← Quay lại trang sách

Chương 12 Những người anh hùng

Trời đang vào đông. Chiếc lá cuối cùng trên cây dâu tằm ngoài cửa sổ phòng tôi đã rụng và những đám mây thì xám mờ ảm đạm. Thành phố Srinagar dường như đã thu mình lại, lùi vào thế giới nội tâm, như một người đàn ông trung niên hốt hoảng thấy mình có thêm một sợi tóc bạc khi soi gương buổi sáng. Sự quạnh quẽ của ngoại cảnh phản chiếu cảm giác cô quạnh trong lòng tôi. Buổi trưa tôi đọc sách và cố gắng viết vào buổi tối. Nhưng có một độ vênh giữa những trải nghiệm tôi đang cố gắng thẩm thấu và việc viết thành văn. Tôi bực bội rồi trở nên cau có và thỉnh thoảng gây gổ rất vô lý với bạn bè. Tôi gọi điện cho Shahid. Chúng tôi hẹn gặp nhau tại quán cà phê yêu thích gần trung tâm thành phố. “Điều đó rất phổ biến đối với những người tiếp xúc với nạn nhân của những thảm kịch,” Shahid nói và gợi ý là tôi đừng cố viết gì trong vài tuần lễ.

“Làm vậy không có ích gì hết. Rốt cuộc tớ cũng phải viết.”

“Vậy thì nên nhớ là những người như tớ với cậu thuộc một số ít may mắn ở Kashmir. Môi trường xuất thân đã che chắn cho chúng ta khỏi rất nhiều thứ. Chúng ta được học hành đàng hoàng và có thể tạo dựng một sự nghiệp. Chúng ta có thể đi khỏi chỗ này bất cứ khi nào.” Cậu ngừng một lát rồi hỏi, “Không phải cậu đã từng rời khỏi đây sao?” Shahid chưa bao giờ rời Kashmir. Cậu học y tại một trường đại học ở Srinagar. Lời nhận xét của cậu nghe như một lời cáo buộc.

“Tớ đã quay về, Shahid. Tớ không quên bất cứ cái gì khi ở xa. Tớ trở về để viết về Kashmir,” tôi hét lên.

“Vậy thì đối diện với sự thật đi! Đừng có bỏ chạy mỗi lần nghe những chuyện làm cậu vật vã,” cậu ta bắt bẻ tôi. Chúng tôi ngồi uống cà phê và hút thuốc lá mà không nói một lời. Sau vài phút, cậu dập thuốc và nói, “Tớ xin lỗi. Tớ biết chuyện này rất khó khăn. Tớ còn không thể thuyết phục anh Hussein nói về những khó khăn của anh ấy. Ở đây tớ là bác sĩ. Nhưng tớ đang nói với tư cách một người bạn.”

Chúng tôi gọi thêm cà phê và Shahid tiếp tục nói. “Nó xảy ra với tất cả những người gắn bó mật thiết với mảnh đất này. Khi tớ được phân về khoa cấp cứu, người ta thường đem biết bao nhiêu người bị thương đến mỗi ngày. Có khi bọn tớ cứu được họ. Cũng có lúc họ chết ngay trên bàn mổ. Tớ đã từng khóc trong phòng mình sau những cái chết như vậy. Nó ảnh hưởng đến công việc của tớ. Tao muốn chuyển đi nên đã tâm sự với một bác sĩ già dặn kinh nghiệm. Ông ấy bảo rằng bọn tớ phải biết mình không thể cứu sống được tất cả, thế nhưng bọn tớ vẫn phải cố gắng để trở thành những bác sĩ giỏi hơn.” Shahid đã đối mặt với nỗi sợ hãi và tiếp tục làm việc tại khu cấp cứu. Tôi cũng phải đương đầu với những bóng ma của mình.

Tôi đi bộ về nhà cha mẹ, lại nghĩ về những người mà tôi không làm sao viết về họ được, về những nơi tôi đã trì hoãn việc thăm viếng bởi tôi sợ chạm vào nỗi đau đớn. Tôi nghĩ đến Mubeena Ghani, một phụ nữ sống tại một ngôi làng phía nam Kashmir, cách quê tôi một giờ đồng hồ, người tôi đã được nghe kể hồi ở trung học. Vào tháng Năm 1990, sau khi làm đám cưới được vài giờ, chị đã bị một nhóm lính của lực lượng bán quân đội Ấn Độ hãm hiếp.

Sau này khi lên đại học, tôi đọc được những mẩu truyện ngắn của Saadat Hussein Manto, người chép sử bậc thầy về bạo lực ở tiểu lục địa. Ông Manto đã viết một loạt bài phác họa rất hùng hồn về sự xung đột giữa các giáo phái theo sau việc chia cắt đất nước Ấn Độ thuộc Anh quốc thành Ấn Độ và Pakistan. Trong một câu chuyện có nhan đề “Khol Do” (Mở ra), ông kể về một người cha tìm thấy đứa con gái của mình trong một phòng bệnh viện vài ngay sau khi cô bị mất tích trong vụ xung đột giáo phái. Ông bác sĩ nhờ người cha mở cửa sổ cho con gái. Khi cô bé nghe hai từ khol do của ông bác sĩ, cô tụt quần mình xuống. Cô bé đã bị hãm hiếp nhiều đến nỗi liên tưởng từ khol do với lệnh cởi bỏ quần áo của kẻ hãm hiếp mình.

Mùa xuân năm 2002, từ Delhi tôi đã đến Kashmir để làm phóng sự. Sau khi hoàn tất những báo cáo tin tức, tôi đi tìm chị Mubeena. Tôi được biết chị và người chồng tên là Rashid Malik đang sống tại làng Chawalgam, cách làng của tôi một giờ đồng hồ. Sáng hôm sau tôi bắt taxi đến Chawalgam. Trong chợ làng, hàng quán treo đầy các biển quảng cáo Coke và bánh quy Parle. Một chủ tiệm chỉ đường cho tôi vào con hẻm hẹp, cuối hẻm là một tiệm bánh. Ông thợ làm bánh đang nhồi bột trong một cái thau gỗ to. “Anh Rashid Malik sống ở đâu vậy?” tôi hỏi.

Ông thợ làm bánh dừng lại và nói, không rời tay khỏi cục bột, “Anh muốn hỏi người có cô dâu bị hiếp phải không? Anh là nhà báo hả?” Ông ấy chỉ vào một túp lều giống như một ngôi nhà, làm bằng gạch thô và gỗ. Sợi dây kẽm rỉ sét được neo vào những cành dương làm thành hàng rào của ngôi nhà. Mấy miếng nhựa poly thay cho kính cửa số và những bó rơm rạ xếp trên vài miếng gỗ sần sùi làm thành mái nhà. Có một con bò nâu bị cột ở góc sân và một đứa bé đang chơi với mấy cành cây trên cầu thang. Tôi đứng bên ngoài căn nhà, cảm thấy mình là người xâm phạm gia cư. Tôi đang cân nhắc có nên làm phiền họ không thì một người đàn ông hốc hác xuất hiện.

Đôi mắt quầng thâm, râu ria lởm chởm, lác đác những đốm trắng trên đôi má vàng bủng và cái áo sơ mi thì rộng lùng thùng trên đôi vai xương xẩu. “Tôi là Rashid. Mấy người chủ tiệm nói với tôi là có một nhà báo tìm tôi. Xin mời vào nhà.”

Anh dẫn tôi vào nhà mình. Những vách tường trát bùn nứt nẻ làm lộ ra những viên gạch thô. Một tấm vải chắp nối nhiều mảnh được trải dưới sàn phòng khách và không có một chiếc bàn ghế nào. Thằng con của anh chạy đi tìm chị Mubeena ở ngoài đồng nơi chị đang làm. Tôi trò chuyện với anh Rashid cho đến khi chị Mubeena về. Nước da xanh xao của chị dường như bám vào gương mặt trái xoan vô hồn, da tay chị nứt nẻ, còn đôi mắt nâu có vẻ ngần ngại và thấu hiểu. Chị mặc một tấm pheran rách nát và mang trà với bánh quy ra mời tôi. Anh Shahid thấy e ngại vì đã không thể mời tôi món gì ngon hơn. Chị Mubeena rót trà vào một cái tách men rạn nứt và họ kể cho tôi nghe chuyện của mình.

Buổi tối ngày 16 tháng Năm 1990, anh Rashid Malik cắt tóc, mặc bộ vét trắng và đội khăn xếp thêu. Các cô gái làng hát những bài hát đám cưới. Trong những bài hát của họ, chú rể là hoàng tử, còn cô dâu là một nàng công chúa đẹp hơn cả mặt trăng. Gia đình anh đã mời thợ chụp ảnh đến lễ cưới. Một tấm trong số đó là cảnh anh Rashid từ nhà mình sang nhà cô dâu. Đôi mắt nâu của anh lấp lánh trên gương mặt hồng hào. Đôi vai rộng và bộ ngực vạm vỡ của anh căng đầy trong chiếc áo vét. Hàm răng trắng sáng bóng lộ ra bên dưới bộ ria đen. Một tấm ảnh khác cho thấy anh ngồi trên chiếc xe buýt được mướn để chở anh, bạn bè và họ hàng đến nhà chị Mubeena bên làng Hiller, cách đó năm dặm. Chiếc xe rời làng lúc chín giờ tối. Nửa tiếng sau anh Rashid đã ngồi trên chiếc ghế bọc nhung trong nhà cô dâu. Một vị giáo sĩ đến và lễ thành hôn kiểu Hồi giáo được tiến hành. Vị giáo sĩ hỏi Rashid ba lần rằng anh có sẵn sàng lấy chị Mubeena một cách tự nguyện và hỏi chị Mubeena ba lần rằng chị có sẵn sàng lấy anh Rashid một cách tự nguyện không. Cả hai người đều chấp thuận và họ trở thành vợ chồng. Hai bên gia đình ăn mừng và mâm cỗ được dọn lên. Một tiếng sau, anh Rashid chuẩn bị đưa cô dâu về cùng. Thêm nhiều bài hát nữa được xướng lên. Rồi họ bỗng nghe tiếng súng.

Bên sui gia của Rashid tin rằng đó là tiếng súng chỉ thiên của quân du kích. Vào thời điểm đó, nghĩa quân yêu cầu người dân không hát những bài đám cưới hay đãi tiệc thịnh soạn trong thời khắc của sự hy sinh. Rashid và bà con của anh nhất định đòi đi về. Gia đình cô dâu rất lo lắng và yêu cầu họ ở yên tại chỗ. Họ cãi nhau về việc có khôn ngoan hay không khi đi năm dặm đường vào thời điểm như thế trong đêm. Phía nhà trai thắng, lên xe buýt để về nhà cùng với cô dâu. Anh trai của Rashid, người làm cho Lực lượng Cảnh sát Đường sắt Ấn Độ, ngồi kế bên anh, tay cầm sẵn giấy thông hành xin được của một đại tá quân đội đóng quân gần đó. Đó là những ngày còn giới nghiêm ban đêm ở Kashmir. Mọi người đi đâu sau hoàng hôn đều cần một giấy thông hành. Chiếc xe buýt chạy chầm chậm trên con đường đất dẫn về làng chú rể.

Đi được hai cây số thì anh Rashid, đang ngồi băng trước cạnh tài xế, nhìn thấy xe của Lực lượng Cảnh sát Dự bị Trung tâm (CRPF). Xe dừng và anh trai của anh trình giấy thông hành với bọn CRPF. Chúng để cho chiếc xe cưới đi tiếp. Đi thêm vài dặm nữa, tại lối cắt ngang làng Hakoorah, Rashid và những người đồng hành nhìn thấy bọn lính của Lực lượng Bảo an Biên giới (BSF), mà một giờ trước đã chạm mặt một toán tuần tra của CRPF. Hai nhóm lính bán quân đội tưởng lầm nhau là quân du kích và đã bắn nhau. Xe buýt lại dừng lại. Một tên BSF chạy lại chỗ họ. Hắn hét vào người tài xế, bảo tắt hết đèn xe. Bóng tối đổ ập xuống con đường và chỉ có vài bóng đèn trang trí nhỏ rọi sáng trên xe. Rashid, những người đồng hành và cô dâu của anh run lập cập trên ghế ngồi. Anh trai của anh đứng lên, tay cầm giấy phép và mở cửa xe. Anh ta đến chỗ tên sĩ quan BSF để trình giấy. Bọn lính BSF chẳng thèm nhìn đến tờ giấy. Rashid thấy hai tên lính túm lấy cổ anh mình lôi ra vệ đường rồi bắt đầu đánh đập anh ấy. Rashid muốn phản đối hoặc van xin nhưng hai chân anh không chịu nhúc nhích. Anh thấy bọn lính BSF đi vòng quanh xe, rồi anh nhìn qua vai mình và thấy cô dâu. Cô đang co rúm trên ghế với người phụ dâu, anh muốn chạy lại chỗ cô. Nhưng có tiếng súng.

Đám lính BSF xả đạn vào chiếc xe buýt. Rashid ném chiếc mũ xếp và hụp xuống dưới ghế như những người khác. Ngay lập tức anh cảm thấy có cái gì đó sượt qua vai anh và một tiếng hét vang lên từ ghế bên cạnh. Viên đạn sượt qua vai anh đã trúng vào tay của đứa em họ Sabzaar. Một loạt đạn nữa xuyên thủng thân xe buýt và xuyên qua tim một đứa em họ khác của anh, thằng Asadullah, làm nó thiệt mạng. Rashid vẫn chưa nhận biết chuyện gì đã xảy ra cho em họ anh thì anh bị bắn trúng lưng và sau này các bác sĩ tìm thấy năm viên đạn. Ba viên đạn trúng vào vai, lưng và hông của Mubeena. Tên sĩ quan BSF ra lệnh cho hành khách xuống xe, một trận đánh hội đồng theo sau đó. Anh Rashid té xuống đường rồi bất tỉnh. Mubeena cùng với cô phụ dâu và những người khác đứng bên đường, máu chảy ròng ròng. Một nhóm lính lôi chị và cô phụ dâu vào cánh đồng mù tạt bên đường. Một nhóm lính BSF không rõ bao nhiêu người đã hãm hiếp hai cô gái bị thương. “Tôi không thể nhớ nổi có bao nhiêu thằng lúc đó. Tôi đã mất cả ý thức.” Chị Mubeena nói.

Một toán lính BSF khác cầm đầu bởi một sĩ quan cấp trên đã đến đó. Chúng đem những người đàn ông và phụ nữ bị thương đến bệnh viện ở Anantnag. Sáng hôm sau, các quan chức của chính phủ tiểu bang đến bệnh viện lấy lời khai của anh Rashid, chị Mubeena và những người bị thương khác. Ông quận trưởng trao cho mỗi người ba ngàn rupee tiền trợ cấp của tiểu bang. Họ từ chối. Lãnh đạo các nhóm ly khai đến bệnh viện thăm họ và sau đó về làng họ, kêu gọi dân làng sát cánh với đôi vợ chồng trẻ.

Rashid được chuyển sang một bệnh viện tốt hơn ở Srinagar. Các bác sĩ cho anh lựa chọn: hoặc chung sống với năm viên đạn trong người hoặc mạo hiểm với cuộc phẫu thuật có thể làm anh bại liệt. Anh quyết định không giải phẫu và trở về nhà, quyết tâm làm lại cuộc đời. Một sự câm lặng đầy thù địch chào đón Rashid và Mubeena trong cuộc trở về của họ. Đối với gia đình Rashid và dân làng thì Mubeena là một điềm gở: chị là nguyên nhân của tai họa đã lấy đi mạng sống của một người và làm mười người khác bị thương. Gia đình chồng hắt hủi chị. Cha mẹ của chị và một số bạn bè thì ủng hộ đôi vợ chồng. Anh Rashid không thể làm việc trong một năm trời, vợ chồng anh sống nhờ vào sự chu cấp của cha mẹ chị Mubeena. Anh muốn bán phần gia sản của mình. Gia đình anh từ chối ngay cả việc đó.

Một năm sau, chị Mubeena sinh một bé trai; đứa bé chết chỉ trong vài tuần. Chị định tự tử. Anh Rashid cầu xin chị phải sống, phải mạnh mẽ lên. Bỏ lại phía sau thảm kịch, anh nhận công việc thợ mộc bất cứ khi nào có việc. Vào những ngày khác, anh đi làm lao động tay chân, khiêng gạch, gieo hạt trên đồng, thu hoạch mùa màng. Chị Mubeena cũng góp sức. Chị thêu thùa, may vá và làm ruộng, dũng cảm chịu đựng những lời chế nhạo của bên chồng, và miệng lưỡi thế gian. Tại vòi nước của làng, khi đứng xếp hàng để lấy nước, chị luôn cúi thấp đầu. Trên những con đường làng, chị đi như chạy, cố gắng không để ai nhìn thấy. Chỉ một lần cãi vã nhỏ xíu cũng sẽ đánh động đến bi kịch của chị. “Mày là cô dâu bị hãm hiếp phải không? Mày là đứa đem lại rủi ro chứ gì?” Người làng đặt tên chế giễu họ. “Họ gọi chúng tôi là ‘Cô dâu Tóe lửa’ và ‘Chú rể Tóe lửa’,” chị Mubeena kể.

Một cuộc điều tra được tiến hành, vài tên lính bán quân đội bị đuổi việc. Những người mới thay chỗ chúng và bọn lính mới không nhận ra Rashid và Mubeena. Nhưng chị vẫn rùng mình mỗi lần thấy bóng quân phục.

Cái đêm hôm đó lẩn quẩn như một bóng ma. Chị Mubeena rót trà cho tôi và lau nước mắt bằng khăn choàng. Anh Rashid im lặng. Tôi nhìn chằm chằm vào hoa văn trang trí đã phai trên tấm vải chắp nối bằng vải vụn mà chúng tôi đang ngồi lên. Con gái của họ đi vào và giải thoát chúng tôi khỏi sự im lặng khó khăn đó. Nó mặc đồng phục trắng và xanh dương, vai đeo cặp xách. Nó chạy đến chỗ Mubeena và ngồi lên đùi chị. Con bé là học sinh lớp bốn trường làng. Nó cho tôi xem tập của nó. Trong cuốn tập tiếng Anh, con bé đã viết về mục tiêu của nó trong đời: làm bác sĩ. Anh Rashid và chị Rubeena nhìn nó hãnh diện. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, gió làm sột soạt rặng dương sau nhà và làm tấm nhựa poly đóng vào thành cửa sổ trống hoác bay phần phật. Rashid và Mubeena tiễn tôi ra cửa. Anh nắm tay con gái mình và đứa con trai họ níu lấy chị Mubeena. Họ vẫy tay và mỉm cười.

Một thời gian sau cuộc gặp gỡ với họ, tôi tình cờ đọc được bài thơ của một nhà thơ người Kashmir, tên là Farooq Nazki:

Những bà mẹ vò sạch vết máu trên quần áo của các chú rể

Trên bờ sông,

Áo cô dâu đã cháy thành tro bụi,

Các cô phụ dâu khóc

Và dòng jhelum lặng lẽ trôi.

Nhưng tôi không thể buộc mình viết về Rashid và Mubeena. Và tôi cũng không thể đến thăm làng Kunan Poshpora ở phía bắc quận Kupwara nơi quân đội Ấn Độ đã hãm hiếp hơn hai mươi phụ nữ vào năm 1990. Kunan Poshpora đã trở thành một biểu tượng, một ẩn dụ, một ký ức giống như Srebrenica.

Vào đầu tháng Mười Hai tôi đến Kupwara, cách Srinagar ba giờ đồng hồ. Kunan Poshpora chỉ cách đó vài phút và tôi dự định đón xe buýt đến đó. Những rặng núi hùng vĩ và những ruộng lúa xanh tươi bao quanh quận Kupwara. Vẻ đẹp của những khu vực xung quanh càng làm nổi bật sự bẩn thỉu của thị trấn. Chiếc taxi buýt [42] đi từ Srinagar và dừng lại trong một bãi đậu xe buýt rộng không tráng xi-măng, nơi cửa ngõ thị trấn. Hai dãy hàng quán xấu xí chen chúc nhau tạo thành khu chợ chính. Những quán ăn bày đầy các bịch khoai tây xắt mỏng và chai Pepsi nằm cạnh những tiệm bán đồ cơ khí sặc mùi dầu nhớt. Tôi thấy một trạm kiểm soát quân đội với một báng súng thò ra; một tấm biển treo trên đó ghi: BAN CHỈ HUY THỊ TRẤN KUPWARA. Sự hiện diện của quân đội quanh thị trấn biện minh cho cái chức danh đó.

Rồi tôi nghe tiếng một thằng bé mặc đồ lem luốc dầu mỡ la to, “Kunan Poshpora.” Một chiếc xe buýt sơn màu xanh-vàng rồ máy. Một người đàn ông râu lởm chởm, đội cái nón thêu kiểu nông dân, cột hai ống nước dài bằng sắt vào nóc xe. Ba phụ nữ ngồi trên ghế trước ngay sau tài xế. Một cô bé mập mạp mặc áo vàng và đeo vòng xanh nhún nhảy không mệt mỏi giữa lối đi, nhai kẹo cao su và thổi bong bóng. Một đôi âu yếm nhau trên ghế. Người soát vé la lên, “Kunan Poshpora.” Tài xế rồ máy xe lần nữa. Đôi tình nhân vẫn tiếp tục thì thầm. Hai cậu học trò mặc sơ mi trắng quần tây đen nhảy lên xe buýt và xe bắt đầu lăn bánh. Tôi nhìn xe chạy và nghĩ đến anh Rashid, chị Mubeena và con gái họ có ước mơ làm bác sĩ.

Tôi ngồi trong một quán trà xập xệ, hút thuốc, suy nghĩ. Nhưng tôi không được một mình quá lâu. Shabir, một thanh niên ẻo lả tự xưng là nhà thơ, giới thiệu bản thân và hỏi thăm tôi đang làm gì ở Kupwara. Tôi nói tôi làm báo. “Em cũng nghĩ vậy. Em có thể thấy điều đó qua cái túi và sổ ghi chép của anh. Nhà báo nào cũng ăn mặc giống anh,” Shabir nói. Cậu ta mê xem tin tức trên tivi và có nhiều ý tưởng dành cho tôi. “Em có thể dẫn anh đến những chỗ mà có thể anh thích viết,” cậu nói. “Tin đầu tiên em muốn cho anh biết là về một cái nghĩa trang ở đây. Những người được chôn ở đó hầu hết là những đứa con trai bị giết trong các trận đụng độ với quân đội ở biên giới.”

Đường Kiểm Soát chạy qua nhiều rặng núi sừng sững ngả bóng xuống những ngôi làng bao quanh quận Kupwara. Shabir kể rằng sau mỗi cuộc đụng độ, xác của những thanh niên cố vượt sang Pakistan để được huấn luyện vũ trang hoặc từ nơi đó quay về, được quân đội Ấn Độ đưa cho cảnh sát địa phương và được chôn cất trong nghĩa trang đó. “Vì không ai biết tên của những người chết, người dân địa phương trông coi nghĩa trang đã đánh dấu bằng những con số.”

“Con số sau cùng mà cậu thấy ở đó là số mấy?” tôi hỏi cậu.

“Em nghĩ khoảng độ hai trăm.”

“Tôi sẽ đến đó sớm,” tôi hứa suông, cảm ơn Shabir, rồi rời khỏi tiệm cà phê. Tôi thấy mệt mỏi nên bắt một chiếc taxi đi về hướng Srinagar. Tôi muốn về nhà. Tôi muốn được ở trong căn phòng của mình.