Chương 13 Cái giá của cuộc sống
Mubeena và Rashid đã sống trong sự tàn bạo và tẩy chay, vậy mà họ vẫn tạo dựng được một gia đình và đang nuôi dạy con cái mình. Parveena từ một bà nội trợ vô danh trở thành một người đấu tranh vì công lý được ca tụng. Những người đàn ông bị tra tấn đến tàn phế như Ansar đã xây dựng cuộc sống mới. Hussein đã bắt đầu tâm sự với Shahid về bệnh tật của mình và tôi cuối cùng cũng có thể viết về những con người, nơi chốn và chủ đề lâu nay tôi tránh né. Trong những câu chuyện ảm đạm về chết chóc và mất mát, còn có những kỳ tích của sự ngoan cường và lòng dũng cảm. Bất chấp tất cả, con người vẫn sống sót. Nhưng bao nhiêu người thực sự có thể vươn lên?
Đã đầu tháng Hai và mùa Đông đang nấn ná ở lại, những ngọn núi vẫn còn băng giá. Đôi vai tôi không còn cảm thấy sức nặng của nhiều lớp áo len dày cộp. Cái vỏ màu be của những chiếc bình kangri [43] chúng tôi mang theo mình suốt mùa đông, ngay cả khi lên giường ngủ, đã đổi thành màu nâu đen vì bị cọ xát vào bàn tay của chúng tôi. Đế giày của tôi đã biến thành màu bùn, mặc cho tôi vẫn hì hục đánh giày hàng ngày. Và hơi thở buổi sáng vẫn trông như khói thuốc lá. Cha tôi đội nón đen kiểu Jinnah [44] và áo khoác nâu để đi làm. Mẹ ở nhà phần lớn thời gian, trường của bà đã đóng cửa nghỉ đông trong hai tháng rưỡi. Bà đề nghị chúng tôi cùng đi thăm người anh em họ của cha tôi, người đã trở về sau chuyến hành hương Mecca.
Hầu hết người Hồi giáo Kashmir đều trông đợi chuyến hành hương về thánh địa Mecca từ nhiều năm trời. Người ta đi làm, xây nhà, nuôi dạy con cái, dựng vợ gả chồng cho chúng và khi những công việc trần tục được lo liệu xong, họ lấy tiền tiết kiệm, đến văn phòng chính phủ để lấy mẫu đơn xin và mua vé đi Mecca. Đó là chuyến đi trọng đại của hầu hết người Hồi giáo Kashmir. Chuyến hành hương có tính chất bắt buộc đối với mọi người Hồi giáo khi ông ta hoặc bà ta có khả năng. Bác tôi đã hoàn thành những trách nhiệm trong đời sống khi bác và vợ lên đường đi Mecca. Giờ thì họ đã về và cuộc hành trình đã đem lại cho họ một chức danh mới: Hajji. Theo truyền thống của Kashmir, bạn bè và bà con phải đến thăm những Hajji vừa trở về. Tuy nhiên, cuộc xung đột đã hạn chế sự đi lại và những người bà con xa chỉ còn gặp nhau vào những dịp quan trọng như lễ đính hôn, lễ cưới hoặc gặp nhau ở bệnh viện, hay tại các đám tang. “Cha con không thể đến được nên con phải đi với mẹ đến nhà bác Rahman,” mẹ tôi nói thế.
Hồi đó cha tôi thường thăm bác và gia đình dù có sự hiện diện hùng hậu của những toán lính Ấn và nghĩa quân quanh làng bác ấy. Nhưng ông đã không đi nữa từ sau vụ tấn công bằng mìn. Cha mẹ tôi vẫn sống trong sợ hãi.
Cách đây ít lâu, có lần chúng tôi đang ngồi trong xe của ông thì tài xế cán ngang một túi nhỏ có bốn vỏ hộp nước xoài nằm trên đường. Lúc còn nhỏ chúng tôi thường nhảy lên đạp mấy cái vỏ hộp đó để làm nó kêu lốp bốp như pháo nổ. Cha tôi đã hụp xuống dưới ghế, hai tay ôm lấy đầu. “Cha ơi, nó chỉ là hộp nước trái cây thôi mà,” tôi nói từ tốn. Ông ngồi lại lên ghế và im lặng. “Con biết không, từ sau cái vụ mìn nổ đó...”
Tôi đã nhìn thấy sự bất lực của cha vào một ngày khác, khi chúng tôi nghe tin về cái chết của dì ông. Bà dì sống tại một ngôi làng gần làng bác tôi và cha tôi đã không thể đi thăm bà khi bà lâm bệnh thời kỳ cuối. “Dì rất tử tế với cha khi cha còn nhỏ. Dì luôn luôn lo lắng cho cha, nhiều hơn bất cứ người bà con nào,” cha kể cho tôi nghe. “Vậy mà cha đã không thể thăm dì khi dì hấp hối.”
Mẹ và tôi đón xe buýt để đến làng của bác. Tôi nôn nao được gặp lại nhiều người bà con sau nhiều năm. Chiếc xe buýt chạy thong dong dọc theo sườn núi và dừng lại sau một dặm đường tại một trong hai trạm kiểm soát bao quanh làng chúng tôi. Hai tên lính trẻ măng mặc áo chống đạn đứng ngay chỗ kiểm soát, vai đeo lủng lẳng hai khẩu Kalashnikov. Chúng bảo chúng tôi bước đi. Chúng tôi bước chừng một trăm mét thì một tên hét lên, “Dừng lại.” Chúng tôi đứng lại. Không ai bị rà soát. Không có chiếc túi nào bị lục lọi. Chúng tôi lên xe buýt và đi về hướng làng. Tôi cứ thắc mắc về cái sự ngớ ngẩn của những mệnh lệnh này. Chúng không nhằm một mục đích nào cả. Nó giống như một trò chơi điện tử. Một thằng lính giơ ngón tay lên, các chiếc xe buýt dừng lại, người ta xếp hàng một, bước tới, dừng lại, lên xe và đi tiếp. Một chiếc xe khác đến trạm kiểm soát và trò chơi lặp lại.
Cái trò ngớ ngẩn đó làm tôi nhớ đến “Một căn bệnh mới,” truyện ngắn của nhà văn người Kashmir Akhter Mohiuddin mất năm 2001. Con rể ông bị giết trong một vụ tấn công của nghĩa quân vào một bờ sông ở khu tổ hợp bệnh viện nơi anh ta làm việc. Con trai ông thì bị giết trên đường đi làm về trong vụ trả đũa của lính quân đội sau khi chúng bị tấn công. Để phản đối những vụ việc vượt quá giới hạn, ông Akhter đã trả lại giải thưởng Padam Shri, một trong những giải thưởng cao quý nhất dành cho thường dân mà chính phủ Ấn Độ đã ban cho ông vì những cống hiến cho văn học. Cũng như Isaac Babel, ông có những sự gắn bó mật thiết với chiến tranh, quyền lực và nỗi sợ hãi và ông đã dâng tặng cuốn sách cuối cùng cho “những thanh niên bị sát hại ở những nơi vô danh.” Babel cũng thế.
Trong truyện “Một căn bệnh mới”, một người đàn ông nọ đứng chờ thật lâu, như thể đang xếp hàng trước khi bước vào chính ngôi nhà của mình, và rồi quay đi về hướng khác. Gia đình ông đưa ông đến bác sĩ. Bác sĩ nói, “Từ khi có chuyện rà soát cơ thể, một căn bệnh mới đã nảy sinh. Một số người cần bị rà soát mỗi lần họ thấy một cái cổng, số khác tự rà soát bản thân.” Ông bác sĩ kê đơn, phải rà soát cơ thể bệnh nhân mỗi lần người đó về đến cổng. Gia đình làm theo và tình trạng của người đàn ông đó khả quan hơn.
Có một ông già mặc bộ vét xanh ngồi trên ghế trước mặt tôi. Ông quay lại nói, “Mục đích của việc đó là gì nhỉ? Chúng chỉ muốn nhấn mạnh sự hiện diện của mình, để cho ta biết là chúng cai trị vùng này.” Chiếc xe buýt vẫn chạy về hướng làng của bác tôi. Không có thêm một trạm kiểm soát nào nữa, nhưng chúng tôi đang đi trên chính con đường nơi cha mẹ tôi đã suýt bị giết chết.
Tôi có thể thấy được hình ảnh mẹ tôi đang căng thẳng. Chúng tôi vẫn giữ im lặng và nhìn ra ngoài cửa sổ xe. Vài phút sau, chiếc xe buýt chạy ngang qua đoạn ống dẫn nước trên con đường từng được gài mìn. Những ngôi nhà gạch bình thường của người dân Kashmir chắn hai bên đường và những nhóm dân làng uể oải ngồi trước nhà họ, nhìn chăm chăm vào khách qua đường. Tôi thấy những con người đó, nhưng mẹ tôi có vẻ chỉ thấy gã đàn ông đã nhấn nút kích nổ từ xa. Bà chỉ tay về phía nhóm dân làng và nói, “Đó là chỗ họ (nghĩa quân) ngồi cầm chiếc điều khiển từ xa.” Tôi bặm môi rồi lắc đầu. Chúng tôi đi hết quãng đường còn lại trong im lặng.
Những con đường hẹp chạy giữa những căn nhà đắp bằng gạch và bùn được bao quanh bởi các cây óc chó trụi lá trong làng Panzmulla nơi bác tôi sống. Trên đường vào nhà bác, chúng tôi chào hỏi những người quen và bà con đang trở về nhà sau chuyến viếng thăm theo phong tục. Bác tôi người cao, rám nắng, ngồi trên tấm thảm, những người đàn ông và đàn bà đang vây quanh lắng nghe câu chuyện về Mecca của ông. Các cô gái và chàng trai trẻ phục vụ trà kahwa trong những ấm samovar tráng thiếc. Khách khứa nhấm nháp kahwa và nghe những câu chuyện về đức tin. Bác tôi thường sẽ tự ái nếu cha tôi không đến thăm ông sau chuyến hành hương. Nhưng thay vì vậy, ngay giây phút mẹ tôi và tôi bước vào nhà, ông ôm lấy tôi và nói, “Thật tiếc là ngay cả Ghulam Ahmad cũng không thể đến gặp bác hôm nay.”
Những nhóm khách lại đến và bác đứng lên chào hỏi từng người một. Mỗi người đều được mời một ly Aabe-Zam Zam, thứ nước của dòng suối Zam Zam ở thánh địa Mecca, được tin rằng có quyền năng chữa bệnh. Tất cả họ đều hỏi những câu giống nhau. Đúng thế, ở đó giao thông nằm bên phải đường. Vâng, có đủ thứ sắc dân của nhiều đất nước mặc cùng một loại áo thụng cotton màu trắng. Vâng, các cửa hàng rất lớn và đầy hàng hóa đắt tiền. Đúng vậy, anh sẽ bị mê hoặc khi lần đầu tiên nhìn thấy Qaaba [45] . Bác tôi có vẻ đã mệt vì lặp đi lặp lại. Tiếng gọi cầu nguyện của thầy muezzin đã giải thoát bác và bác ra khỏi nhà để đến đền thờ. Mẹ cũng gia nhập một nhóm bà con và ngay sau đó mê mải chuyện trò. Bà nói chuyện rất sôi nổi và cười vì những mẩu chuyện hài hước. Tôi ngắm bà từ xa và mừng khi thấy bà vui vẻ.
Việc cha mẹ tôi bị tấn công đã ám ảnh tôi trong nhiều tháng trời. Nằm chong mắt vào ban đêm, tôi mơ màng nghĩ đến việc trả thù cho họ. Rồi tôi lại quay về với thế giới hiện tại và nghĩ đến ông bà của tôi, các dì, các bác, anh chị em họ tôi, những người vẫn sống trong làng hay gần làng của tôi. Tôi nghĩ về những cái kệ đầy sách của cha và khát vọng viết lách của mình. Hầu hết các gia đình đều chấp nhận việc người thân của họ bị giết với sự cam chịu và nỗ lực để tiếp tục sống. Dưới sự cai trị của chính quyền Kashmir, bất cứ ai có người thân vô tội bị giết trong cuộc xung đột tại Kashmir đều được cấp cho một công việc bậc thấp trong chính quyền và gia đình được trả món tiền đền bù một trăm ngàn rupee. Trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, hầu hết mọi người từ chối nhận số tiền đền bù kiểu như vậy, vì cho rằng nó trái với luân thường đạo lý. Nhưng cuộc sống khắc nghiệt và phức tạp hơn nhiều những ý nghĩ chống đối. Với thời gian, người ta lật lại những bộ hồ sơ cũ và bắt đầu nghĩ đến việc làm cho cuộc sống của họ dễ thở hơn, kể cả việc chấp nhận cái giá chính thức được trả cho một mạng sống. Tôi đáng lẽ đã phải xin tiền bồi thường cùng với một công việc như thế. Tôi đã chứng kiến việc đó xảy ra trong các gia đình bà con xa khi tôi còn học đại học.
Một buổi trưa, khi tôi đang ngồi trong bếp nói chuyện với mẹ thì có tiếng gõ cửa. Chú Bashir, em họ của bà sống tại ngôi làng cách nhà tôi một giờ, đứng thất thần, níu lấy cửa để giữ thăng bằng. Giữa tiếng nức nở, chú nói chậm rãi, “Bọn chúng đã giết Gulzar. Quân đội đã giết nó tối qua bằng mìn.” Chúng tôi lùi lại một bước vì choáng váng. Chú Gulzar là em họ của cả mẹ tôi và chú Bashir. Hai đứa em họ tôi, một người dì và ông bà ngoại chạy vào nhà bếp. Ngoại tôi ôm chú Bashir và trang nghiêm đọc những lời kinh cầu nguyện mà người Hồi giáo đọc khi có người chết: ina lilahi Wa ina ilahi Rajioon (Những gì do Thượng Đế tạo ra sẽ trở về với Ngài). Khuôn mặt nhăn nheo của ông đanh lại vì nỗi đau, còn đôi mắt xanh thì rưng rưng lệ. Một hình ảnh của chú Gulzar thoáng hiện ra trước mắt tôi: một cậu trai ốm yếu mười lăm tuổi đứng trong sân nhà, ria mép lún phún làm mép môi trên của chú đậm hơn một chút so với khuôn mặt hồng hào. Tóc chú ngắn và lỉa xỉa, và chú cầm một cậy gậy cricket.
Nửa giờ sau, gia đình tôi đi dự đám tang của chú ấy. Tôi ở lại. Phải có người nào đó ở lại nhà, vì thật không an toàn khi để nhà không ai trông coi.
Làng của chú Gulzar đã trở nên xa xôi vì nó nằm gần một doanh trại quân đội khổng lồ và khu vực đó nguy hiểm hơn nhiều so với chỗ chúng tôi. Tôi không thể không nghĩ đến những lần gia đình tôi bị lục soát và buộc trình chứng minh thư. Tôi mừng vì họ có một chiếc xe hơi. Việc đi thăm nơi nào đó bằng xe buýt quả là ác mộng. Sẽ có một cuộc hỗn chiến nho nhỏ sau khi bạn vượt qua những trạm kiểm soát. Người ta sẽ điên cuồng chạy đến chiếc xe buýt, chen lấn, xô đẩy, thúc cùi chỏ để giành lấy một chỗ ngồi trên chiếc xe đông nghịt người. Những vụ gây gổ xảy ra khi một hành khách đã có chỗ ngồi từ trước cố đòi lại nó sau khi qua trạm kiểm soát.
Sáng hôm sau họ về nhà, mệt mỏi và đau khổ. Chú Gulzar đang là học sinh lớp mười hai tại một trường cấp ba địa phương. Học kỳ mới vừa chính thức bắt đầu và những học sinh lớp trên lại bắt nạt những học sinh mới.
Một ngày nọ chú Gulzar và bạn bè chọc phá một học sinh mới bằng cách bắt cậu ta đi đến chỗ một cô gái và “hỏi cưới” cô bé. “Hỏi cưới” là từ các học sinh nam người Kashmir dùng để chỉ việc hẹn hò với ai đó. Cậu học sinh mới vốn e thẹn, ngần ngại bước đến chỗ cô bé và làm điều cậu bị bắt phải làm. Cô bé đó mỉa mai, vặn vẹo lại và làm bẽ mặt cậu ta.
Cậu bé đó hóa ra là con của một sĩ quan quân đội. Tối hôm sau, một toán lính bao vây nhà chú Gulzar. Chúng đòi gặp chú ấy, lục soát nhà và chẳng tìm thấy gì. Chúng lôi chú ấy vào trong chuồng bò nơi chứa củi, cày, xẻng và lưỡi hái. Mười phút sau, cha mẹ và anh em chú ấy nghe một tiếng nổ. Cái chuồng bò bể tan nát. Lũ lính đã cho nổ một trái mìn để giết chú Gulzar. Chúng vu cho chú ấy là quân khởi nghĩa và rằng chú đã vô tình làm nổ tung trái mìn.
Cái chết của chú Gulzar làm thay đổi quan hệ tình cảm của chúng tôi với gia đình chú ấy. Cha mẹ tôi, ông bà ngoại, các dì và anh em họ tôi đi thăm họ cách ngày. Mẹ tôi đăng ký cho em gái chú học ở một trường gần nhà tôi và dì ấy ở nhà chúng tôi cho đến gần đây, khi dì tốt nghiệp một trường cao đẳng dành cho nữ giới ở địa phương.
Sau cái chết của chú Gulzar, không ai nói đến việc tranh đấu tại tòa án để trừng trị đám lính đã giết chú ấy. Những việc đó chỉ xảy ra ở những đất nước nơi pháp luật được thực thi; ở Kashmir bạn cố mà bảo vệ những người đang sống khỏi những phiền phức còn hơn thế nữa. Bà con họ hàng bàn chuyện lấy tiền bồi thường và tìm cho người anh trai thất nghiệp của chú Gulzar là chú Ayub một công việc. Suốt nhiều tháng ròng, chúng tôi không thể lấy được giấy chứng nhận của quân đội, chứng thực chú Gulzar không phải là quân khởi nghĩa. Chúng tôi kiến nghị với Hội đồng Nhân quyền Quốc gia của Ấn Độ và sau một thời gian thì nhận được Giấy chứng thực không chống đối. Sự thật là, gia đình chúng tôi có những mối quen biết trong chính quyền địa phương để đẩy nhanh tiến trình. Ayub nhận được một công việc ở phòng phát triển nông thôn và đã lập gia đình một năm sau đó. Cuộc sống thường nhật vẫn tiếp nối. Chú Gulzar hiếm khi được nhắc đến trong những câu chuyện trong nhà. Nhưng chú ấy mãi mãi là một sự hiện diện vô hình.
Trường học mở cửa lại sau kỳ nghỉ đông. Những buổi sáng tháng Ba tràn ngập tiếng la hét của bọn trẻ rầm rập đi ngang nhà chúng tôi. Bọn lính trong những boongke của khu chúng tôi ở dường như mỉm cười được một chút. Báo chí không sớm thì muộn sẽ đưa tin như mọi năm về chuyện tuyết tan chảy trên Đường Kiểm Soát và số lượng nghĩa quân tìm cách vượt biên tăng lên. Tôi bước ra ngoài mua cà phê thì ông thợ cắt tóc đang đứng bên ngoài tiệm cắt tóc Bombay la to “Tóc của chú mày bù xù một nùi kìa.” Ông bỏ ra ít nhất hai tiếng đồng hồ để cắt tóc cho tôi, dù tôi là khách quen bởi vì ông có một trí tưởng tượng phong phú và hay kể chuyện trong lúc giải lao giữa những lượt cắt tóc. Tôi không thể nào quên được câu chuyện ông kể trong một ngày mùa đông, sau lần nghĩa quân kích nổ quả mìn nhắm vào đám lính Ấn đang tuần tra khu vực chúng tôi. “Các thứ kính bể tan nát và tiếng nổ lớn, lớn lắm, đến nỗi ta tưởng là ta đã chết rồi. Trong một chớp nhoáng, ta thấy thần chết cầm một cuốn sổ. Trong đó có tên những người chết. Tên ta không có trong đó! Sau đó ta đốt một điếu thuốc. Ta biết mình sẽ không sao.”
Tôi lắc đầu rồi cầu Thượng Đế và nhà tiên tri Muhammed. Sau một hồi, tôi hỏi ông, “Vậy tên người chết viết bằng tiếng Anh hay tiếng Urdu?”
“Dĩ nhiên là tiếng Urdu! Cháu biết là ta không đọc được tiếng Anh mà.”
Chẳng có chuyện nào hay ho ở Kashmir cả. Chỉ toàn những chuyện khổ sở, nhập nhằng và không giải quyết được. Tôi vẫn nghe chuyện về những gia đình có người thân chết trong cuộc xung đột, những người không có sự giúp đỡ về tài chính của bà con và những mối quan hệ để tiếp tục cuộc sống dễ dàng hơn một tí như gia đình chú Gulzar. Tôi được nghe nhiều câu chuyện về những gia đình đi tìm tiền bồi thường cho những đứa con đã chết của họ, phải tới lui các văn phòng chính quyền nhiều tháng trời và rồi bế tắt trong nhiều năm. Một trong những câu chuyện đó là về bà Shameena, người phụ nữ sống cách làng tôi không xa lắm. “Cậu phải gặp bà ta mới được,” người bạn kể chuyện về bà nói với tôi như vậy.
Bà Shameena sống tại làng Larkipora, cách làng tôi khoảng ba mươi kilômét về hướng nam. Larkipora là cụm nhà và những cánh đồng thanh bình nơi có những bi kịch ẩn mình mà người khách thông thường khó thấy được. Tôi bước đến một con hẻm dẫn vào cánh cổng làm bằng những miếng sắt nhăn nhúm được đóng vào mấy tấm gỗ sơ sài. Bên trong cổng, một người phụ nữ gầy nhom, có chiếc mũi nhọn, mặc áo choàng màu cam đã bạc ngồi trên hàng hiên lát đá cuội. Bà gập người bên chiếc giỏ đan bằng dây liễu đựng đầy haakh , một loại rau địa phương giống như rau bina. Bà để giỏ rau sang một bên và đứng dậy. Bà nhìn tôi một lúc thật lâu rồi nói, “Ngồi xuống đây, con trai. Ta là Shameema.”
Tôi ngồi đối diện bà. Đứa con trai út mười ba tuổi của bà ngồi trong một góc khác của cái hàng hiên hình chữ nhật bên cạnh cái hookah [46] . Em dâu của bà Shameema cũng tham gia vào câu chuyện của chúng tôi. Hai người phụ nữ ngồi sau mấy chiếc giỏ đầy rau. Bà Shameema cầm một nhánh haakh dài lên, ngắt bỏ một đoạn, rồi nói, “Hôm đó là ngày 11 tháng Năm, 2001.” Tôi thấy choáng váng khi thấy người ta có thể nhớ được ngày tháng chính xác của những sự kiện kinh hoàng nhất trong đời họ. Bà nói tiếp, “Ta đã nấu xong món cơm cà chua và đang đợi Shafi về ăn trưa.”
Shafi, đứa con trai mười bảy tuổi của bà, lúc đó đang học lớp mười ở một trường công tại Qabamarg, một làng kế cận, nổi tiếng vì có miếu thờ thánh Sufi. Đứa con trai khác của bà, thằng Bilal, đang học lớp chín và chồng bà, ông Majid là nông dân và bán trái cây phơi khô rẻ tiền ở một trạm xe buýt ở Anantnag. Buổi sáng ngày 11 tháng Năm, Shafi đi học Lý và Hóa ở chỗ hai ông thầy khác nhau tại hai làng lân cận, dù cha cần nó phụ bán hàng tại Anantnag. Nó về nhà vào giữa trưa. “Ta bảo nó ăn trưa nhưng nó bảo chờ nó mang củi đến nhà máy cưa gần đó.” Hai mươi phút sau, thằng Shafi trở về với một cái xe kéo đầy củi. Bà Shameema chỉ tay vào một khoảnh đất dưới sàn gần cầu thang, chỗ một thằng bé đang đứng ăn chuối và nói, “Nó cất củi ở đó.” Bà ấy thở dài. “Rồi nó đi đến đền thờ cho lễ cầu nguyện ngày thứ Sáu.”
“Em gặp nó gần đền thờ bên đường,” một giọng con trai nói. Tôi đã không để ý thấy một thanh niên mặc áo sơ mi nâu và quần jean rộng đang ngồi trên mép hiên. Hóa ra đó là Mushtaq, bạn của Shafi. “Tụi em có năm đứa khi Shafi nhập hội, tính luôn cả em trai nó. Tụi em không cầu nguyện mà ngồi dưới bóng cây chinar bên đường và nói chuyện.” Một trận đọ súng đã xảy ra giữa nghĩa quân và quân đội Ấn ở Qabamarg. “Tụi em nói về trận đụng độ đó và nghĩ ngôi trường có thể đã bị thiêu trụi. Rồi tụi em thấy mấy chiếc xe tải của quân đội chạy đến từ rất xa.” Mấy đứa con trai giải tán và nhanh chóng tìm đường về nhà chúng. Đoàn xe quân đội dừng lại và bọn lính rượt theo. Mushtaq và một đứa thoát được, bốn đứa khác bị bắt đem đi. Dân làng nhìn bọn lính đẩy mấy cậu bé vào xe tải rồi chạy về hướng Qabamarg.
Hàng xóm của bà Shameema chạy hộc tốc đến báo tin là quân đội đã bắt hai thằng Shafi và Bilal. Trong vòng vài phút, những người mẹ và chị của các cậu bé đã tập trung lại gần nhà bà. Rồi họ bắt đầu chạy về hướng Qabamarg trên con đường mòn nối hai làng, ngang qua những cánh đồng mù tạt. Bọn lính rảo vòng quanh các cánh đồng ở rìa làng. Chúng cố chặn những người phụ nữ đang la hét và xô đẩy chúng. Bà Shameema ngẩng đầu nhìn lên bầu trời xa xăm và nói, “Hôm đó Thượng Đế đã ban cho ta ý chí. Ta đã chống lại bất cứ thằng lính nào cố ngăn cản ta. Thường thì người ta rất sợ bọn lính, nhưng hôm ấy ta đã không dừng lại cho đến khi đến được căn nhà nơi diễn ra trận đụng độ.” Bà ấy nhìn thấy xung quanh toàn binh lính và bọn Ikhwani (bọn phản bội nghĩa quân, làm việc cho các lực lượng của Ấn Độ). Chúng đang xả súng vào một căn nhà một tầng. Trong sân tòa nhà bên cạnh, bà thấy mấy cậu bé bị bắt. “Ta chỉ thấy thằng Bilal ở đằng xa, chứ không thấy thằng Shafi.” Bà dừng lại. Rồi bà thở dài và kêu thằng út đem cho ít nước. Nó chạy vào trong và mang ra một chiếc cốc bằng đồng. Bà Shameema uống một ngụm, đặt cốc xuống và đẩy giỏ rau sang chỗ khác như thể đang chuẩn bị chiến đấu. “Ta chạy đến Bilal, chụp lấy nó và bắt đầu bỏ đi cùng nó.” Bilal ôm lấy bà, nói rằng bọn lính đã đẩy Shafi vào bên trong căn nhà của nghĩa quân, bắt thằng bé cầm một trái mìn trên tay.
Một tên lính dùng báng súng đánh vào tay bà Shameema và kéo Bilal về phía hắn. Bà thét vào mặt tên lính và kéo tay Bilal. Nó nói, “Buông con ra đi mẹ. Chắc chúng đã giết anh Shafi rồi, hãy để con chết luôn đi.” Thằng lính kéo mạnh hơn và lôi thằng Bilal đi. Bà Shameema đứng ngó theo như trời trồng. Tên lính dúi vào tay Bilal một trái mìn rồi đẩy nó về hướng căn nhà đó. Trận hỏa chiến vẫn tiếp tục. “Có gì đó bóp chặt trái tim ta khi ta nhìn thấy đôi tay run bần bật của Bilal cầm trái mìn. Hai chân nó khuỵu xuống và nó ngã xuống đất.” Bà Shameema hớp một ngụm nước trong chiếc cốc bằng đồng, quệt mồ hôi trên trán và nói, “Ta nhào tới trước và lấy thân mình che chắn thằng Bilal.” Bà giật trái mìn khỏi tay con trai mình và ôm lấy nó. Ba tên lính và một tên sĩ quan vây quanh, yêu cầu bà buông con trai ra. Bà bảo tên sĩ quan buông tha cho con trai mình và để bà ôm mìn vào căn nhà đó. “Ta ôm chặt trái mìn và kêu tên sĩ quan cho nó nổ tung đi.” Hắn im lặng, bà hét lên lần nữa. “Rồi hắn ra lệnh cho bọn lính để cho ta đi. Ta giữ chặt thằng Bilal. Khi mẹ con ta bước đi, ta thấy bọn chúng đẩy một ông già về phía căn nhà đó với một trái mìn trong tay.”
Tối hôm ấy họ không ngủ. Bà ôm thằng Bilal trong tay và họ khóc thương Shafi. Chồng bà, người đã ở lại Anantnag, về đến nhà vào buổi sáng. Hàng xóm báo cho ông ta biết con trai ông đã bị giết. Ba ngày sau khi Shafi được chôn cất, họ tổ chức buổi lễ tưởng niệm cuối cùng. Theo tục lệ, trong ba ngày, họ không được nấu thức ăn trong nhà; hàng xóm sẽ nấu giùm họ. Vào ngày thứ tư, họ nấu cho hàng xóm và mời vị giáo sĩ làng đến cầu nguyện cho linh hồn Shafi được cứu rỗi. “Ta nấu đồ ăn bằng củi mà Shafi mang về nhà lần cuối,” bà Shameema vừa nói vừa lau nước mắt.
Đứa con trai mười ba tuổi của bà cũng khóc. Bà ôm nó, vỗ về và an ủi. Rồi bà đốt thuốc trong hookah và đưa nó cho thằng nhỏ như thể đó là một ly nước trái cây. Nó rít thuốc như điên và nhìn tôi chằm chằm. Bà Shameema nói với tôi là nó bị chấn thương tâm lý. Nó học cùng trường với Shafi và sẽ chạy ra khỏi lớp học để đứng bên ngoài căn nhà nơi Shafi bị giết mà khóc. Tình trạng của nó ngày càng tệ hơn và nó không chịu đến trường nữa. Rồi nó bắt đầu hút thuốc. “Ta đưa nó đến Aishmuqam, đến điện thờ của Zain Shah Sahib (một vị thánh Sufi địa phương được sùng kính). Nó đã khỏe hơn từ khi ta đến cầu nguyện ở đó. Nhưng mỗi nhắc đến Shafi là nó lại bị kích động. Có người mẹ nào lại đưa hookah cho con trai mình chứ? Nhưng ta phải làm như vậy để thằng bé dịu xuống.”
Sau thời gian để tang, bà Shameema và gia đình lại đương đầu với cuộc sống thường nhật. Bilal trở lại trường học, bà Shameema làm việc nhà và ông Majid chồng bà đón xe buýt mỗi sáng đi bán trái cây khô trong thị trấn. Một tháng sau, một người hàng xóm có học thức nói cho họ biết về khoản tiền bồi thường. Ông Majid và thằng Bilal làm những đơn từ cần thiết và chạy ngược xuôi giữa sở cảnh sát và văn phòng quận để giải quyết việc bồi thường. Từ tháng Sáu năm 2001 Bilal và ông Majid đã có mặt hàng tuần tại văn phòng quận. Những nhân viên sắp xếp các cuộc hẹn này luôn có một câu trả lời quen thuộc: “Quay lại đây vào tuần sau. Chưa đến lượt của ông đâu.” Tuần sau họ lại nghe về một lệnh hủy bồi thường giả. “Tháng trước viên thư ký nói với ông Majid rằng số hồ sơ của gia đình ta là bốn trăm, tuần này hắn lại nói là sáu trăm,” bà Shameema kể cho tôi nghe. “Sao cậu không đi gặp ông Majid? Ông ấy sẽ có mặt ở lề đường trạm xe buýt Achabal ở Anantnag gần một tiệm trái cây. Cậu có thể hỏi bất cứ chủ tiệm nào ở đó và họ sẽ chỉ cho cậu chỗ ông ấy. Ông ấy rành về vụ này hơn.”
Tôi hứa sẽ đi gặp ông ấy rồi ra về. Bà tiễn tôi đến chỗ cánh cổng làm bằng thiếc và gỗ để ra ngoài đường. Bà dừng lại, nhìn tôi chăm chăm với đôi mắt trống rỗng ngấn nước. “Suốt buổi trò chuyện, ta đã muốn nói với cậu một điều,” bà nói. Tôi hy vọng nó không phải là một cơn ác mộng nào khác ập lên gia đình bà. Bà cầm tay tôi và nói, “Cậu không biết con trai ta. Nhưng cậu giống hệt thằng Shafi. Nếu nó còn sống đến hôm nay thì cậu có thể bị nhìn nhầm là anh em sinh đôi với nó.” Tôi không biết phải phản ứng thế nào, rồi ôm lấy bà. Tôi bước thất thểu đến con đường chính. Bên kia đường, tôi thấy một cây chinar cao lớn đu đưa trong cơn gió nhẹ. Dưới bóng cây này, Shafi đã tán gẫu với bạn bè lần cuối cùng.
Tôi thấy một chiếc xe buýt đến gần và vẫy nó. Tôi lên xe, ngả đầu vào thành ghế và nhắm mắt lại. Khoảng một giờ sau, xe buýt đến trạm ở Anantnag, chỗ ông Majid bán đồ ngọt. Bụi đất bay tứ phía, xe buýt và xe hơi nhấn còi liên hồi. Những người bán hàng rong hét lớn giá các món hàng, dân các làng xã ôm những cái túi nylon nhiều màu đựng rau củ chạy lòng vòng tìm xe buýt chạy về các ngôi làng khang trang của họ và một nhóm lính bán quân đội mặt mày ủ rũ trong áo chống đạn đứng trên lề đường, tay ôm súng trường. Ông chủ tiệm trái cây thập thò trên lề đường biết ông Majid. “Tiệm của ông ấy ở đâu vậy?” tôi hỏi thăm. Ông ta mỉm cười và chỉ vào một góc nhỏ xíu bên lề đường giữa tiệm của ông ta và tiệm kế bên. Tôi nhìn thấy một cái giỏ đan bằng liễu đựng đầy seemnih , một thứ mứt màu hồng mà tôi mê thích hồi còn bé, được đặt trên một đống gạch. Người đàn ông tóc bạc với đôi gò má hóp mặc áo pheran màu be gần như bị che khuất sau cái giỏ. Tôi bước đến chỗ ông ấy và hỏi, “Ông là Majid phải không ạ?” Ông đứng dậy trên tấm chiếu cói và hỏi, “Mấy trăm gram, thưa ông?”
Tôi không thể gom đủ dũng khí để quấy rầy thế giới của ông lần nữa. Tôi cuốc bộ đến văn phòng quận để gặp người từng lo việc bồi thường cho những cái chết. Sau một đoạn cuốc bộ ngắn, tôi đã đến trước những cánh cổng của khu văn phòng ở Lal Chowk, một sự bắt chước không mấy sáng tạo trung tâm thành phố Srinagar. Đây chính là trung tâm của thị trấn Anantnag – một khu ngổn ngang nhà cửa, hàng quán, cống rãnh toác hoác đầy rác rưỡi, những người bán hàng rong ồn ào, tiếng còi xe buýt inh ỏi lẫn với tiếng huýt còi của cảnh sát. Về mặt nào đó nó giống những thị trấn nhỏ buồn tẻ ở phía bắc Ấn Độ. Đi qua những trạm kiểm soát và máy dò kim loại, khu văn phòng đó là một dãy tòa nhà giống các doanh trại, có cửa sổ sơn thứ màu xanh ảm đạm chuyên dùng để sơn các tòa nhà chính quyền. Nó là trung tâm quyền lực của địa phương, là đơn vị hành chính được kế thừa từ hệ thống dân sự thuộc địa. Những nhóm thường dân sốt ruột, những luật sư vội vã, các chính khách cấp làng xã, những cụ già lảng vảng xung quanh để tìm người tiếp dân và những tay lính văn phòng đói khát đang lùng sục con mồi để có thêm chút ít tiền vào số lương còm cõi của mình ùa ra những bãi cỏ. Tiếng trao đổi, mặc cả vội vã và náo loạn tràn ngập nơi này.
Bên trong, những tay cần vụ mặc đồng phục hét to tên những người chờ đợi được sắp xếp gặp các nhân viên khác nhau. Tôi đi qua một hành lang tối để gặp một người đàn ông có thể biết về trường hợp của bà Shameema. Tôi quen biết ông này đã nhiều năm. Đống cạc tông rách nát che đậy những bộ hồ sơ nằm trên chiếc bàn gỗ xiêu vẹo của ông. Những bộ hồ sơ giống nhau phủ đầy bụi được chất trên kệ phía sau ghế của ông. Có bốn người nữa ngồi sau những bàn chất đầy hồ sơ tương tự, đang gõ chữ trên những chiếc máy cổ lỗ hiệu Remington. Ông mỉm cười khi thấy tôi nhìn cái máy đánh chữ và những bộ hồ sơ. Ông đã gặp tôi khi tôi còn bé và vừa thích thú lại vừa thất vọng khi biết tôi không phải là một công chức như cha tôi, mà là một người cầm bút quan tâm đến “những người dân thấp cổ bé họng” mà tôi gặp “tình cờ”.
“Việc là thế này, họ phải làm một tờ khai trước tiên ở đồn cảnh sát và xin được giấy của cảnh sát, chứng nhận rằng người bị giết không thuộc nghĩa quân. Nghĩa là họ phải trả từ năm ngàn đến mười ngàn rupee cho viên cảnh sát, bởi nếu không có tiền chúng sẽ không nộp báo cáo. Rồi những hồ sơ đó sẽ được đưa đến ban cứu tế ở văn phòng quận. Chúng ta phải làm những hồ sơ dịch chuyển chứ.” Ông tạm dừng để hút thuốc. “Hồ sơ không tự nó di chuyển từ bàn này qua bàn khác. Hay một người đánh máy cũng không đánh không công một công văn nào. Quan chức cấp trên cũng phải được thuyết phục và chia phần. Mọi việc này đều tốn thời gian và tiền bạc. Trong khoản tiền bồi thường một lakh [47] , thì người đứng đơn phải chịu bỏ ra từ hai mươi lăm đến ba mươi ngàn rupee. Nếu không ông ta sẽ tiêu tốn nhiều năm trời đi tới lui các văn phòng. Và một khi ông ta trả số tiền đó, chúng tôi bảo đảm là tên của ông ta trong danh sách bồi thường sẽ được đưa lên trên và mọi việc được tiến hành nhanh hơn.” Ông nói y như một cái máy.