Chương 6 Một phen hú vía
Ngày đầu tiên ở Delhi, tôi đã đi bộ xuyên qua cung điện Connaught với mái vòm hình tròn trang nhã, ngay trung tâm thành phố. Tôi thấy choáng ngợp. Những tòa nhà dường như quá to, những con đường quá náo nhiệt. Đó là một ngày tháng sáu cháy khô, không có gió, không một bóng râm. Mấy chiếc xe buýt động cơ diesel phả khói mù mịt. Nhưng tôi có một cảm giác tự do, cảm giác rằng tôi có thể dạy cho bản thân mình những gì cần học hỏi. Tôi trải qua gần như nguyên năm thứ nhất của mình trong trường luật, đọc văn chương và báo chí. Delhi có hằng hà sa số thư viện và một chợ sách cũ tuyệt vời vào chủ nhật hàng tuần. Vào giữa năm 2000 tôi rời trường luật và tìm được công việc đầu tiên với một website tin tức. Sau tuần đầu tiên đi làm, với một số bài học có được từ các biên tập viên, tôi được gửi đi phụ trách tin bài ở Delhi. Tôi cố gắng, rồi thất bại, rồi lại cố gắng và bắt đầu học cách tồn tại như một phóng viên.
Công việc phóng viên yêu cầu tôi phải đến nhiều nơi của thành phố. Tôi đang mất dần sự kiên nhẫn với những chuyến xe buýt đông nghẹt ở Delhi. Sau khi nhận được tấm séc tiền lương đầu tiên, tôi mua một chiếc xe gắn máy cũ từ một đồng nghiệp. “Cậu phải nhanh chân lên. Tin tức luôn nóng hổi,” biên tập viên tin tức của tôi sẽ hét lên như thế. Sống ở Delhi là phải chạy nhanh hơn những người khác. Tôi thường nghĩ đến Ruskin Bond khi tôi dừng xe ở một cột đèn giao thông. “Ở Delhi hoặc bạn là người đầu tiên, hoặc bạn bị lạc,” Bond đã viết. Tôi không muốn bị lạc. Khi đèn giao thông chuyển sang màu xanh lá cây, tôi nhả thắng, xoắn tay ga đến mức tối đa và vọt lên trước đám đông.
Tôi sống trên gác xép của một nhà ở phía nam Delhi, cách văn phòng tôi một dặm. Sau giờ làm việc, khi không đọc sách, tôi cùng đám bạn bè tụ tập ở một trường đại học gần căn phòng tôi thuê. Trường này đã và vẫn đang là một trong số vài nơi được chấp nhận về mặt chính trị ở New Delhi. Cảnh sát Delhi qua thời gian đã tạo nên tiếng tăm về những cuộc đụng độ giả với những kẻ khủng bố người Kashmir. Tôi đã hiểu tại sao tôi được gửi đến một trường đại học Hồi giáo sa sút và tạm bợ mà không phải một trường cao đẳng ở Delhi.
Dần dần tôi cũng thích Delhi. Tôi cũng bắt đầu hiểu những góc cạnh của một Ấn Độ muôn màu muôn vẻ đang hiện hữu, những góc cạnh tôi thích và quan tâm đến, những góc cạnh không giống thứ quyền lực quân sự tôi đã nhìn thấy ở Kashmir. Ấn Độ đã mở cửa nền kinh tế vào đầu những năm 1990. Những kênh truyền hình phát sóng suốt ngày đêm và số lượng các loại tạp chí tăng lên. Những phát thanh viên và phóng viên trẻ hỏi nạn nhân của các thảm kịch những câu hỏi đại loại như: “Vậy cảm giác đó như thế nào?” bằng giọng bắt chước kiểu phát âm của người Mỹ. Thủ đô của Ấn Độ vừa mới được đổ hàng đống tiền bắt đầu hãnh diện khoa trương bản thân bằng những đêm nhạc DJ đặc biệt và những khu mua sắm phô bày các phòng trưng bày hàng Levi và những cửa hàng Nokia. Hàng ngàn chiếc Toyota đưa đón những người điều hành đêm tại các văn phòng BPO [27] ngoại thành, trong số họ có thằng bạn cùng phòng với tôi, xuất thân từ một thị trấn nhỏ phía nam Ấn Độ và đã được dặn phải vứt bỏ cái tên Ấn Độ của nó. Nó sẽ kể cho tôi nghe công việc của nó rồi bắt đầu nhái những cuộc gọi của mình như thật: “Xin chào! Tôi là Jack Smith gọi từ JCPenny!”
Nước Ấn Độ cũ và kết cấu quyền lực của nó không biến mất. Nhiều sinh viên đến từ những ngôi làng và thị trấn nhỏ sống cuộc đời khổ hạnh và chuẩn bị cho kỳ thi “dân sự” – kỳ thi tuyển vào ngành hành chính dân sự ở Ấn Độ. Họ vùi đầu vào những cuốn sách luyện thi và giáo khoa trong bốn, năm, thậm chí sáu năm, bồi bổ bằng loại rượu rum rẻ tiền Old Monk, trừng trừng ngó lên trần nhà trắng toát của những căn phòng tù túng và mơ đến cảnh ngồi trên ghế của một viên chức hành chính quận, vây quanh bởi những vệ sĩ, tay sai, tài xế khúm núm chực chờ nhất cử nhất động của họ, cùng một căn bungalow, một chiếc xe công màu trắng với còi hụ và đèn đỏ nhấp nháy và trong vòng một vài năm, nắm quyền quản lý toàn bộ quận – thường bao gồm hàng trăm ngôi làng và hơn một triệu dân. Ngay giữa lòng Delhi, gần đường Jantar Mantar, tôi thấy gần như hàng ngày những nhóm người của một Ấn Độ bất lực – những người ngồi trên các lối đi với mấy tấm băng rôn vải hay những áp phích bằng bìa cứng nhằm tìm kiếm sự chú ý của chính quyền đến nỗi thống khổ của họ, đến sự bất công họ đã phải chịu đựng. Một Ấn Độ vừa tởm lợm vừa lôi cuốn.
Delhi bắt đầu trở thành quê hương thứ hai của tôi. Có lẽ bạn cảm thấy một thành phố là quê hương khi biết rằng sẽ có một hoặc hai người đến sân bay hay ga xe lửa để chào đón bạn, khi biết rằng có những bằng hữu muốn gặp bạn khi bạn đến. Tôi đã có thể quên Kashmir – nơi mà tôi chỉ ghé thăm hai hay ba tháng một lần – nhưng tôi không thể. Kashmir là phần cốt yếu lẫn phần phụ của thế giới nghề nghiệp, thế giới riêng tư và thế giới giao thiệp của tôi ở Delhi. Kashmir là địa danh được đăng tải nhiều nhất trên báo về những cái chết: Hầu như mỗi sáng thức dậy tôi đều đối mặt với tin tức về vụ nổ mìn, bắn nhau, đống đổ nát của một mái ấm bị phá hủy, hay cuộc biểu tình chống lại những vụ giết hại tù binh ở Kashmir. Tôi hy vọng sẽ không phải đọc tên những người tôi yêu quý nhất trong những báo cáo về thương vong đó.
Có lần thần may mắn đã suýt bỏ rơi tôi. Tôi đi lấy tin ở khu tòa án của Delhi cho website tin tức tôi đang làm việc. Vào ngày 14 tháng 5 năm 2001, anh em nhà Hinduja, những tay buôn trùm ở Ấn Độ có trụ sở tại Luân Đôn, bị xét xử vì bị tình nghi có liên can đến vụ lừa đảo Bofors [28] . Các phiên tòa diễn ra tại khu tòa án Tis Hazari ở phía bắc Delhi. Đó là một ngày rất nóng nực. Tôi toát mồ hôi đầm đìa ngay khi bước ra ngoài cửa. Phòng xử án ở khá xa và người biên tập đã yêu cầu tôi đi xe của văn phòng thay vì cưỡi chiếc xe máy ọp ẹp. Máy điều hòa trong xe làm cho viễn cảnh đi đến tòa án khá hấp dẫn. Một tiếng sau, ông tài xế đậu xe bên ngoài khu tòa án bằng bê tông khổng lồ. Tôi đi vào trong và thấy những nhóm phóng viên quen thuộc đang giết thì giờ bằng những tách trà và kể lại những mẩu chuyện hài hước trong giới phóng viên tòa án. Phiên tòa bắt đầu vào khoảng một giờ ba mươi phút sau hai tiếng chầu chực trong cái nóng oi bức.
Tôi tìm được một chỗ ngồi gần ghế nhân chứng nơi hai trong số các anh em nhà Hinduja đang đứng trong những bộ com-lê xám và cặp kiếng gọng vuông theo trào lưu những năm bảy mươi, toát mồ hôi dưới những vòng quay đủng đỉnh nhưng ồn ào của cái quạt trần cổ xưa. Một phóng viên nói đùa về sự bình đẳng trước pháp luật, nó giống như cách những phóng viên được trả lương bèo bọt và những tỉ phú nhà Hinduja đang toát mồ hôi dưới cùng một cây quạt trần. Khi vụ xử án tiếp tục, một nỗi buồn mơ hồ vây lấy tôi. Tôi cảm thấy bồn chồn, không màng đến vụ xử. Tôi cố gắng ghi chép nhưng không thành. Tôi thấy khó thở và quyết định bỏ ra ngoài. Mười lăm phút sau, tôi chen qua đám đông và chuồn ra khỏi phòng xử.
Văn phòng của tôi nằm trong một khu mua sắm đông đúc tràn ngập những cửa tiệm đồ sộ của Beneton, Reebok và Adidas. Viện Ngân hàng và Tài chính Toàn cầu nằm cạnh một tòa nhà phức hợp mới được xây. Một hiệu sách biệt lập nhỏ bé gần như nấp sau những biển quảng cáo nhấp nháy và tiếng ồn ào vô tâm của những đứa trẻ nhà giàu. Tôi đi ngang qua cửa tiệm và đi cầu thang lên văn phòng của mình ở tầng cao nhất. “Câu chuyện đó sao rồi, Basharat?” Ramesh, biên tập viên đồng thời là người hướng dẫn tôi, hỏi ngay khi tôi bước vào văn phòng. Tôi nói với anh ấy là tôi đã phải bỏ ra ngoài.
“Đừng lo. Tại cái nóng chết tiệt này đấy,” anh nói.
Ramesh lục đống hồ sơ, rồi đặt một tay lên vai tôi. Anh có vẻ như đang bối rối và rất cố gắng để giữ bình tĩnh. “Mukhtar (một phóng viên ở Srinagar) đã gọi điện tìm cậu. Gọi lại cho cậu ấy ngay nhé.”
Tôi quay số và Mukhtar trả lời ngay tiếng reo thứ nhì. Anh hỏi thăm vài câu về công việc của tôi. Và rồi anh nói, “Basharat à, cha mẹ của cậu đang trên đường trở về nhà sau khi ăn cưới ở làng của bác cậu thì một quả mìn phát nổ trên đường. Cảm ơn Thượng Đế là họ đã an toàn. Tôi vừa nói chuyện với họ. Cậu gọi điện cho họ đi.”
Cha mẹ. Mìn nổ. An toàn. Tôi nạp những từ này vào trong đầu, tay giữ chặt ống nghe. Ramesh đứng đó im lặng. Cha mẹ. Mìn nổ. An toàn. Giống như có ai đó đã thụi một cú vào tim tôi. Tôi ngồi dưới sàn văn phòng, dựa đầu vào những chồng báo. Tôi khóc. Các đồng nghiệp của tôi đứng xung quanh, im lặng, buồn bã. Tôi gượng dậy rồi gọi về nhà. Tôi nói chuyện với cha mẹ mình một lúc lâu. Tôi sẽ về nhà.
Vì đến tận sáng hôm sau mới có chuyến bay nên tôi phải đón chuyến xe buýt chạy suốt đêm. Trước tiên tôi phải gặp thằng Wajahat. Trường đại học của nó nằm cách văn phòng tôi vài phút.
Tôi đi đến chỗ chiếc xe máy rỉ sét đang dựng cùng một hàng với mấy cái scooter và xe máy khác, mở ga và bộ phận đánh lửa lên. Tôi thử đề-pa nhưng không được.
Tôi đề-pa lần nữa thì chiếc xe rên rỉ. Tôi cố thêm lần nữa và cỗ máy già cỗi ì ạch nổ trong vài giây ngắn ngủi. Tôi chắc mình sẽ ngã xuống, hai tay tôi run bần bật, còn hai chân tôi rất yếu ớt, giống như có một cái ống chích khổng lồ đã hút sạch từng mililít máu trong cơ thể tôi. Tôi chật vật lắm mới dựng xe lại được ngay ngắn và ôm cái nón bảo hiểm trên đùi, tôi ngồi xuống nền xi-măng vạch lằn đậu xe, hút thuốc và nghĩ xem sẽ nói thế nào với thằng Wajahat.
Khi tôi luồn lách xe qua các con đường, hình ảnh về cha mẹ cứ hiện ra trong đầu tôi. Có lần tôi rời bệnh viện với một cánh tay bó bột và nhận một chai coca hiệu Campa cùng một thỏi sôcôla Năm Sao từ tay cha; một lần khác tôi đi mua mấy cuốn truyện tranh Người Dơi cùng với cha ở hiệu sách Royal gần văn phòng ông; uống trà và đàm đạo thơ văn ở nhà; nhận một lá thư dài bảy trang của ông ngay khi truyện ngắn đầu tiên của tôi được đăng trên báo Delhi. Còn mẹ thì: thức suốt những đêm tôi bị sốt, tìm thấy một gói thuốc lá của tôi trong quần tây khi tôi từ trường cao đẳng về thăm nhà và giữ bí mật cho tôi; khăng khăng là tôi phải mặc quần áo đàng hoàng, đặt những yêu cầu nửa đùa nửa thật về việc cưới xin sau khi tôi bắt đầu đi làm.
Tôi dừng lại nơi quán cà phê ngoài trời gần ký túc xá của thằng Wajahat. Từng nhóm nhỏ trai gái ngồi bên vệ đường và trên những trụ xi-măng dọc theo con dốc của quán. Một đám đông khác đang xếp hàng chờ mua mấy thứ quà vặt tại quầy và tại tiệm thuốc lá nhỏ kế bên. Những đứa khác quanh quẩn gần trạm điện thoại công cộng. Tôi sống bên kia đường của trường đại học và thường gặp thằng Wajahat và vài người bạn khác ở đó. Nó đang đứng trong một nhóm gần quầy cà phê. Tôi chậm rãi bước qua những nhóm sinh viện đang chìm đắm trong những cuộc thảo luận sôi nổi về chính trị, cười ha hả và thản nhiên tán tỉnh nhau.
Wajahat và bạn bè nó ngồi thành vòng tròn, để những ly giấy rải rác trên một tảng đá nằm ngay giữa, phả khói thuốc phì phèo. Tay trái nó cầm một cái khăn vải cotton. Mái tóc quăn, dài ướt sũng mồ hôi. Nó luôn luôn thủ sẵn một cái khăn để ngăn mồ hôi chảy vào kính sát tròng. Nó nhìn thấy tôi từ xa và nói gì đó. Mấy đứa bạn nó cười lớn. Bọn nó thường có những nhận xét vô tư, so sánh công việc phóng viên “tẻ nhạt” của tôi với việc nghiên cứu Hegel và Kant của chúng trong thư viện có máy lạnh.
Thằng Wajahat nhếch miệng. “Chào ngài Phóng viên, có gì mới không?”
“À! Thì vẫn cái mớ chán ngắt thường lệ!” tôi ngồi xuống và mất vài giây để trấn tĩnh. “Anh phải gọi điện về nhà.” Giọng tôi run rẩy.
Mặt nó cứng đờ và nó đứng dậy. “Chuyện gì đã xảy ra vậy?” Mắt nó tối sầm lại, sợ hãi. Bạn bè nó vây lấy chúng tôi.
“Mọi người ổn cả. Cha mẹ đi ăn cưới ở làng Salia về thì một bãi mìn nổ tung trên đường. Bây giờ họ đã về nhà an toàn rồi, nhưng đó là một trận hú hồn.” Thằng Wajahat ngồi xuống. Tôi ôm nó. “Mình phải gọi cha mẹ ngay bây giờ.”
Tôi choàng tay qua vai nó rồi đi với nó vào trạm điện thoại.
Chúng tôi bước vào một buồng kiếng bé xíu ở trong trạm để gọi điện thoại đường dài. Cái quạt treo tường đang quay một cách vô vọng để chống cái nóng tháng Năm khắc nghiệt. Thằng Wajahat giữ cho cửa mở hé và tôi gọi về nhà. Điện thoại bắt đầu reo. Tôi đưa nó ống nghe và đứng đằng sau, đặt tay trên vai nó. Nó nói chuyện trên điện thoại mà như đang trong cơn mê. Đến khi gác máy, chúng tôi ôm chầm lấy nhau.
“Mình phải về nhà,” nó nói.
“Ừ, phải về thôi,” tôi đáp.
Wajahat phải đi thi trong vài ngày tới.
“Anh sẽ đi ngay bây giờ,” tôi nói dứt khoát. “Còn em sẽ đi sau khi thi xong.”
Nó lặng im, suy nghĩ, nước mắt dâng ngập mi. “Em sẽ đi với anh,” nó nói. “Em sẽ bỏ thi.”
“Không được! Em không thể làm như vậy. Cha mẹ đã an toàn rồi. Em sẽ về sau khi thi xong. Chúng ta hãy nói chuyện với mẹ lần nữa. Nếu mẹ đồng ý thì em có thể đi về.”
“Anh biết chắc là mẹ sẽ không cho em đi.”
“Thì cứ gọi mẹ cái đã.”
Mẹ và cha khăng khăng là thằng Wajahat phải ở lại thi. Tôi đón chuyến xe buýt đêm về Jammu, bay từ đó đến Srinagar và bắt taxi từ sân bay về nhà. Tôi chẳng nhớ được gì khác nữa.
Chiếc taxi dừng bên ngoài ngôi nhà. Có rất nhiều xe đậu dọc con đường. Tôi đứng đó một lúc, nhìn ngôi nhà của chúng tôi, những ngọn núi phía xa, tìm kiếm niềm tin trong khung cảnh thân thuộc. Tôi đi vào. Cha đang được bạn bè, bà con và hàng xóm vây quanh trên thảm cỏ trong sân. Một ấm samovar và vài chiếc khay đầy những cái tách, đĩa bánh mì và bánh ngọt nằm xung quanh. Mẹ đang đứng gần ông. Tôi vừa mệt rã rời vừa có cảm giác nhẹ nhõm vì lại được nhìn thấy họ. Tôi không giận dữ – cảm giác ấy đến sau đó rất lâu, hàng tuần lễ. Tôi đi về phía họ, một sự im lặng bao trùm. Cha mỉm cười từ xa và đứng dậy, mẹ vẫn đứng yên tại chỗ. Tôi đến bên bà và ôm bà thật chặt.
Bạn nói gì đây khi cha mẹ của bạn suýt bị giết chết?
Sau một hồi, mẹ hỏi về việc chuẩn bị cho kỳ thi của thằng Wajahat. Cha hỏi về chuyến đi của tôi. Chúng tôi bắt tay, nhìn nhau và ôm chặt nhau. Không cần phải nói gì thêm.
Chúng tôi uống chút trà. “Con đi tắm và thay đồ đi,” cha nói.
“Lát nữa ạ.” Tôi ngồi với họ, uống trà, không nói gì nhiều.
“Đó là một phép màu,” cha nói vậy.
Họ đã đi dự đám cưới của một người bà con ở làng của bác Rahman, cách ngôi nhà của tổ tiên chúng tôi ba dặm. Những nghi lễ kết thúc trước một giờ chiều, và họ đi về bằng xe hơi với hai người anh em họ của tôi. Chiếc xe rời khỏi làng, đi trên một con đường đất hẹp chạy ngang qua những cụm nhà xây trên khu đất bên phải.
“Cha thấy hai thanh niên ngồi trên khoảng đất bên kia con suối. Chúng nhìn cha mẹ,” cha kể. “Mẹ của con chỉ vào một trong hai thằng đó. Nó cầm cái gì giống như cái máy tính trong tay.”
Chiếc xe chạy chậm lại. “Xe đang băng qua một cái ống dẫn nước bằng bê tông bắc ngang đường.” Rồi bỗng có một tiếng nổ lớn.
“Giống như là một luồng không khí mạnh nhấc bổng chiếc xe lên.”
Sức mạnh của luồng hơi thổi tung xe khỏi đường. Gạch đá bắn tung tóe lên nóc xe.
Trong vài phút, họ nằm co cụm lại, chờ đợi đợt bắn súng có khả năng xảy ra. Cái máy tính mà cha thấy là một ngòi nổ, hai thanh niên bên kia suối đã gài mìn bên trong ống nước. Thật may mắn, chúng đã quên không bịt một đầu của ống nước. Sức công phá đã chuyển sang hướng đầu ống không bịt và chiếc xe hơi bị thổi bay sang hướng khác. Họ thoát chết với vài vết bầm không đáng kể. Nguyên tắc vật lý đã cứu sống gia đình tôi.
“Nhưng sao lại là cha?” tôi hỏi ông. Ông không trả lời. Tôi nghe ông lặp lại câu hỏi đó trên điện thoại. Nghĩa quân có thể giết bọn chính trị gia hoặc cảnh sát theo phe Ấn Độ, hay bất cứ ai chống lại họ. Nhưng những công chức hàng ngày chỉ coi sóc công việc văn phòng như cha tôi, hiếm khi bị nhắm vào.
Vài hôm sau, bạn bè và người thân cho biết danh tánh của kẻ đã thuyết phục nghĩa quân giết cha tôi. Hắn là một gã đàn ông có tham vọng chính trị mà gia đình tôi đã quen biết một thời gian dài. Tôi gọi hắn là Iago. Một tháng trước vụ tấn công, hắn đã gặp cha tôi tại văn phòng của ông. Cha là trưởng phòng quản lý điều hành của quận và phải giải quyết rất nhiều vụ tranh chấp giữa các hội nhóm và cá nhân. Một trong số các đối thủ của Iago, đồng thời cũng là một người rất tham vọng về chính trị, đã nộp đơn lên văn phòng cha tôi để xin một thứ giấy phép nào đó. Iago muốn cái giấy phép đó bị từ chối. Cha nói với Iago là theo đúng luật thì đối thủ của hắn được quyền có giấy phép đó. “Nhưng anh có thể linh động một chút nếu anh muốn. Đó là thứ luật ít người biết mà,” Iago bảo cha tôi. Cha không chịu và Iago bỏ về, mặt sưng sỉa.
Iago là một kẻ điều hành đầy tham vọng, sống trong một khu vực phức tạp, ban ngày nịnh bợ phe Ấn Độ còn ban đêm thì dung dưỡng, che giấu và hiến tiền bạc cho những nhóm quân ly khai chống Ấn Độ. Một trong những vị chỉ huy của nhóm quân lớn nhất đang hoạt động trong vùng có tên Hizbul Mujahideen là người cùng làng với Iago. Khi nghĩa quân đang trong giai đoạn ẩn náu, Iago đã giúp đỡ gia đình ông ta. Sau cuộc gặp gỡ với cha tôi, Iago bắn tin tới tay chỉ huy nghĩa quân thông qua một cấp dưới: “Tên Peer là mối nguy cho anh. Hắn đang cố gắng bảo đảm cho những vụ bầu cử cấp làng xã được trôi chảy.” Quân ly khai đã kêu gọi tẩy chay tất cả những cuộc bầu cử – cấp làng – cấp quận – cấp tiểu bang – những việc mà họ thấy chỉ là thủ đoạn để củng cố sự thống trị của Ấn Độ tại Kashmir.
Tay chân của gã Iago thuyết phục họ rằng nếu họ muốn sự tẩy chay những cuộc bầu cử cấp làng có tác dụng, phải trừ khử cha tôi. Một tháng sau, mìn nổ. Trong những tuần lễ sau vụ tấn công, hàng trăm người đã ghé thăm nhà chúng tôi, điện thoại không bao giờ ngừng reo. Gã Iago không hề gọi đến. Rất lâu sau đó, tôi tình cờ gặp hắn trên đường. Hắn bắt tay tôi, trách tôi không ghé thăm gia đình hắn, hỏi thăm sức khỏe của cha và khen ngợi ông đủ điều. Tôi cũng giả bộ cười nói, hỏi han về gia đình hắn.
Cha rất sợ và thậm chí ngừng qua lại – dù chỉ mất hai mươi phút – giữa căn nhà chính của ông ở Anantnag và làng chúng tôi. Vài tháng sau, ông bỏ Anantnag để nhận một công việc mới tại Srinagar, nơi tương đối an toàn hơn.
Không biết vì sao tôi lại tin rằng gia đình tôi sẽ luôn được an toàn. Tôi nói với cha điều này. Gần đây chúng tôi có nói chuyện về việc người ta chết đi nhưng chưa bao giờ nói về bản chất của cái chết. “Cha cũng có một niềm tin là chúng ta sẽ không sao và sẽ vượt qua tất cả. Có lẽ người ta không thực sự tin rằng họ có thể bị giết hoặc tiến gần đến cái chết,” cha nói.