi rời khỏi ký túc xá và đi học về hàng ngày. Mẹ nói sẽ đem tôi sang trường của thằng Wajahat ở Anantnag, nhưng ở đó cũng không an toàn hơn bao nhiêu. Và hầu hết các trường đều đóng cửa suốt. Có ngày thì đóng cửa để phản đối những vụ bắt bớ hay giết hại những người bị bắt trong một khu thẩm vấn, có ngày thì đóng cửa vì một vụ bắn nhau hoặc một cuộc đàn áp. Các nhóm tuần tra tiếp tục lập trại trong những tòa nhà của trường học, trong khi quân kháng chiến thiêu trụi nhiều tòa nhà khác họ sợ là sẽ bị biến thành doanh trại quân đội. Việc đi học vô cùng nguy hiểm. Một ngày nọ Wajahat suýt chết. Nó và thằng bạn đang chơi trò rồng rắn lên mây ở dãy ghế chót của lớp Toán thì nghe tiếng súng. Những loạt đạn được bắn trong cái chợ gần trường. Giáo viên quyết định tiếp tục bài học và mười phút sau thì dạy xong. Một số học sinh sợ sệt, một số khác thì phấn khích khi nghe tiếng súng bắn. Sau hai tiếng ngừng bắn, bọn nó được phép rời khỏi trường và ngôi trường đã bị đóng cửa hôm đó.
Cổng trường được mở và lũ học sinh xô đẩy tranh nhau ra ngoài chỉ để thấy một chiếc xe tăng của quân đội Ấn Độ lù lù trước mặt. Binh lính xua lũ học sinh đi chỗ khác. Thằng Wajahat và mấy đứa bạn nó chạy xuyên qua cái chợ trống, hướng về trạm xe buýt cách đó khoảng một dặm. Những tên lính căng thẳng tuần tra khu vực đó. Thằng Wajahat đến được một gian hàng giày dép do một người bạn của cha tôi quản lý, người mà ai cũng gọi là Ông Chúc May Mắn. Nó nghe một tiếng động cơ lạ lùng và khi quay lại thì thấy một chiếc xe tăng đang chạy lừ lừ phía sau nó. Một mình trên đường và sợ hãi, nó bắt đầu bước nhanh hơn, nhưng chiếc tăng vẫn chạy song song với nó. Họng súng xe tăng xoay vòng vòng, chĩa thẳng vào thằng bé rồi xoay hướng khác. “Em tưởng bọn lính sẽ nã đạn vào em. Rồi em thấy một khẩu súng máy gắn trên chiếc tăng và nghĩ chắc bọn chúng sẽ bắn em,” thằng Wajahat kể với tôi. Chiếc tăng dừng lại và thằng bé cũng dừng lại. Tên chỉ huy của chiếc tăng gào vào mặt nó, “Chạy đi! Hay là mày muốn chết?” Nó chạy.
Các bậc phụ huynh muốn đưa bọn trẻ ra khỏi vùng Kashmir. Những người giàu gửi con cái của họ sang châu Âu và Bắc Mỹ, còn tầng lớp trung lưu và thấp hơn thì chọn các trường cao đẳng và đại học trong những thị trấn và thành phố của Ấn Độ. Hầu hết sinh viên học những trường y và trường đào tạo kỹ sư. Vật lý, hóa học và hóa sinh là những ngành phổ biến. Vào tháng tám năm 1993, khi tôi đã vượt qua kỳ thi lớp mười, Ngoại đưa tôi đến trường Đại học Hồi giáo Aligarh, cách Delhi ba tiếng. Tôi phải học vật lý, toán và hóa trong vòng hai năm tại một phân viện của trường đại học, rồi học liên thông lên trường cao đẳng ở đó và tốt nghiệp ngành xã hội học, ngành sẽ tạo được ấn tượng tốt trong kỳ thi vào khối hành chính dân sự. Em trai tôi sẽ theo học trong hai năm nữa. Khi tôi đi với Ngoại, các thành viên gia đình, bà con và lối xóm đứng bên ngoài để tiễn đưa. Chúng tôi đi tới chỗ taxi với một chiếc vali màu be hiệu VIP. Tôi không cảm thấy buồn bã hay bồn chồn. Tôi không biết bao lâu nữa mới được trở về nhà. Mỗi một lần ra đi từ bấy đến nay của tôi đều là sự tiếp nối của giây phút đó.
Chiếc xe buýt của bang chạy khó khăn trên con đường cao tốc hẹp nằm dọc vách núi nhìn xuống những hẽm sâu, nối liền Kashmir với đồng bằng Ấn Độ. Khoảng giữa chuyến hành trình, chiếc xe buýt dừng lại ăn trưa ở một cái chợ trên đường cao tốc. Ở đó có những tiệm bán đồ ăn nhanh được gọi là khách sạn và mang những cái tên lạ lùng. Khách sạn Hindu, khách sạn Sikh, khách sạn Hồi Giáo. Chúng tôi ăn tại khách sạn Hồi Giáo. Sau một ngày hành trình, chúng tôi đến được ga xe lửa gần nhất ở Jammu. Tôi chưa đi xe lửa bao giờ. Vầng mặt trời màu cam đang lặn xuống cánh đồng hoang khi chúng tôi bước vào trong ga xe lửa xây bằng gạch đỏ. Những người khuân vác mặc áo ka ki, quần tây và những bộ áo liền quần màu đỏ vây lấy chúng tôi. Những sân ga đầy nghẹt người – đám thanh niên phấn khích, những người đàn bà sồn sồn trang điểm thật dày, các ông chồng của họ tay xách nách mang và những người bà con đi tiễn họ. Những người bán hàng rong với những bình trà và cà phê âm ấm chạy về phía mọi khách hàng tiềm năng và la to Chai garam! , tức trà nóng. Một giọng mũi nói thứ tiếng Anh bồi léo nhéo qua loa xe lửa, rằng họ hối tiếc về sự bất tiện gây ra cho hành khách do chuyến xe lửa bị dời lại mười tiếng đồng hồ. Mười tiếng đồng hồ!
Chiếc xe lửa màu huyết dụ vào ga và chúng tôi lên toa của mình. Ngoại nói cho tôi biết, những toa có máy điều hòa là đắt tiền nhất và chỉ những người giàu mới có khả năng đi, rồi đến những toa hạng nhất ít đắt tiền hơn, rồi đến hạng giường nằm là loại chúng tôi chọn. Toa giường nằm giống như một cái lò nướng, đông lúc nhúc. Mỗi ngăn của toa có ba giường ngủ ở một bên và hai cái nữa bên kia lối đi. Chúng tôi nhận chỗ đã đặt sẵn và vài phút sau, tôi bắt đầu cuộc hành trình bằng xe lửa đầu tiên của mình.
Tôi cảm thấy bứt rứt, lóng ngóng và ý thức về sự mù tịt của mình về những việc đơn giản như đóng một cái cửa sổ xe lửa hoặc mở một cái giường xếp. Thời tiết thật tàn bạo: nóng nực và ẩm ướt. Mặt tôi nóng bừng bừng, còn chiếc áo sơ mi ướt sũng mồ hôi dán chặt vào lưng tôi. Môi của Ngoại khô đến nỗi tôi có thể thấy được một lớp muối trên đó. Cái nóng trở nên dễ chịu hơn một chút khi chuyến tàu tốc hành đi Shalimar rời trạm. “Mày có thể uống trà trên xe lửa và cái tách sẽ không lắc,” có lần một người bạn đã nói với tôi. Tôi đã uống và đúng là nó không lắc.
Sau vài giờ hành trình, khi tàu Tốc hành Shalimar đến địa phận Punjab thì hai tên lính bước vào toa của chúng tôi. Cũng như tôi, hai tên lính này đã trải qua chuyến đi dài mười hai tiếng qua những ngọn núi cao để đến ga xe lửa ở Jammu. Phía trước chúng tôi là chuyến xe lửa mười hai tiếng đến Delhi. Bọn lính mỉm cười và thả túi của chúng trên lối đi. “Anh có thể làm ơn nhường cho chúng tôi một chỗ không?” một tên trong bọn hỏi một người đàn ông trung niên đang đọc báo. “Chúng tôi đang trở về nhà sau một năm ở Kashmir và không đặt chỗ trước.” Người đàn ông không nhúc nhích. Tên lính lặp lại lời yêu cầu và khi tôi ngọ nguậy trong trên ghế của mình thì một hành khách khác chỉ xuống cái sàn dơ bẩn và nói, “Anh có thể ngồi đây.” Tôi choáng váng. Ngoại và tôi nhìn nhau. Không như người dân ở Kashmir, những hành khách người Bắc Ấn không có lý do gì để sợ bọn lính: họ sai khiến chúng và đám lính phục tùng họ.
Một lúc sau người soát vé đến. Ông ta mặc sơ mi trắng, áo khoác đen và quần tây và cái bảng tên bằng thép gần túi áo khoác có tên của ông và hàng chữ: Kiểm soát vé thông hành. “Các người làm gì ở đây?” ông ta nạt mấy tên lính. “Các toa khác không còn chỗ, thưa ông. Ông làm ơn xếp chỗ cho chúng tôi ở đâu đó,” chúng năn nỉ. Ông yêu cầu hai tên lính đó ra khỏi toa và bước ra ngoài. Chúng đi theo ông. Vài phút sau chúng quay lại và ngồi bệt xuống sàn. “Ông ta tính mày bao nhiêu tiền?” người nào đó hỏi. “Năm mươi rupee mỗi đứa,” một tên lính nói. Mấy ông khách cười to và tán gẫu về nạn tham nhũng. “Đây chính là Ấn Độ” người đàn ông cầm tờ báo tuyên bố.
Chúng tôi đến Delhi vào buổi sáng và đến xế trưa thì sẽ đến thị trấn nhỏ bé Aligarh. Tôi ngắm những cụm nhà trông giống như khu ổ chuột, những khu công nghiệp xám xịt, những cánh đồng bát ngát trống trơ, rồi những khu ổ chuột thật sự và những ngôi làng nơi những người đàn bà mặc sari đang phơi đống gạch bùn dưới nắng mặt trời cạnh đường ray xe lửa. Hai tiếng rưỡi sau, chúng tôi bước ra khỏi nhà ga xe lửa xây bằng gạch đỏ ở Aligarh. Bên ngoài trạm không có một chiếc taxi hay xe buýt địa phương nào, ngoại trừ hàng trăm chiếc xe kéo được đạp bởi những người đàn ông hốc hác. Ngoại do dự khi được một người chở đi như vậy, nhưng thời tiết nóng quá sức để có thể đi bộ hai dặm đến trường đại học. Chúng tôi thấy có lỗi khi được chở đi bởi một người đàn ông nghèo khổ đang cố hết sức gánh khối lượng của hai hành khách và mấy túi đồ. “Nơi này nghèo đói khủng khiếp quá,” Ngoại nói vậy. Ông trả cho người đạp xe kéo đó gấp đôi số tiền công.
Chúng tôi đã gặp một số sinh viên người Kashmir và được họ giúp làm thủ tục đăng ký ở trường đại học. Trường bị quá tải và không còn phòng trong các ký túc xá. Những người bạn mới Kashmir đã đưa tôi về phòng trọ của họ trong ký túc xá và nhường cho tôi ít chỗ. Tôi cùng với một người bạn tiễn Ngoại ra ga vào ngày hôm sau. Tôi thấy buồn khi nhìn ông đi nhưng đồng thời cũng háo hức khi được ở một chỗ mới với những bạn bè mới. Tôi đã khởi đầu khá tốt bằng việc bách bộ bên ngoài khu vực trạm xe lửa cùng với một người bạn và ra rạp xem một bộ phim của Bollywood.
Ngày học đầu tiên, tôi đi về phía tòa nhà của trường mang theo sách vở và những kỳ vọng. Ngài Syed Ahmad Khan đã sáng lập trường đại học này năm 1920 để mang lại nền giáo dục hiện đại cho người Hồi giáo. Nó từng được biết đến như Đại học Oxford của phương Đông. Nhưng nó đã tuột dốc trong những thời kỳ khó khăn và đang hấp hối như hầu hết các trường đại học cấp tỉnh ở Ấn Độ. Không có aazadi thực sự nào trong cảnh nghèo khổ của Kashmir. Bối cảnh chính trị của trường đại học càng làm cho mọi việc tệ hơn: Nó là một trong những học viện đầu tiên của người Hồi giáo Ấn Độ và sự lo lắng cũng như nỗi thất vọng về vị trí của họ trong lòng Ấn Độ thì đã quá rõ ràng. Tôi đã nghe về sự căng thẳng và bạo lực giữa các giáo phái ở miền Bắc Ấn, nhưng chuyện đó vẫn chỉ là một khái niệm trừu tượng xa xôi.
Vào tháng mười hai năm 1992, khoảng một năm trước khi tôi vào học trường của mình ở Aligarh, một băng đảng Hindu quá khích đã phá hủy đền thờ Babri Masjid ở Ayodhya, cách Aligarh vài trăm cây số. Phe Hindu cánh hữu do Đảng Bharatiya Janata (BJP) cầm đầu, đã tranh cãi rằng ngôi đền đó đã được xây dựng trên nền bị phá sập của một ngôi đền cổ kính. Họ muốn xây một thánh đường Ram trên chính nền đất của cái đền thờ đã bị phá hủy. Vụ phá hủy đã châm ngòi cho cuộc bạo động tôn giáo trên khắp Ấn Độ và hàng ngàn người đã bị giết. Hilal, một người bạn Kashmir ở trường mới của tôi, đã chứng kiến cuộc bạo động đó. Hai ngày sau vụ phá hủy ngôi đền thời trung cổ, Hilal và mười học sinh người Kashmir khác lên chuyến xe lửa đi từ Aligarh đến Delhi, nơi họ dự định đón một chiếc xe buýt về Kashmir. Những karsevak , tức những nhà hoạt động chính trị Hindu cánh hữu đã phá hủy ngôi đền ở Ayodhya, cũng đi cùng chuyến xe lửa. Họ đeo những dải băng buộc đầu màu vàng nghệ theo quy định và mang theo những chiếc xà beng sơn vàng nghệ, đinh ba và mấy con dao găm.
Các karsevak hỏi những sinh viên tên và nơi cư ngụ của họ. “Phần lớn sinh viên nói tên thật và nói mình là dân Kashmir,” Hilal kể với tôi. Rồi nó thấy nhóm những tên karsevak điên cuồng gọi bọn nó là những tên khủng bố Hồi giáo người Kashmir và tấn công bọn nó bằng xà beng và dao găm. Hilal nghe những tiếng gào thét và nhận ra bọn karsevak đang đẩy những học sinh bị thương ra khỏi đoàn xe lửa đang chạy. Một nhóm karsevak đến gần nó và hỏi tên. Họ của nó là Bhat, cái họ phổ biến đối với cả người Hồi giáo lẫn Ấn Độ giáo ở Kashmir. “Tôi là người theo đạo Hindu. Tên tôi là Praveen Bhat. Tên của ba tôi là Badrinath Bhat,” Hilal nói dối. Nó sợ bọn chúng kiểm tra chứng minh thư hoặc tệ hơn, bắt nó tuột quần xuống để bọn chúng xem nó có da quy đầu hay không. Dân Hồi giáo được cắt da quy đầu, dân Ấn Độ giáo thì không. May mắn thay, cái nhóm có vẻ đang vội vã đó đã để cho nó đi. Nó đã muốn phóng ngay xuống tàu ở ga kế nhưng lại nhìn thấy một nhóm người đang rượt theo Rafiq Sofi, một sinh viên ngành hóa chưa tốt nghiệp. Hilal cầu mong cho bạn bè của nó ở những toa khác sống sót.
Chuyến xe lửa đến Delhi hai tiếng sau đó. Hilal cùng một đứa con trai nữa đợi những người khác bên ngoài ga Delhi. Chúng gặp được một số người, nhưng rất nhiều người đã mất tích. Sau này, Hilal được biết là bạn của nó và một người bạn đang học lớp chín, tên là Farhat Razak, đã bị đâm cho đến chết. Xác của cậu này được tìm thấy trên đoạn đường ray gần sở cảnh sát. Một học sinh khác, Javed Andrabi, thì mất tích trong một tháng trời. Các bản tin về một thi thể không được nhận dạng trên đường ray xe lửa gần một thị trấn cách Aligarh nửa dặm đã lan đến trường đại học. Những người thu gom và chôn xác cậu ta đã giữ lại cái quần tây. Nhãn hiệu của hãng thợ may trên chiếc quần tây cho biết tên người thợ may của gia đình Andrabi và tên một thị trấn ở Kashmir. Anh trai của Andrabi đã có thể xác nhận người chết chính là em trai mình.
Bất chấp sự bất an và nỗi tuyệt vọng ở đất nước Ấn Độ, vốn đang chứng kiến sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc Hindu giáo, hầu hết bạn Ấn Độ theo đạo Hồi của tôi là những người mang trong lòng chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ. Chúng không đồng tình với tôi và những học sinh người Kashmir ý tưởng về một Kashmir độc lập. Bọn nó sợ rằng sự ly khai của một Kashmir gồm phần lớn dân Hồi giáo ra khỏi Ấn Độ sẽ làm cho cuộc sống những người Hồi giáo ở Ấn Độ ngày càng tệ hại hơn. Mỗi khi tivi trong phòng chúng tôi chiếu cricket, những thằng bạn người Ấn đạo Hồi của tôi lại hò reo, ca hát và ủng hộ cho đội Ấn Độ. Những đứa Kashmir thì cổ vũ cho đội Sri Lanka hay Pakistan, hay bất cứ đội nào là đối thủ của đội Ấn Độ.
Nhưng những nhịp điệu của thời học sinh và những rối bời, rồi cả khao khát của thời tuổi trẻ đã giữ cho chúng tôi bận rộn. Sau hai năm cuối của trường trung học, tôi vào trường cao đắng vào tháng Tám năm 1995 để học chính trị, xã hội học và văn chương Anh. Trường cao đẳng gần như không dung dưỡng cảm hứng. Không giáo viên nào buồn liên hệ giáo trình học với những biến động chính trị và xã hội ở bên ngoài.
Tôi thích những lớp văn chương hơn. Người thầy dạy chúng tôi về Hemingway nói bằng thứ tiếng pha trộn giữa tiếng Hindi và tiếng Anh, thứ tiếng thằng Hilal nói cho tôi biết là Hinglish. Rất ít sinh viên đến lớp và trong số đó những đứa có khả năng nói hoặc viết một câu tiếng Anh hoàn chỉnh lại càng ít hơn. Những chính trị gia sinh viên vênh váo đi vòng quanh trường với đám tay sai mang những súng lục được chế tạo ở nông thôn. Cứ cách một tuần lại có những trận bắn nhau trong sân trường và thành viên của băng nhóm này sẽ dần nhừ tử thành viên của băng nhóm khác. Khi những chính trị gia sinh viên không ẩu đả với nhau, chúng nó lại muốn giấc mơ đó trở thành hiện thực trên chính trường Ấn Độ.
Những đứa tôi chơi hầu hết là sinh viên người Kashmir. Chúng tôi chia sẻ với nhau những kinh nghiệm về chiến tranh ở quê nhà. Một thằng sống ở Srinagar kể về việc học chơi bài bridge và cờ tướng trong những ngày đêm giới nghiêm. Một thằng sống ở một thị trấn phía bắc Kashmir kể chuyện trốn trong kho hàng mấy tiếng đồng hồ cùng với gia đình trong khi bọn lính Ấn vây ráp. Một đứa nào đó nói về nỗi chán chường của việc phải ở trong nhà sau khi mặt trời lặn, chuyện này lại nhắc một đứa nào đó về các mệnh lệnh của những toán lính Ấn, là ai bước ra khỏi nhà vào buổi tối phải cầm theo đèn pin hay đuốc và thế là nó lại nhắc những đứa khác về những vụ giết nhầm người vào buổi tối khi những toán tuần tra tưởng lầm họ là quân kháng chiến. Một đứa nào đó kể chuyện về một người đàn ông điên hay đi lòng vòng trong thị trấn của ông ta vào ban đêm và đã bị một toán tuần tra bắn chết. Trong những cuộc điện thoại về nhà và những chuyến thăm nhà trong các kỳ nghỉ hè và nghỉ đông, chúng tôi còn nghe và nhìn thấy nhiều thảm cảnh hơn nữa. Một trong những ngày ấy, trong một chuyến đến thăm nhà một người bạn ở thị trấn Bijibehara lân cận, tôi đã dừng lại gần một nghĩa trang, nơi chôn cất không biết bao nhiêu người biểu tình bị giết sau khi lực lượng bán quân đội nã đạn vào một cuộc diễu hành. Tuổi khắc trên bia mộ của hầu hết những người đã chết là mười tám.
Tôi nghe thấy âm vang Kashmir trong những trang sách của Hemingway, Orwell, Dostoyevsky và Turgenev, trong số những nhà văn tôi đọc. Tôi quay về với Hemingway và bắt đầu đọc lại Giã từ vũ khí . Ông viết về một cuộc chiến tranh xa xăm như thế mà tôi lại nhìn thấy Kashmir trong từng câu chữ của ông. Người kể trong truyện của Hemingway, Frederick Henry, một tài xế Mỹ lái xe cứu thương cho người Ý, nói về hỏa lực như thế này: “Tôi không thể thấy những khẩu súng nhưng rõ ràng chúng đang bắn thẳng về phía chúng tôi.” Nó nhắc tôi cái ngày tôi phải trốn chạy sang làng bên cùng với gia đình sau khi nghĩa quân tấn công những toán lính quân đội trong khu vực làng chúng tôi. Sau đó trong cuốn tiểu thuyết, khi nữ y tá người Anh Catherine Barkley nói với Henry rằng vị hôn phu của cô đã bị nổ tan xác và tiểu đội của anh ấy đã đưa cho cô cây gậy bọc da mà anh đã mang theo, tôi nghĩ đến việc những nhóm nghĩa quân ở Kashmir đã gửi bản sao của kinh Koran cho gia đình của các nghĩa quân bị giết.
Khi tôi tình cờ bắt gặp một bản sao cũ cuốn Suy tôn xứ Catalan của George Orwell qua sự pha trộn giữa cá nhân và con người chính trị, giữa những chi tiết nhỏ và những ý tưởng lớn, qua kiểu văn xuôi rời rạc nhưng đầy khí chất của tác giả, trong tôi lại dấy lên nỗi ám ảnh. Suy tôn xứ Catalan làm gợi nhớ trong tôi biết bao ký ức về Kashmir và làm cho tôi tin rằng một ngày nào đó việc viết một tác phẩm tương tự về cuộc chiến của riêng tôi là có thể. Tôi nhìn thấy những bức tường của các thị trấn Kashmir khi đọc những trang viết của Orwell về Barcelona trong giai đoạn nổi dậy chống phát xít năm 1936: “Những bức áp phích về cuộc cách mạng có mặt khắp nơi, rực cháy trên các bức tường trong những màu xanh, màu đỏ trong vắt, làm mấy mẩu quảng cáo còn sót lại trông như những vết bẩn của bùn đất.” Tôi nghe những bài hát phát ra từ loa của đền thờ địa phương khi đọc đến đoạn: “Dọc theo Ramblas [26] , huyết mạch trung tâm của thị trấn, nơi những đám đông ào ạt đến và đi như mắc cửi, mấy cái loa phóng thanh phát rộn ràng những bài hát cách mạng suốt cả ngày và cho đến tận khuya.”
Khi ông viết, “Phần nhiều tôi không hiểu được và về nhiều mặt tôi không thích chút nào, nhưng ngay lập tức tôi nhận ra đó là tình huống đáng để tôi chiến đấu vì nó.” Tôi cảm thấy ông đang nói hộ sự quan tâm của tôi với cuộc nổi dậy của người Kashmir như nỗi sốt sắng của thằng con trai mới lớn, sự quan tâm dựa trên những sự thật thuộc về cảm tính nhiều hơn là những học thuyết chính trị và kiến thức về lịch sử.
Tôi cũng nhìn thấy những ô cửa sổ hiểu biết tương tự mở ra khi đọc Lữ đoàn kỵ binh đỏ của Isaac Babel. Và khi đọc về sự mất tích và vụ án mạng của chính Babel, tôi lại nghĩ đến những vụ bắt bớ và ám sát trong khi bị giam giữ của hàng ngàn thanh niên ở Kashmir. Khi đọc ký sự của John Steinbeck về những nông dân du canh du cư trong Chùm nho phẫn nộ , tôi nhìn thấy những doanh trại của quân đội Ấn chiếm dụng những vườn trái cây và những cánh đồng lúa quanh làng tôi ở Kashmir. Ít lâu sau, những bài luận của James Baldwin gợi cho tôi nhớ đến những ghetto của người Hồi giáo Ấn Độ và những tầng lớp thấp hơn.
Tôi muốn viết như vậy về Kashmir nhưng tôi lại giữ ý nghĩ đó cho riêng mình. Tôi sẽ không trở thành công chức như gia đình tôi mong muốn. Thị trấn Aligarh không đủ sức thu hút tôi. Tôi đã thấy tin tức về những cuộc giới thiệu sách, các liên hoan phim và hội thảo về sân khấu trên các tờ báo của Delhi. Thằng Wajahat em trai tôi đang học văn học Đức và tâm lý học ở một trường đại học ở Delhi. Tôi gọi cho mẹ và kể cho bà nghe sự miễn cưỡng của tôi khi chuẩn bị cho kỳ thi vào khối hành chính dân sự. Những cuộc tranh cãi và tranh luận diễn ra trong nhiều tháng. Chúng tôi đã đạt được một sự thỏa thuận. Tôi có thể học làm luật sư, chuẩn bị cho ngành hành chính dân sự và viết lách trong thời gian rảnh rỗi.
Cuối cùng tôi vào khoa luật của trường Đại học Delhi. Đó là một cách để tôi được sống ở Delhi và được khám phá những đường hướng mới trong việc viết lách.