Chương 11 Papa-2
Prague đã phản kháng và đã thắng, Berlin đã phản kháng và đã thắng, và người Kashmir tin rằng sự phản kháng của họ sẽ mang đến sự tự do cho vùng đất của mình. Giai đoạn đầu những năm chín mươi là thời kỳ ngây thơ và hăng hái. Nhưng mật độ biểu tình của người Kashmir đã giảm dần sau những vụ thảm sát. Cuộc xung đột có thể sẽ không xảy ra nếu Ấn Độ cho phép những cuộc biểu tình hòa bình. Hầu hết chúng đều diễn ra trong năm 1990 và 1991, rồi thỉnh thoảng trong năm 1993 và 1994 và thậm chí cả sau này dù không còn giữ nguyên mức độ. Những cuộc biểu tình có thể sẽ trở thành một thế lực chính trị chi phối tại Kashmir, dân Ấn Độ và dân Kashmir hẳn đã có thể nói chuyện với nhau và hàng ngàn cái chết đã không thể xảy ra.
Nhưng điều đó đã không đến. Thay vào đó, việc xả súng vào những người biểu tình, những vụ bắt bớ, mất tích, giết hại tù nhân, bắt cóc, ám sát và tra tấn vẫn hoành hành tại Kashmir. Trong một bài thơ tự do, Agha Shahid Ali viết:
Vị bác sĩ đã cứu một cậu bé mười sáu tuổi
Vừa được thả khỏi trung tâm thẩm vấn hỏi rằng,
“Tại sao những người xem bói lại không tiên đoán được
Những đường chỉ trong bàn tay cậu bé sẽ bị cắt bằng một con dao?”
Một buổi trưa tháng Mười Một, tôi băng qua cầu Zero và đi ngang qua Đài phát thanh Kashmir cũ nằm trên một con đường khá yên tĩnh. Những chiếc xe buýt cũ kỹ chờ bên ngoài ngôi trường nam sinh Burn Hall [40] , những người khát việc làm ôm đơn đứng quanh cổng nhà các vị bộ trưởng chính phủ được canh gác cẩn mật, vài nhánh chinar trơ trụi vắt ngang qua những hàng ghế trống của sân cricket. Tôi băng qua một con đường khác và đối diện với một tòa biệt thự kiểu thực dân sơn màu xanh và trắng. Tấm bảng trên cổng đề: NHÓM GIÁM SÁT QUÂN ĐỘI LIÊN HIỆP QUỐC Ở ẤN ĐỘ VÀ PAKISTAN. Căn biệt thự cổ và cái sứ mạng của Liên Hiệp Quốc dường như gợi nhớ về một thời đã mất. Kiến trúc của tòa biệt thự là phong cách đang tàn lụi, hòa trộn lối sử dụng đồ gỗ của người Kashmir với sự mẫn cảm tinh tế của người Anh. Những giải pháp của Liên Hiệp Quốc về vấn đề Kashmir hoặc đề xuất một cuộc trưng cầu ý dân, chỉ tồn tại như những lời dối trá trên báo chí và sách vở. Cách văn phòng Liên Hiệp Quốc không xa, là đường Gupkar, một khu vực dày đặc lính tuần tra và những boongke kiên cố. Tại đây, những chính trị gia cấp cao, quan chức nhà nước, nhân viên tình báo sống trong những ngôi nhà đẹp đẽ được che chắn bởi các bức tường ngạo nghễ và đám lính gác lạnh lùng. Gupkar là Green Zone [41] của chúng tôi. Con đường dẫn về phía Grand Palace, cung điện của Hari Singh, ông hoàng cuối cùng của Kashmir. Trong những năm chín mươi, hầu hết người dân rất sợ đường Gupkar. Nó là con đường dẫn đến Papa-2.
Papa-2 là trung tâm tra tấn lừng lẫy được điều hành bởi các lực lượng Ấn Độ ở Kashmir. Ban đầu, nó là một lâu đài lớn do Hari Singh xây, sau đó được sửa thành một nhà nghỉ và được biết đến qua cái tên Nhà khách Fairview. Hàng trăm người đã bị đưa vào Papa-2 và không trở về. Những người trở về được thì tàn phế. Trung tâm này bị đóng cửa năm 1998. Một quan chức chính phủ cấp cao đã làm mới tòa nhà Papa-2 và biến nó thành nhà riêng của mình. Trước khi dọn vào ở, vị quan chức từng du học tại Đại học Oxford đã gọi tu sĩ của tất cả các tôn giáo đến cầu nguyện và xua đuổi tà ma.
Một người bạn đã xin được giấy phép tham quan cho tôi. Người ta nghĩ tôi là một người yêu thích kiến trúc. Sau khi bị kiểm tra giấy tờ, tôi bước vào những thảm hoa được chăm sóc rất kỹ dẫn lên hàng hiên. Táo và mơ mọc đầy một góc vườn. Đỉnh đồi Zabarvan phủ đầy thông nhô lên đằng sau tòa lâu đài màu trắng lợp mái đỏ. Vị chính khách không ở nhà. Một cận vệ của ông mời tôi vào trong phòng tiếp tân ốp gỗ có ba chiếc điện thoại, một máy fax và một máy tính để bàn. Chúng tôi bắt đầu một vòng tham quan quanh nhà. Hướng dẫn viên, một người địa phương trạc tuổi tôi, lặng lẽ đi qua các gian phòng. Tôi nhìn ngắm bàn ghế, trần nhà và những bức tường sơn trắng. Những tấm rèm màu mật ong được treo trên cửa sổ phòng ngủ của tay chính khách trên tầng một. Tấm ga trải giường màu nâu. Những cuốn sách luật và văn học bìa mềm và bìa cứng chất đầy trên kệ sách. Hướng dẫn viên vén rèm cửa sổ để ánh sáng chiếu lên những vật lưu niệm và phần thưởng bày trên mấy cái kệ. Tấm thảm thêu những trích đoạn kinh Koran được treo trên vách tường và một bức tranh của họa sĩ Ấn Độ nổi tiếng Raja Ravi Verma tô điểm cho vách bên kia. Hướng dẫn viên im lặng. Cuối cùng, anh nói: “Đây là Papa-2, người anh em ạ! Đây chính là Papa-2.”
Một tiếng sau tôi đã về lại Lal Chowk và kể cho hai người bạn nghe về chuyến viếng thăm của mình. Tôi nói rằng tôi cần phải gặp những người đã sống sót qua Papa2. Đồng thời tôi cũng e sợ cái ý tưởng đó. “Tớ có thể tìm họ ở đâu?” tôi hỏi. “Hỏi bất cứ ai ngoài đường. Một nửa dân Kashmir đã từng bị vào đó. Hay là đi đến Maisuma, cậu sẽ tìm thấy mười người như thế ở ngoài đường.”
Một lát sau, tôi đi ngang qua mấy tên lính và cảnh sát, hướng về văn phòng của Mặt trận Giải phóng Jammu và Kashmir trong một khu ly khai lân cận. Một nhóm thanh niên đứng bên ngoài một tòa nhà. “Có ai từ Papa-2 ra không?” tôi hỏi thăm. Im lặng một lúc. Rồi họ hỏi nhau: “Mày có ở trong đó không?” “Không, tao ở Rajasthan.” “Không, tao ở Kot Balwal.” “Không, tao ở Gogoland.” “Không, tao ở Ranchi.” Những cái tên tạo thành một bản đồ các nhà tù Ấn Độ. “Thằng Sayeed ở Papa-2 đó.” “Thằng Irfan cũng ở đó.” “Thằng Irshad cũng ở Papa-2.” “Thằng Shafi cũng ở đó.” Chưa đến năm phút, tôi đã có được sáu cái tên. “Thằng Shafi chắc đang ở nhà,” một người tên Abid nói. “Chúng ta đi nào.” Chúng tôi bước qua những ngả đường hẹp, bùn lầy, qua những ngôi nhà cũ kỹ mộc mạc, có mái xô nghiêng như đang cố bám víu nhau để tránh cái nắng yếu ớt của mùa đông. Các ông cụ ngồi trước mấy cửa tiệm chăm chăm nhìn ra đường với ánh mắt vô hồn, những người đàn ông trẻ hơn tụm năm tụm ba, lười nhác nhích qua bên nhường chỗ cho những người đi xe đạp hay xe lôi.
Abid dừng lại chào mấy người đàn ông trên đường. Cậu ta hỏi thăm xem họ có bị nhốt ở Papa-2 không. Vài người nói có bạn bị nhốt ở đó, những người khác kể về các nhà tù và những phòng tra tấn khác. Cuối cùng, Abid dừng bên một căn nhà hai tầng khá xập xệ. Cậu gõ cửa.
Một giọng phụ nữ hỏi, “Ai đó?”
“Dạ, Abid đây. Shafi có nhà không ạ?”
“Anh ấy đến đền thờ rồi,” người kia trả lời. “Chờ đó đi, anh ấy sẽ về ngay thôi.”
Vài phút sau chúng tôi thấy một người đàn ông dáng cao, ốm yếu, đeo kính, ngoài ba mươi tuổi chống gậy gỗ đi khập khiễng về phía chúng tôi. Anh ấy hét lên mừng rỡ chào hỏi Abid. Họ trò chuyện một lúc, rồi Abid giới thiệu tôi và đi về. Shafi lắc mạnh cánh cửa và mời tôi vào trong. Chúng tôi trèo lên mấy bậc thang gỗ cũ kỹ và đi vào một căn phòng ngăn nắp có tường đắp bùn và được phết một loại sơn rẻ tiền màu xanh lá cây. Họa tiết trang trí trên tấm thảm dưới nền đã sờn. Trong góc nhà, một tấm khăn phủ lên bộ đồ giường; không có một cái tủ nào. Shafi lôi ra hai chiếc gối, đặt dựa vào tường như hai tấm đệm, mời tôi ngồi. Trong một góc khác, một người phụ nữ thấp, mập mạp và da ngăm ngồi cạnh một chiếc bếp dầu. Trên kệ gỗ ở bức tường đối diện cô có vài cái tách, đĩa và muỗng nĩa. “Cô ấy là vợ tôi,” Shafi nói. Tôi chào cô. Cô lầm bầm một câu chào rồi kéo rèm xuống, ngăn nhà bếp tạm bợ với chỗ tiếp khách. Anh Shafi bảo vợ pha trà, rồi nói thêm, “Đừng bỏ đường. Cậu ấy sẽ bỏ bao nhiêu tùy thích.” Đôi mắt của anh dường như biến mất sau cặp kính dày. Gò má anh hóp lại, nhưng mái tóc vẫn nâu và quăn. Shafi đốt một điếu thuốc, cúi người về phía tôi và nói, “Tôi đã bị nhốt trong Papa-2 bảy tháng trời.”
Vào năm 1990, Shafi mười chín tuổi, như những đứa con trai khác, anh quyết định gia nhập một nhóm nghĩa quân. JKLF là nhóm có ảnh hưởng nhất và hấp dẫn nhất trong vùng anh sống ở Srinagar, nên anh đã tham gia vào phe cánh sinh viên của nhóm đó. Cuộc chiến chống Ấn Độ của anh đã bắt đầu: tấn công các nhóm lính tuần tra Ấn Độ, mang súng di chuyển từ nơi ẩn náu này đến nơi ẩn náu khác và tránh bị bắt giữ trong những đợt khủng bố. “Chúng tôi đã nghĩ rằng Kashmir sẽ được tự do trong một hay hai năm nữa,” anh nhớ lại. Nhưng thay vào đó, anh lại bị một nhóm tuần tra của lực lượng bán quân đội bắt giữ. Sau cuộc thẩm vấn mở màn tại một doanh trại ở Srinagar, anh bị đưa tới các nhà tù Kot Balwal và Talab Tilloo trong tỉnh Jammu. Hai năm sau, anh được thả. Trở về nhà, anh gặp lại bạn chiến đấu của mình. “Tôi bắt đầu hoạt động cho phong trào một lần nữa.”
Một ngày tháng Tám năm 1992, anh bị nhận dạng bởi một gã người địa phương câu kết với Lực lượng Bảo an Biên giới (BSF) của lính bán quân đội. “Tôi biết hắn. Hắn trở thành thám báo cho bọn BSF và đã chỉ điểm tôi. Tôi không mang một loại vũ khí nào và vẫn bị bắt.”
Vợ anh Shafi gọi vọng sang từ phía sau tấm rèm vàng. “Trà pha xong rồi đấy,” Shafi nói. Anh đứng dậy, mang ra một khay đầy bánh quy, hai cái tách và một bình trà. Anh bắt đầu rót trà nhưng lụp chụp với mấy cái tách và khẽ nhăn mặt. Tôi tình nguyện giúp và anh để cho tôi làm. Tôi để tách trà bên cạnh anh và anh lại chạm vào nó từ tốn, như thể muốn trấn an bản thân rằng nó thực sự hiện hữu. “Chúng giam tôi trong một trại BSF địa phương một tuần lễ trước khi đưa tôi sang Papa-2.” Trong trại BSF, anh đã bị thẩm vấn, đánh đập bằng nắm đấm, chân, gậy ba ton và súng. Chúng muốn biết thông tin về nhóm của anh, chúng muốn lấy vũ khí của anh. Anh không nói cho tôi biết là anh có tiết lộ thông tin hay vũ khí của mình hay không. Thật khó có thể hỏi câu như vậy nếu bạn là dân Kashmir.
Anh Shafi bị giải đến Papa-2. “Nó là địa ngục,” anh kể, tay mò mẫm tìm điếu thuốc đang cháy dở trong gạt tàn. Anh bị ném vào một căn phòng lúc nhúc hai mươi người đàn ông. Sàn phòng trơ trụi. Các vách tường sơn trắng bê bết máu. Mỗi người được phát một cái mền đen cứng ngắc để ngủ. Mấy cái mền đầy rận. “Chúng tôi gọi chúng là mền rận.” Anh cười phá lên. Một góc phòng được dùng làm toa lét. Các tù nhân tiểu tiện và đại tiện vào các bao nylon trong góc phòng, rồi vứt bao vào thùng rác. Mỗi lần có người cần đi tắm, hai người khác giăng một cái mền lên làm màn để người kia có một chút riêng tư. Những người khác thì nhìn chằm chằm xuống sàn. Anh Shafi và những người bạn tù của mình đã ngủ lay lắt trên sàn như những bộ xương được sắp thành nhiều dãy. Suốt cả đêm, người ta tỉnh dậy la hét, chửi bới lũ rận rệp, cố gắng ngủ lại, để rồi bị đánh thức bởi người tiếp theo đang chiến đấu với lũ rệp vô lại đó. Một số người cũng ngủ được dù đèn không bao giờ tắt. “Trong thời gian bị thẩm vấn, tôi bị buộc phải nhìn thẳng vào những cái bóng đèn rất sáng. Thậm chí đèn trong phòng chúng tôi cũng có thể làm bỏng cả mắt. Tôi thèm khát bóng tối.” Và bóng tối đã đến. “Ở đó, tôi bắt đầu mất thị lực. Bây giờ tôi nhìn rất kém, dù có mang kính.”
Sau khi anh được thả, các bác sĩ đề nghị một cuộc phẫu thuật khôi phục thị lực cho anh. “Tại sao anh không được mổ?” tôi hỏi. Shafi mỉm cười. “Tôi không đủ tiền.” Anh không thể tìm được việc làm ở bất cứ đâu. Vào mùa hè anh bán quần áo cũ trên một chiếc xe bằng gỗ ở Lal Chowk, mùa đông anh theo anh trai mình đến Calcutta đi bán dạo những chiếc khăn choàng Kashmir để lấy tiền hoa hồng. Gia đình muốn anh lấy vợ và bắt đầu một cuộc sống mới. Họ đi tìm cho anh một cô gái. Không ai muốn lấy Shafi, một người đàn ông đã kiệt sức vì những tháng ngày tranh đấu, tù đày và có một tương lai bấp bênh không nghề nghiệp. Anh trai anh quen một gia đình Hồi giáo sống trong khu ổ chuột ở Calcutta. Họ có một cô con gái lác mắt không ai chịu cưới. Gia đình cô bằng lòng gả cô cho Shafi. Bây giờ cô đang ngồi sau bức rèm, hỏi chúng tôi có dùng thêm trà không. “Cô ấy đang có thai và tôi phải đưa cô đến Calcutta để sinh con.” Giọng anh có vẻ căng thẳng.
Anh Shafi sống nhờ vào một ngàn rupee mà Yasin Malik, lãnh đạo nhóm JKLF, cho anh mỗi tháng. “Tôi cũng đã cầu cứu những người lãnh đạo khác. Tôi nói tôi bị rơi vào tình trạng này là bởi tôi đã hy sinh tuổi trẻ của mình cho phong trào, nhưng tôi đã thất vọng.” Một số vị lãnh đạo phe ly khai yêu cầu anh cung cấp bằng chứng về việc từng là quân khởi nghĩa và về những năm tháng tù đày của mình. “Họ sống trong những ngôi nhà rộng và lái những chiếc xe lớn mua bằng tiền đóng góp cho phong trào. Nhưng họ không chịu giúp những người đã hy sinh cuộc đời mình vì việc nghĩa.” Khuôn mặt anh méo xệch vì giận dữ, anh rít nhiều hơi thuốc dài và sâu. “Tôi không bao giờ đến tìm họ nữa. Không có một kẻ cầm đầu nào ngoại trừ Yasin Malik phải trải qua những gì đám thanh niên (những nghĩa quân bị giam giữ) đã từng chịu đựng. Bọn họ không thể hình dung được việc bị tra tấn là như thế nào.”
Anh muốn tôi hình dung. “Chúng bắt anh ngồi lên ghế, trói anh bằng dây thừng. Một tên lính giữ chặt cổ anh, hai tên khác kéo chân anh ra hai hướng và ba tên nữa thì lăn tới lăn lui một con lăn bằng xi-măng nặng trịch trên chân anh. Chúng đặt câu hỏi và nếu anh không trả lời, chúng dí thuốc lá vào người anh.” Anh dừng lại, rồi dường như nhớ ra điều gì, anh nói, “Khủng khiếp nhất là đòn tra tấn tâm lý. Chúng nó bắt anh nói ‘Jay Hind’ (Chiến thắng thuộc về Ấn Độ) mỗi sáng và mỗi tối. Chúng đánh đập anh nếu anh không chịu nói. Tuy thật khó khăn nhưng rồi ai cũng nói, ngoại trừ thầy Ahsan Dar (lãnh đạo tối cao của nhóm Hizbul Mujahideen).” Rồi đột nhiên anh ngừng lại. “Tôi không thể nói về chuyện đó nữa. Nó làm cho tôi phát điên.”
Anh khuyên tôi nên gặp Ansar, một cựu nghĩa quân khác đã từng bị giam ở Papa-2, người sẵn sàng kể về chuyện tra tấn. Tôi không chắc mình có nên gặp anh ta hay không. Có phải tôi sợ đối diện với nó, sợ phải viết về nó sau này? Tôi mất nhiều ngày đấu tranh với chính mình trước khi đi gặp Ansar.
Tôi đã gặp Ansar trong tiệm bán rau của anh trai anh gần một đền thờ uy nghi ở khu mua bán của Srinagar. Chúng tôi ngồi trong một gian phòng nhỏ sáng lờ mờ của nhà anh nằm phía sau tiệm bán rau trên lề đường. Ansar là một người đàn ông tráng kiện, có ria mép, mặc bộ shalwar kameez màu be. Anh đã gia nhập một tổ chức ly khai có tên là Liên minh của Nhân dân vào khoảng giữa những năm tám mươi và trở thành một trong những thành viên sớm nhất của phe kháng chiến thuộc hội đó.
Ngày nọ, khi anh đang thăm cha mẹ mình thì bọn BSF xét nhà và bắt giữ anh. “Chúng nhận được tin là tôi đang ở đây. Có đứa nào trong làng tôi đã chỉ điểm.” Anh kể hàng loạt nhà tù mà anh từng bị giam.
“Và Papa-2 nữa ư?” tôi hỏi.
“Làm sao tôi có thể quên được nó? Thậm chí cả mấy con bò hoang cũng không thèm thứ đồ ăn bọn chúng bố thí cho chúng tôi ở đó. Anh sẽ không thể sống được một cuộc đời bình thường sau khi bị tra tấn như vậy. Nó để lại vết sẹo vĩnh viễn.” Anh đốt một điếu thuốc. “Chúng đánh đập chúng tôi bằng súng, gậy, tay chân. Nhưng nó cũng chưa thấm gì.” Anh kể lại mà như đang đọc một tờ giấy. “Chúng nó đem anh ra ngoài sân. Anh bị bắt cởi hết quần áo, thậm chí cả đồ lót. Chúng trói anh vào một thang gỗ dài và để nó gần một rãnh đầy dầu lửa và bột ớt. Chúng nâng chiếc thang lên như chơi trò bập bênh và nhấn đầu anh xuống rãnh. Chuyện này có thể kéo dài cả tiếng, hay nửa tiếng, tùy theo tâm trạng của bọn chúng.”
“Đó mới chỉ bắt đầu. Có những lúc chúng không lột quần áo anh nhưng vẫn trói anh vào thang. Anh cảm thấy gần như nhẹ nhõm cho đến khi chúng cột ống quần chỗ gần mắt cá lại rồi thả chuột vào trong.” Anh tạm dừng, rót thêm trà rồi nói, “Hoặc là bọn chúng đốt tay và chân anh bằng đầu thuốc lá và lò dầu hỏa dùng để hàn. Chúng đốt da thịt anh cho đến khi anh mở miệng.” Anh xắn tay áo phải lên trên cùi chỏ. Mảng thịt nâu sẫm sần sùi tương phản với màu da tái xanh của tay anh. “Chúng cột dây đồng quanh cánh tay anh rồi truyền điện cao thế. Tất cả lông tóc trên người anh đều dựng đứng. Nhưng tàn độc nhất là khi chúng nhét dây đồng vào bộ phận sinh dục của anh rồi mở điện cao thế lên. Chúng làm như vậy với hầu hết đàn ông. Nó hủy hoại cuộc đời biết bao nhiêu người. Rất nhiều người đã không thể lấy vợ sau khi bị như vậy.”
Sau khi được thả ra, anh Ansar được chữa bệnh nhiễm trùng đường tiết niệu và một số rối loạn chức năng khác mà anh không nhắc đến. “Tôi chưa sẵn sàng lấy vợ. Nhưng gia đình tôi đã hỗ trợ tôi rất nhiều. Tôi đã đồng ý lấy vợ chỉ sau khi tôi đã được chạy chữa một năm rưỡi trời. Tạ ơn Trời, bây giờ tôi có một đứa con gái và một công việc buôn bán nhỏ.”
Sau khi rời nhà Ansar, tôi cứ nghĩ mãi về những cuộc tấn công nhằm vào phần nam tính của các chàng trai, khiến họ trở nên suy yếu ngay cả khi mãn hạn tù. Tôi thử viết về Papa-2 nhưng không được. Tôi nhìn trừng trừng vào màn hình vi tính, đánh và xóa vài ba từ, rồi tắt máy.
Một kỷ niệm bị lãng quên đã quay trở lại. Vài năm trước tôi đã gặp lại thầy giáo dạy cấp hai của mình. Họ của thầy là Khatana và thầy dạy về thơ Urdu. Tôi mê thơ Urdu và đến dự tất cả lớp của thầy, trở thành học trò cưng của thầy. Nhưng tôi đã rời trường, rời Kashmir và quên bẵng mọi thứ về thầy. Gặp lại thầy sau gần một thập niên, tôi hỏi thăm thầy về gia đình và công việc. Thầy đang dạy ở một trường khác và chưa lấy vợ. Trong một trận càn tại làng của thầy, thầy đã bị bắt và tra tấn. “Lũ khốn nạn đó đã hủy hoại thầy. Thầy đã mổ tinh hoàn ba lần nhưng không thành công, thế nên không có cơ hội lập gia đình, thật vậy đấy,” thầy kể cho tôi nghe. Sau này tôi băn khoăn là tại sao, ngay thời điểm đó, tôi đã không thực sự hiểu thấu đáo bản chất của những việc thầy đã kể với tôi. Tôi muốn gặp thầy một lần nữa và đã gọi đến nhiều bạn bè để hỏi thăm về thầy. Không một ai biết được thầy đang ở đâu.
Vài ngay sau, tôi gọi điện cho Shahid, một người bạn là bác sĩ tại viện y khoa hàng đầu của Srinagar, Viện Y học Sher-e-Kashmir và kể cho cậu ta nghe về Ansar. “Tụi tớ nhận hàng trăm ca như vậy ở đây. Những vụ dùng điện giật đó đã gây ra bệnh bất lực cho rất nhiều người và nhiều người khác đã mất luôn cả thận của mình,” cậu nói. Shahid là một người đàn ông thấp bé, vui tính, lớn lên tại một làng ở phía nam Kashmir. Những ngày cuối tuần, cậu lái xe về ngôi làng tổ tiên của mình và dành ngày chủ nhật để chữa bệnh cho dân làng với một khoản phí tượng trưng. “Chủ nhật này tớ về nhà. Nếu cậu đi theo thì tớ sẽ giới thiệu cậu với một người bị tình trạng giống như vậy.”
Sáng chủ nhật tôi lên đường cùng với Shahid về làng cậu ta để gặp anh họ cậu là anh Hussein, người sau khi bị tra tấn trong tù, đã nghĩ rằng mình bị bất lực và từ chối lập gia đình. “Vấn đề là anh ấy chưa sẵn sàng để gặp bác sĩ. Thậm chí anh ấy còn không tâm sự với tớ,” Shahid nói khi chúng tôi lái xe từ Srinagar về thị trấn Bijibehara ở phía nam Kashmir. Chúng tôi rẽ vào một đường đất nhỏ gần thị trấn và có nửa giờ lái xe qua những ngôi nhà xây bằng bùn và gạch, những rặng cây liễu, cây óc chó và những cánh đồng. Hơi nước bốc lên từ cánh đồng phủ đầy băng tuyết được sưởi ấm bởi nắng ban mai. “Mặt trời đang hồi xuân,” Shahid nói theo kiểu của một bác sĩ.
Một tấm biển có hình chữ thập đỏ vẽ tay treo trước cái lán bên đường với tên cậu bị viết sai, cho biết đây là phòng khám bệnh của Shahid. Mới gần chín giờ sáng mà đã có một đám đông bệnh nhân chờ cậu. Hussein, anh họ cậu cũng ở đó. Hussein có đôi mắt hiền từ và phong thái lặng lẽ. Chúng tôi ngồi trước một cửa tiệm vắng vẻ dưới nắng mặt trời. Tôi mời anh ấy một điếu thuốc và anh nhận một cách miễn cưỡng.
Có vẻ như Hussein đã đầu hàng số phận. Tôi loay hoay chọn lời lẽ thích hợp. Tình dục gần như không bao giờ được bàn luận trong văn hóa của chúng tôi và bệnh bất lực thì còn khó được nói đến hơn nữa. Tôi bắt đầu kể cho anh ấy nghe về anh Shafi, anh Ansar, Papa-2 và việc chữa trị bằng y học những căn bệnh rối loạn chức năng do việc tra tấn gây ra. Anh im lặng lắng nghe, gần như không bày tỏ cảm xúc trong suốt câu chuyện. Sau cùng, anh bắt đầu kể về kinh nghiệm của mình.
Năm 1990, khi anh đang học năm thứ nhất đại học thì cuộc đấu tranh vũ trang nổ ra. Anh là con trai cả của một giáo viên và có bốn anh em. Một hôm, anh bỏ nhà ra đi với một nhóm mười ba thanh niên khác. Sau ba ngày ở thị trấn Baramulla phía bắc Kashmir, họ lên một chiếc xe tải và lái về hướng thị trấn Kupwara, gần Đường Kiểm Soát nhưng đi được nửa đường thì Lực lượng Bảo an Biên giới chặn họ lại. Người dẫn đường của họ ngồi ghế trước cùng với tài xế, Hussein và bạn bè ngồi trên sàn xe ở phía sau. Họ đã thống nhất giả làm công nhân xây dựng, nhưng họ vẫn bị bắt và bị đưa đến một trại lính bán quân đội gần đó.
Sáng hôm sau Hussein và nhóm của mình bị đưa vào những nhà kho bé tí làm bằng thiếc thắp đèn điện sáng rực để thẩm vấn. “Tôi bị buộc phải cởi đồ, trần truồng. Ban đầu tôi kháng cự, rồi bị đánh, bị cưỡng ép lột đồ và trói vào một cái ghế. Rồi bọn chúng quấn dây đồng vào hai cánh tay tôi và cho điện giật. Tôi thậm chí không thể kêu la. Chúng đã nhét giẻ vào miệng tôi. Tôi tưởng là tôi sẽ chết. Chúng đột ngột dừng lại, lôi mớ giẻ ra và tra hỏi. Tôi bị ngất xỉu vài lần. Chúng làm tôi tỉnh dậy rồi nhét một sợi dây đồng vào trong dương vật tôi. Rồi chúng mở nguồn điện.” Hầu hết người trong nhóm đã đầu hàng sau hai ngày bị tra tấn. “Đến một mức độ nào đó anh sẽ không thể chịu đựng nổi sự đau đớn. Tất cả đều khai báo,” anh Hussein nói. “Chúng tôi thừa nhận là đang đi huấn luyện vũ trang và bị chuyển sang những nhà tù ở Srinagar sau hai tuần.” Anh nói thêm như một suy nghĩ muộn màng, “Lẽ ra tôi nên thừa nhận ngay lập tức. Cuộc đời có thể đã khác.”
Tôi nhắm mắt lại, rồi mở mắt và nhìn ra chỗ khác, nhìn vào con đường và những bệnh nhân đang chờ đến lượt họ tại phòng khám của Shahid. Một ông già đến chỗ chúng tôi và hỏi tôi có phải là bác sĩ không. “Không phải, ông à. Cháu chỉ là bạn của bác sĩ thôi.” Ông cụ nói cho tôi nghe về chứng cao huyết áp của mình vì “hoàn cảnh” rồi bỏ đi.
Hussein và tôi xuôi theo con đường xuyên qua những cánh đồng, dẫn ra ngoài rìa làng. Không có xe cộ. Hussein bước đi chậm rãi, chìm đắm trong suy nghĩ. Chúng tôi ngồi trên một ụ đất bên vệ đường. Hussein đốt thuốc và tiếp tục câu chuyện. “Tôi không thể diễn tả được nỗi đau đớn mà một người phải chịu đựng khi bị những cú điện giật. Tôi tưởng tôi sẽ chết. Đôi khi tôi nghĩ mỗi cú điện giật kéo dài một hay hai phút, có lúc nó như kéo dài hàng giờ,” anh nói.
Sau khi những tên thẩm vấn ném anh trở lại phòng giam, Hussein tiếp tục ngất xỉu. “Ít nhất là trong những lúc bất tỉnh tôi không thấy đau đớn.” Mỗi lần đi tiểu, anh đều tiểu ra máu, dương vật của anh sưng tấy lên và cơn đau buốt cứ bò dần lên trên như một con đỉa. Khi anh bị đưa về trung tâm giam giữ ở Srinagar, sự nhiễm trùng đã ăn sâu và anh nhìn thấy máu và mủ trong nước tiểu của mình. Không có một hỗ trợ y tế nào trong nhiều tuần lễ. “Rồi có một sĩ quan người Sikh của lính bán quân đội hỏi thăm về tình trạng của tôi. Tôi kể cho anh ta nghe chuyện đã xảy ra. Anh ta quả là một thiên thần. Anh ta đem cho tôi vài thứ thuốc, bông băng và nước khử trùng. Chúng rất có ích.” Nó làm tôi nghĩ đến những gì anh Ansar và Shafi kể cho tôi nghe về những kẻ thẩm vấn khác nhau: “Một số là quỷ dữ và số khác là những người đàng hoàng.” Hussein lại im lặng. Tôi hỏi anh có biết tên của viên sĩ quan người Sikh hay có thể tìm cách liên lạc lại với anh ta hay không. “Tiếc là tôi không biết tên anh ta. Tôi không gặp lại anh ta vài tuần sau đó. Tôi nghĩ anh ta đã bị thuyên chuyển.”
Hussein được thả khỏi nhà tù sau hai năm trời. Một năm sau đó, anh bắt đầu buôn thảm và khăn choàng. Một hôm, anh quyết định nói cho gia đình biết về bệnh bất lực của mình. Anh chưa từng nói chuyện đó với bất kỳ ai. Tối hôm đó, anh không ngủ được mãi cho đến khi nghe thấy tiếng gọi cầu nguyện buổi sáng. “Tôi đến đền thờ, cầu nguyện và sụp đổ hoàn toàn khi cầu xin Thượng Đế giúp đỡ. Chỉ có ngài mới có thể hiểu những gì tôi đã trải qua.” Đi bộ từ đền thờ về nhà, anh thấy mình mạnh mẽ hơn và quyết định nói chuyện với anh rể của mình, một thầy giáo. Người anh rể khuyên anh nên đi bác sĩ. “Trong một năm trời tôi đến rất nhiều bác sĩ khác nhau ở bệnh viện quận Anantnag. Họ viết một danh sách dài các loại thuốc, nhưng chúng không giúp được gì nhiều.” Shahid muốn đưa anh ấy đến Viện Y học của Srinagar.
Hussein lại không thấy thoải mái khi nói chuyện với Shahid. Anh từ chối gặp thêm bất kỳ bác sĩ nào và dành thời gian vào việc buôn bán tạp phẩm và cầu nguyện ở đền thờ.
Gia đình anh không thể làm gì cho đến khi một cuộc khủng hoảng khác kéo đến – những người em trai của anh lấy vợ. Trong tập quán của người Kashmir, em trai không lập gia đình trước anh mình. Cha của Hussein, anh rể và các chú bác cố thuyết phục anh một lần nữa. Dân trong làng bàn tán về chuyện đó: “Tại sao đứa con trai lớn của họ lại không lấy vợ mà mấy đứa nhỏ hơn lại lấy? Nó có bị cái gì không? Người ta nói là có chuyện gì đó xảy ra với nó trong tù.” Hussein bảo các em trai của anh cứ việc làm chuyện của họ. Họ đã làm thế. Hussein chơi đùa với con cái của họ. “Cũng có lúc rất khó khăn. Nhưng đơn giản là tôi không nghĩ đến việc sống cùng với ai cả.” Hussein không giấu được niềm khát khao trong giọng nói của anh.
Chúng tôi trở lại phòng khám. Tôi quay sang anh và nói, “Hussein, anh sẽ không sao đâu. Bệnh của anh chữa được mà.” Tôi kể cho anh nghe về cuộc hôn nhân của Ansar và về đứa con gái ba tuổi của anh ấy. Tôi nói với anh về những cuộc phẫu thuật đường tiết niệu tôi đã đọc qua, về các loại thuốc, về việc tư vấn tâm lý, việc anh là người dũng cảm, về niềm tin, về việc đấng tiên tri Mohammed đã nói rằng sự tuyệt vọng là một tội ác. Chúng tôi về đến phòng khám và đi vào gian phòng tường bùn nền đất. Rồi chúng tôi đợi đến khi các bệnh nhân đi về. Tôi quay sang Hussein và hối anh nói chuyện với người em họ làm bác sĩ của anh. Anh nhìn sâu vào mắt tôi và mỉm cười. “Tôi sẽ nói. Cảm ơn cậu nhé.” Chúng tôi bắt tay và tôi bước ra khỏi phòng khám.