← Quay lại trang sách

Chương 14 Trong khuôn khổ của Đức tin

Bà Shameena và ông Majid đã mất đứa con trai, giờ đang nhọc nhằn trải qua một loạt thủ tục hành chính chậm đau chậm đớn để tìm việc cho đứa con trai khác của họ, và họ không đủ khả năng chi trả cho việc chữa trị đứa con trai út bị rối loạn tâm lý. Dường như tất cả những gì họ có chỉ là gia đình mình và đức tin. Anh Hussein từ chối lập gia đình sau khi bị tra tấn, thường cầu nguyện để tìm sức mạnh đương đầu với tình thế khó khăn của mình. Cha mẹ tôi tin rằng Thượng Đế đã cứu sống họ và họ đã cầu nguyện nhiều hơn sau khi sống sót qua vụ nổ mìn. Shahid nói với tôi rằng ngay cả các bác sĩ ở bệnh viện tâm thần đông đúc nhất cũng khuyên nên nương dựa vào đức tin. Thượng Đế và các vị thánh của ngài dường như đã trở thành những chuyên gia tâm lý hành nghề ở khắp Kashmir. Đức tin quả là một chỗ dựa không thể thiếu.

Từ xưa đến giờ đã luôn luôn là thế. Trong thời thơ ấu và niên thiếu của mình, tôi không hề có nhận thức về đạo Hồi – nó ở sẵn trong tôi, là một phần cuộc sống chúng tôi, như làng mạc, hàng xóm, gia đình tôi và như những cuốn sách trên kệ của cha tôi. Đền thờ của làng là nơi tôi viếng thăm cùng hầu hết bạn bè vào những ngày thứ Sáu và thỉnh thoảng vào các buổi tối để cầu nguyện. Có một ý thức về cộng đồng, một sự trêu đùa vui vẻ và một sự thư giãn trong những thực hành tôn giáo. Chúng tôi đều là hàng xóm của nhau, cùng đến một tiệm bánh mì, một ông bác sĩ và một tiệm tạp hóa. Đền thờ của chúng tôi là một ngôi nhà hai tầng khiêm tốn cách nhà tôi vài trăm mét, trên bờ một dòng suối nhỏ chảy qua làng. Lũ trẻ con sẽ bơi dưới suối nhiều giờ liền, phụ nữ thì giặt đồ, rửa chén trên bờ và tán gẫu. Khi thầy muezzin [48] gọi cầu nguyện, những người phụ nữ sẽ tìm tấm khăn choàng và đội lên đầu cho đến khi cầu nguyện xong, rồi lại tán chuyện tiếp.

Những tấm chiếu cỏ đan bằng tay mềm oặt đi sau nhiều năm sử dụng, được trải lên nền của đền thờ và vài bóng đèn điện lờ mờ rọi một thứ ánh sáng leo lét lên mấy bức tường màu xanh lá cây đã bạc phếch. Một hốc tường hình vòm ở sảnh cầu nguyện đánh dấu không gian nơi vị imam dẫn dắt lễ cầu nguyện, xoay mặt về phía tây, hướng thánh địa Mecca. Bên cạnh sảnh cầu nguyện là hamaam , một phòng nhỏ nền lát đá vôi được sưởi ấm bằng vài khúc củi đốt dưới tầng hầm. Chú Gul Khan, một nông dân có gương mặt trẻ thơ sống gần ngôi đền và là người gọi nhắc nhở cầu nguyện, thường đến từng nhà để xin tiền đóng góp cho việc giữ gìn đền thờ. Mùa đông, những người đàn ông ngồi trong hamaam và nói chuyện làng, chuyện tôn giáo và chính trị. Đó là nơi ấm áp nhất trong làng.

Vị imam [49] đọc cùng một bài thuyết pháp bằng tiếng Ả Rập mỗi thứ Sáu. Tôi biết tên của các nhà tiên tri Muhammad, Easa (Jesus), Moosa (Moses) và Ibarhim (Abraham) xuất hiện ở đoạn nào, nhưng tôi không bao giờ hiểu nổi bài thuyết pháp nói gì. Chúng tôi luôn đi từ đền thờ về nhà với bà con và bạn bè. Sau buổi lễ cầu nguyện ngày thứ Sáu, theo phong tục thì phải chuẩn bị một ấm trà samovar và tụ tập quanh nó nhiều giờ liền. Trong những cuộc chuyện trò đó, chúng tôi thường kể lại câu chuyện cười về một người dân quê Kashmir đi đến Mecca. Ông ấy ở trong một khách sạn và có một lần người quản lý khách sạn nổi cáu với ông và bắt đầu la hét bằng tiếng Ả Rập. Người đó chỉ biết tiếng Ả Rập như ngôn ngữ của việc cầu nguyện nên đã đáp lại, “Aameen.”

Tôi có thể gắn nhiều gương mặt vào nhân vật dân quê đó. Một nhóm những ông già sẽ ngồi trong gian hamaam ấm cúng, ngủ gà gật. Tôi thường phải nén cười khi thấy họ giật nảy mình ra khỏi cơn mộng mị khi chú Gul Khan thét gọi cầu nguyện. Sau khi cầu nguyện, họ lại đắm mình vào việc tụng niệm darood , những lời ca ngợi Đấng tiên tri và các vị thánh bằng tiếng Kashmir và tiếng Ba Tư, lắc lư người trong khi ngân nga những lời thiêng liêng. Tôi và đám bạn bè không bao giờ nhớ nổi bài darood , nhưng chúng tôi cũng giả bộ làm theo, ngồi bắt chéo chân, lắc lư người và đồng thanh la to “ Ya Allah ” theo các cụ già. Ai trong đền thờ cũng cười khi ông Saifuddin, ông chú của mẹ tôi, đứng lên trong đền sau lễ Eid và nói, “Ôi Thượng Đế! Xin hãy phù hộ cho những người đã kiêng ăn trong suốt tháng Ramadan. Ôi Thượng Đế nhân từ! Xin hãy tha thứ và phù hộ cho những kẻ đã làm ngơ trước những yêu cầu của người và không kiêng ăn trong tháng Ramadan.” Chúng tôi biết ông Saifuddin không bao giờ kiêng ăn và sẽ chuồn ra đằng sau tấm rèm của tiệm ông để ăn vào mỗi buổi trưa trong tháng Ramadan.

Vào cuối những năm tám mươi, một giáo viên cao đẳng cầm đầu một nhóm Salafist hoạt động trong làng tôi và họ đã thành lập một đền thờ riêng. Hầu hết thành viên của nhóm là tầng lớp trung lưu trở xuống, có bằng cao đẳng và công việc bậc thấp trong chính quyền. Họ chống lại nghi thức mà người đạo Hồi đã thực hiện qua bao thế kỷ tại Kashmir – một sự kết hợp giữa truyền thống và sách vở. Không ai trong số họ là học giả Hồi giáo được đào tạo bài bản, mà họ chỉ là những độc giả nhiệt thành của những bài bình luận của người Urdu về kinh Koran và Hadith. Họ muốn làm méo mó truyền thống địa phương được gầy dựng trong quá trình dài chuyển từ đạo Hindu sang đạo Hồi. Thậm chí họ đã trình làng những sự khác biệt về hình thức: họ xắn quần lên trên mắt cá chân khoảng hai, ba phân, để râu quai nón dài ra và cầu nguyện vào những giờ khắc hơi khác một tí trong ngày. Họ cho mình là những người cải cách xã hội, cứu rỗi nông dân khỏi sự sùng bái mù quáng và khỏi sự bóc lột của tầng lớp tu sĩ – những moulvi [50] và pir [51] , những người Bàlamôn theo Hồi giáo. Một người bạn tôi mô tả thế này: “Xe gắn máy của con trai một vị moulvi không chạy bằng xăng. Nó chạy bằng máu của dân làng.” Ngoại tôi, người luôn có cái nhìn khắt khe với các moulvi và pir , đã rời bỏ ngôi đền trong làng tôi và bắt đầu đến cầu nguyện ở đền thờ của những người thức tỉnh đức tin [52] cách đó ba tiếng đi bộ.

Tôi có vài lần đến đền thờ Salafist để cầu nguyện ngày thứ Sáu, nhưng tôi thấy những buổi lễ đó khô khan và nghiêm ngặt. Tôi không thoải mái với không khí căng thẳng, ý thức mộ đạo và sự chắc chắn của họ về việc đang đi đúng đường. Họ khinh khi và khắt khe với những người không quá sùng đạo. Họ tranh luận không ngừng nghỉ về việc phát âm chính xác tiếng Ả Rập và cho rằng việc phát âm sai những trích đoạn kinh Koran và Hadith là một cái tội. Một nỗi ám ảnh khác của họ là về độ dài đúng mực của bộ râu: bảy phân rưỡi hay là mười phân, một nắm tay hay hai nắm tay. Lũ trẻ con trong làng gọi người điều hành nhóm thức tỉnh đức tin là lão Dê.

May thay, Ngoại chẳng bao giờ để cho mối quan hệ giữa ông và người điều hành nhóm đó ảnh hưởng đến những tình bằng hữu của mình. Ông giữ mối liên hệ với những người theo đạo Hồi chống lại nhóm thức tỉnh đức tin và những người bạn theo đạo Hindu. Ngoại vẫn tiếp tục ghé tiệm tạp hóa của ông Somnath và giữ tình bạn với ông Bhaskarnath, người dạy học chung với Ngoại trong nhiều năm. Không giống những nơi khác trong đất nước Ấn Độ các cuộc xung đột giữa đạo Hindu và đạo Hồi đã giết chết hàng trăm người và đẩy những người Ấn Độ theo đạo Hồi vào những khu ổ chuột; ở Kashmir mối quan hệ giữa người đạo Hindu và người đạo Hồi trước nay vẫn hòa bình. Có một sự ý thức về những khác biệt và tương đồng tôn giáo trong quan niệm xử thế. Nhiều người Hồi giáo và người Hindu để riêng các tách và đĩa ở nhà họ cho những người khách thuộc tôn giáo khác.

Nhà chúng tôi không có tách và đĩa riêng. Chúng tôi ăn cùng nhau. Vào khoảng mười tuổi, tôi được dự một đám cưới Hindu của em trai ông Bhaskarnath. Tôi mặc quần tây đen, áo sơ mi carô trắng-đen và vuốt tóc bằng dầu mù tạt. Ông ngoại diện chiếc áo khoác nỉ ưa thích, cạo râu nhẵn nhụi và xức nước hoa Old Spice. Chúng tôi ngồi trong một phòng lót thảm đầy khách khứa. Bữa trưa gồm các món rau và thịt cừu, được phục vụ trong những đĩa thép nhỏ. Nó thật khác biệt so với những bữa tiệc cưới Hồi giáo, nơi bốn người ăn chung trong một cái đĩa đồng tráng thiếc, có rất ít rau củ và những món thịt cừu thì cay hơn và nhiều vô kể. Một người ngồi gần tôi hỏi thăm, “Con chịu ăn ở nhà người Hindu rồi ư?” Một người khác chụp hình rồi sau đó đưa cho chúng tôi vài tấm. Tôi còn một tấm trong album của mình: hình Ngoại đang nói chuyện với ông Bhaskarnath, còn tôi đang cầm một mẩu thức ăn trong tay phải và nhìn chằm chằm vào máy ảnh.

Sau cuộc nổi loạn chống Ấn Độ, tương tự những câu chuyện từ lịch sử nền chính trị ở Kashmir, các nhóm nghĩa quân đã dùng đạo Hồi cho kế hoạch động viên. Họ mượn những hình ảnh về lịch sử Hồi giáo và dùng tràn lan những từ ngữ như “tử vì đạo” và “chiến tranh vì đạo [53] ”. Cho đến năm 1993-1994 các nhóm nghĩa quân Hồi giáo đã thắng thế trong cuộc chiến ly khai và các nhóm người Kashmir theo chủ nghĩa dân tộc như Mặt trận Giải phóng Jammu và Kashmir ủng hộ độc lập, đã đầu hàng và chấp nhận phương thức phản kháng phi bạo động. Pakistan hoàn toàn ủng hộ phương thức đó vì cũng như Ấn Độ, họ luôn kiên quyết chống lại ý tưởng về một nước Kashmir độc lập.

Pakistan quay về phía phe ủng hộ họ từ xưa tại Kashmir: Jamaat-e-Islami ở Jammu và Kashmir, một tổ chức tôn giáo – chính trị cánh hữu, từng có sự hiện diện nhỏ bé ở Kashmir từ đầu những năm 1950. Maulana Sayid Abu Ala Mawdudi, một nhà báo, đã sáng lập tổ chức Jamaat tại Lahore năm 1941; ông hy vọng thiết lập một tiểu bang Hồi giáo bằng việc cải tạo từng cá nhân, để họ luôn trong sạch về đạo đức và triệt để tuân theo các giáo luật của đạo Hồi.

Tổ chức Jamaat đến Kashmir một thập kỷ sau và tìm cách mở rộng ảnh hưởng bằng cách mở trường dạy học, thường xuyên họp mặt các thành viên cốt cán và phân phát vô số tờ rơi và sách in rẻ tiền do ông Mawdudi viết. Họ giữ nguyên quy mô, cung cách hoạt động và đã trưởng thành trong sự tự tin và tham vọng chính trị của mình. Họ ra tranh cử trong những đợt bầu cử tiểu bang vào cuối những năm 1960, với hy vọng rằng việc chỉ trích không ngừng về thất bại của Đảng Hội nghị Quốc gia trong việc tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý tại Kashmir sẽ thu được phiếu bầu dành cho họ. Nhưng họ không bao giờ giành được nhiều hơn ba hay bốn trên tổng số bảy mươi ghế trong quốc hội Kashmir. Mặc dù hầu hết dân Hồi giáo Kashmir không còn ảo tưởng về đất nước Ấn Độ và đã có thiện cảm với Pakistan, họ vẫn không nương tay với tổ chức Jamaat. Năm 1979, khi nhà độc tài người Pakistan Zia-ul-Haq treo cổ thủ tướng theo Đảng Xã hội của Pakistan là ông Zulfikar Ali Bhutto – người rất được dân Hồi giáo Kashmir thích – thì những người ủng hộ tổ chức Jamaat đã bị các băng nhóm ở Kashmir tấn công, còn nhà cửa của họ bị đốt. Ngoại thấy dân làng tức giận ném các bản kinh Koran vào đống lửa trên đường gần nhà chúng tôi. “Ta cố ngăn họ lại nhưng họ không chịu nghe và nói rằng nó là kinh Koran của tổ chức Jamaat-e-Islami.”

Nhưng khoảng đầu những năm chín mươi, tổ chức Jamaat lên tiếng trở lại sau khi phe cánh chiến đấu của nó là nhóm Hizbul Mujahideen được sáng lập. Người của tổ chức Jamaat trở nên đầy quyền lực do ảnh hưởng của họ đối với nghĩa quân đã giúp họ nhận được sự hỗ trợ to lớn từ phía Pakistan và sự khuyến khích Kashmir sáp nhập vào đất nước này. Tôi nhớ đến người dược sĩ thuộc tổ chức Jamaat ở làng tôi. Ông ta từng là một người lặng lẽ và lịch sự, nhưng có điều gì đó đã thay đổi trong khoảng năm 1992. Ông không bước đi bình thường nữa, mà ông đi nghênh ngang. Bạn có thể biết ngay ai là thành viên của Jamaat từ kiểu cách tự tin, đôi mắt sáng rỡ đầy vẻ chắc chắn, phong thái toát ra một sự hiểu biết bí ẩn nào đó và bộ râu quai nón ngắn đúng quy cách. Những ý tưởng của Mawdudi cũng nhận được sự cống hiến gần như sùng bái. Những người thuộc nhiều phe phái khác nhau trên chính trường đã dùng đạo Hồi ở Kashmir cho những mưu cầu chính trị, nhưng không ai nhấn mạnh vị trí của nó trong chính thể Kashmir nhiều như tổ chức Jamaat. Đầu những năm chín mươi, họ tổ chức những cuộc họp thường xuyên gọi là ijtima , nơi người của họ sẽ tìm cách thuyết phục các thanh niên gia nhập nhóm Hizbul Mujahideen.

Tôi nhớ một ngày nọ, tôi đang ngồi trước một cửa tiệm phía ngoài nhà mình thì ông dược sĩ của Jamaat đi ngang qua. Tôi lịch sự chào hỏi ông và ông chụp lấy ngay sự chú ý của tôi, nói chuyện hết sức hồ hởi và chu đáo, hỏi thăm gia đình, việc học hành của tôi, kể lể niềm hy vọng của ông rằng tôi sẽ toàn tâm toàn ý nghiên cứu tôn giáo hay deen [54] . Rồi giọng điệu ông bỗng trở nên bí ẩn như thể ông đang chia sẻ với tôi một bí mật giấu kín. Ông choàng một tay qua vai tôi rồi bảo tôi đi sang một chỗ cách xa đám đông trước tiệm. Ông nói, “Chúng tôi cần những chàng trai giống cậu. Cậu nên đến dự một buổi ijtima .” Nhưng ông không bao giờ phải nung nấu điều đó lần thứ hai sau khi tôi đáp, “Cháu sẽ cùng đến với con trai bác.”

Nhiều người Kashmir cho rằng sự lớn mạnh trong những năm 1990 của nhóm vũ trang tàn bạo Ikhwan-ulMuslimoon (Hội Ái hữu Hồi giáo) là nhờ sự thừa mứa của tổ chức Jamaat và Hizbul Mujahideen. Những người này – thường được biết đến như những Ikhwani – được chính phủ Ấn Độ trang bị vũ khí và cho một đặc quyền: miễn tố trước bất kỳ tội ác nào của họ. Những Ikhwani nắm rõ các nhóm khởi nghĩa ly khai lẫn xã hội Kashmir và sự hiểu biết đó giúp chúng trở thành những người chống khởi nghĩa đắc lực đến tàn nhẫn. Bọn chúng tra tấn và giết người như đội quân Mông Cổ thời hiện đại. Được trang bị khí tài bởi quân đội Ấn Độ, bọn Ikhwani thực hiện các cuộc vây ráp, giết chóc, đả thương và hạch sách bất cứ ai chúng nghĩ là có cảm tình với tổ chức Jamaat hay quân ly khai.

Có một lần tôi gặp con trai của Kuka Parrey, kẻ sáng lập tàn bạo của Ikhwan.

Parrey từng hoạt động phần lớn ở Baramulla. Đến khi tôi gặp con trai Parrey thì nghĩa quân ly khai đã giết chết ông ta. Con trai ông ta kể, Parrey từng là một ca sĩ hát dân ca hạng xoàng, một người ủng hộ phong trào ly khai và tán dương những thanh niên Kashmir vượt qua Đường Kiểm Soát để được huấn luyện vũ trang bằng việc sáng tác và hát một bài mang tên: “Shahzaad lukh Draayih Azad Kashmir” (Các hoàng tử hành quân đến Kashmir tự do!) Con trai Parrey nói với tôi là cha hắn đã hợp tác với quân đội Ấn Độ chỉ sau khi một thành viên Jamaat tát và sỉ nhục ông ta. Parrey và nhóm chống khởi nghĩa của ông ta bị dân Kashmir khinh ghét đến nỗi khi nghĩa quân giết chết ông ta, gia đình đã không đủ cam đảm chôn ông ta trong nghĩa trang của làng. Rời khỏi ngôi nhà giống như pháo đài được canh giữ bởi đám lính bán quân đội có vũ trang của Parrey, tôi nhìn thấy một khoảng đất có hàng rào sắt bao quanh ở một góc đằng xa trên thảm cỏ – đó là mộ của Parrey. Con trai ông ta kể rằng gã đàn ông thuộc nhóm Jamaat, người khiến Parrey trở thành quân chống khởi nghĩa, đã đảo ngũ và làm mật thám cho lực lượng bán quân đội.

Sau thập niên chín mươi, tổ chức Jamaat tìm cách tách khỏi các nhóm nghĩa quân, một phần vì hàng trăm thành viên của nó đã bị bắt và giết chết bởi quân đội Ấn và bị chết nhiều hơn nữa trong chiến dịch của quân chống khởi nghĩa Ikhwan. Tổ chức Jamaat tiếp tục là một nhóm thiểu số ở Kashmir. Nếu nó lại tranh cử tại Kashmir, tôi e rằng nó sẽ không tìm được một người ủng hộ nào ngoài những người ủng hộ nó từ trước, cũng không thể nào giành được nhiều hơn ba ghế như nó đã làm được vào những năm 1960.

Phần lớn tín đồ Hồi giáo Kashmir vẫn tiếp tục theo đạo Hồi không chính thống. Thực ra xã hội Kashmir đã thoáng hơn trong một thập kỷ rưỡi vừa qua. Hàng ngàn trai gái Kashmir đã ra đi vào đầu những năm chín mươi để theo học tại những thành phố và thị trấn của Ấn Độ hoặc tại các trường đại học ở Bắc Mỹ, châu Âu và Nga. Tôi là một trong số đó. Bạn bè tôi cũng là một phần của làn sóng. Hầu hết chúng tôi quay về Kashmir trong tư thế những người được đào tạo bài bản và những chuyến du hành dài đã làm thay đổi chúng tôi. Trong khi chúng tôi ra đi, một cuộc cách mạng khác đã nổi lên khắp vùng Nam Á, kể cả Kashmir, đó là truyền hình cáp. Trong suốt cuộc xung đột, khi phương tiện vận chuyển bị cắt giảm và người Kashmir phải ở trong nhà, họ đã xem hàng ngàn giờ tivi – phần lớn là các bộ phim Bollywood, những chương trình múa hát và tin tức. Sự phổ cập của Internet cũng làm xã hội “mở cửa”.

Đã có ít nhiều nỗ lực trong việc áp đặt các quy tắc đạo Hồi kiểu Saudi ở Kashmir, mặc dù việc này luôn thất bại. Trong một xã hội chủ yếu làm nông của Kashmir, đàn ông và phụ nữ cùng làm việc với nhau trên đồng và trong vườn và mặc dù phụ nữ vẫn đội khăn che đầu, cái ý tưởng về mạng che mặt không bao giờ thực sự được hưởng ứng. Thậm chí trong môi trường ngoài nông nghiệp và vùng thành thị như trường học, văn phòng và trường đại học, chỉ một số nhỏ phụ nữ Kashmir chọn đeo mạng. Đã có cố gắng không thành trong việc bắt phụ nữ đeo mạng che mặt, đặc biệt là của nhóm phụ nữ Hồi giáo khắt khe Dukhtaran-e-Millat (Những cô con gái của Cộng đồng Hồi giáo), cầm đầu là bà Asiya Andrabi, người không được biết đến bởi chuyện nào khác hơn. Tôi đã không nghe nói về bà ấy trong hơn một thập kỷ. Rồi một ngày hè năm 2004 bà xuất hiện trở lại trong cộng đồng. Tôi đến quán cà phê internet ưa thích của mình ở Lal Chowk. Người quản lý có vẻ chán nản và cam chịu. Cửa của hầu hết các phòng gỗ đã bị giật ra khỏi bản lề. “Asiya Andrabi và mấy mụ đàn bà của bà ta đã ở đây,” ông nói.

Bà ta và những người hoạt động của mình đã bắt đầu quấy nhiễu những cặp bồ bịch trẻ đang tranh thủ tình cảm một tí trong quán cà phê Internet hoặc đang ăn trưa trong các nhà hàng đèn mờ. Trong những tấm hình trên báo, bà Andrabi trông như một Zorro [55] nữ, một phụ nữ che mạng giương cao nắm tay đeo găng trắng. Mãi sau này tôi mới tìm cách gặp bà tại nhà riêng của bà ở Srinagar. Bà cao chưa được đến một mét tư và từ đầu đến chân trùm kín trong tấm mạng đặc trưng của mình. Bà kể với tôi là bà trở thành một tín đồ cải đạo theo Hồi giáo vào năm 1986, khoảng thời gian bà cảm thấy trầm cảm và bị cản trở vì gia đình cấm bà không được học cao học ngành hóa sinh ở Pune. Tham vọng không được thỏa mãn quả là một thứ nguy hiểm.

Bà bắt đầu hoạt động tích cực ngay sau khi ra trường vào năm 1987, bằng việc xóa hình những nữ diễn viên Bollywood trên các tấm poster được dựng lên hàng tuần ở Srinagar và đâu đó trong thung lũng. Bà cũng vận động để phụ nữ có băng ghế riêng trên những chiếc xe buýt đông nghẹt người. Sau đó, bà tham gia vào chương trình nghiên cứu Ả Rập và Hồi giáo tại Đại học Kashmir. Bà nói về gia đình gia giáo và trung lưu lớp trên của mình. Thật sự là, tôi đã choáng ngợp với hàng trăm quyển sách, kể cả sách của Noam Chomsky, Edward Said và bản copy cuốn Bhagavad Gita trên nhiều kệ sách trong phòng khách của bà. Đầu những năm chín mươi, bà Andrabi đã kết hôn với chỉ huy của nhóm Hizbul Mujahideen, người đã bị cầm tù nhiều năm ròng. Bà cho rằng việc lập gia đình với người theo nghĩa quân là một vinh dự, bất chấp những khó khăn kèm theo nó, và đã đặt tên cho con trai mình là Mohammed bin Qasim, theo tên của một vị tướng Ả Rập thời trung cổ đã xâm chiếm Ấn Độ. Khi chúng tôi trò chuyện vào trưa hôm ấy, bà Andrabi cằn nhằn về sự phổ biến của truyền hình cáp và thừa nhận là có rất ít phụ nữ Kashmir theo bà.

Những cách áp dụng khắt khe đạo Hồi tiếp tục thất bại ở Kashmir. Trong một lần về thăm quê, một đứa em họ kể cho tôi nghe về thằng con trai lớn của một ông thầy từng là lãnh đạo một nhóm Salafist tại làng tôi từ khi tôi còn nhỏ. Thằng bé đó học chung với em họ tôi. Ai cũng biết việc người ta nuôi dạy con cái theo kiểu khắt khe là như thế nào. Trong nhiều năm trời, bọn trẻ đã vâng lời, nhưng khi trưởng thành, chúng sẽ nổi loạn. “Nó làm trò hề trong trường. Nó đuổi theo tụi con gái, phóng xe như điên và tụi em gọi nó là Cầu vồng,” thằng em họ tôi nói vậy. Tôi thắc mắc cái tên đó và hỏi nó nghĩa là gì. “Nó nhuộm tóc mỗi tuần một màu khác nhau. Ngày thì tóc nó đen, ngày khác thì đỏ hay xanh lá cây.”

Tôi còn nhớ, khi tôi còn nhỏ, cha thằng bé và nhóm của ông ta đã vận động chống lại việc cầu nguyện ở đền thờ. Họ nghĩ rằng việc biến các vị thánh thành trung gian giữa đấng tạo hóa và tạo vật là phi Hồi giáo. Họ bị toàn bộ dân làng phản đối đến mức phải trốn vào nhà của bạn bè vì sợ một băng nhóm nào đó sẽ thanh toán họ. Điều mà ông thầy nhóm Salafist và đội quân của ông ta dường như không hiểu là tầm quan trọng về xã hội và văn hóa của đền thờ trong đời sống của người Kashmir. Chúng không đơn thuần là trung tâm tín ngưỡng mà còn là một nơi hội hè, một không gian dành cho những cuộc họp mặt cộng đồng, những kỳ lễ lạt và cho việc kinh doanh.

Đền thờ gần nhà tôi nhất nằm trong làng Aishmuqam, gần trường cũ của tôi. Một buổi trưa đầu tháng Tư tôi lên xe buýt đến Aishmuqam. Một người bạn của gia đình tôi, ông Kallu, bán vải trong cái chợ nhỏ gần trạm xe buýt. Con đường từ chợ đến làng trải rộng trước khoảng đất trống của con dốc dẫn đến đền thờ trên đỉnh đồi.

Trước khi bắt đầu cuốc bộ, tôi thấy ông Kallu ngồi trên cái bục trong tiệm, mặc áo khoác kiểu Nehru trang nhã và đội mũ kiểu Jinnah. “Mày ở đâu trong suốt thời gian qua thế?” ông ấy hỏi thăm. Giọng cao vút của ông ấy nghe thật vững dạ. Hai răng cửa của ông đã rụng, khuôn mặt ông nhăn nheo. Tôi tóm tắt những phần chính của khoảng thời gian tôi vắng mặt: cao đẳng, đại học và nghề báo chí. “Vậy còn chuyện vợ con thì sao?” Ai cũng hỏi bạn câu đó, dù là người thân trong gia đình, bà con hay người quen. Chị Razia con gái và anh Altaf con trai ông đều đã lập gia đình và đang điều hành một trường học. Riêng việc kinh doanh của ông thì không được tốt từ khi xảy ra cuộc chiến. “Nhưng cũng cảm ơn Thượng Đế là mọi người trong gia đình đều an toàn. Vào thời điểm này, mỗi ngày đều là một món quà.” Hai người đàn ông ngồi cạnh tôi trên chiếc ghế gỗ trong tiệm gật gù đồng ý. “Không có gì bảo đảm hết,” một người nói.

“Sáng nay toán lính tuần tra đã giết chết một thằng bé làng Pulwama. Xác của nó đang nằm trong đồn cảnh sát,” ông Kallul nói. “Một viên cảnh sát đến đây mua vải liệm cho nó. Bọn quân đội nói nó là người của nghĩa quân. Nhưng ai mà biết chắc được?” Rồi ông quay về hướng đền thờ trên đỉnh đồi và giơ hai tay lên cầu nguyện. “Ôi! Thánh Zainuddin ơi! Xin hãy làm người hòa giải với Đấng tối cao! Hãy cầu xin Ngài thương xót những con người này!”

Vì muốn làm nhẹ bớt bầu không khí đó, tôi nhắc ông một chuyện cũ từng làm ông cười. Một trong những cái tên mà người Hồi giáo dùng cho Thượng Đế là Noor (Ánh sáng thiêng liêng). Một giáo sĩ già với gương mặt hồng hào và bộ râu trắng toát ở đền thờ của làng Aishmuqam cũng được gọi là Noor. Khi còn bé, tôi được đi theo Ngoại và ông Kallu đến làm lễ cầu nguyện ngày thứ Sáu ở ngôi đền lộng lẫy đó. Mớ kiến thức nhỏ nhặt về tôn giáo dạy tôi rằng đền thờ là nhà của Thượng Đế. Noor đang thuyết pháp. Tôi tưởng ông là Thượng Đế. Sau buổi cầu kinh, tôi thấy Noor đi cùng một con đường với mình. Quá đỗi ngạc nhiên, tôi hỏi ông Kallu, “Tại sao Thượng Đế lại đi cùng đường với chúng ta?”

“Lúc đó cháu chừng sáu tuổi thôi. Đó là những ngày rất hạnh phúc. Ta với ông ngoại của cháu kể chuyện đó cho bạn bè nghe, còn ông Noor tội nghiệp thì rất xấu hổ.” Ông ấy mỉm cười và nói, “‘Thượng Đế’ đó của cháu đã chết rồi.”

Allah-o-Akbar! Ashadu An la ilaha illalah! (Thượng Đế vĩ đại! Không có Thượng Đế nào khác, ngoài Ngài!)

Tiếng gọi nhắc nhở tín đồ cầu nguyện buổi trưa lan xuống như làn sương từ trên đền thờ phủ lên những mái nhà tôn lô nhô trên đồi. Mùi bánh mì mới ra lò đựng trong các chiếc giỏ đan bằng liễu gai của tiệm bánh và mùi những bọc gia vị đặt trước các cửa tiệm vây lấy tôi khi tôi leo lên những bậc thang bằng đá dẫn đến đền thờ. Mỗi khi xuân về người ta lại tụ tập ở đây để dự một hội chợ thường niên ăn mừng hết đông và bắt đầu mùa gieo trồng mới. Hàng trăm người đàn ông, đàn bà và trẻ em sẽ cùng đốt những bó đuốc (những nhánh thông khô cột vào một cành dương liễu) và khiêm nhường đứng gần tường bao giống như pháo đài và trong cái sân lát đá cuội của đền thờ. Cổng vòm bằng gỗ của đền thờ được khắc chữ văn hoa. Những cửa sổ lưới mắt cáo và mái nhà màu xanh có hình dáng như của một ngôi tháp được chống đỡ bởi các cột trang trí và trên đỉnh được phủ một chóp đồng rực sáng trong ánh lửa vàng của những bó đuốc.

Nhiều năm sau, các tín đồ vẫn đứng chật cả sân lát đá cuội. Tôi dựa người vào bức tường bao thấp, ngắm nhìn dòng suối Lidder chảy xiết, nhìn những dải vàng rực màu hoa mù tạt, những mái nhà và ngôi làng bị thu nhỏ bởi khoảng cách và đường cánh cung màu nâu sẫm của dãy Himalaya. Đức Phật đã nghĩ Kashmir là địa điểm lý tưởng cho sự thiền định. Mỗi ngọn đồi nhỏ đều có một đền thờ và mỗi dòng suối đều có một thánh thất. Việc làm tín đồ ở đây dường như thật dễ. Tôi quay người vào sân và xem ông thợ hớt tóc râu ria lởm chởm đang mài chiếc dao cạo vào đá. Một đôi thanh niên và một phụ nữ lớn tuổi đang bồng một đứa bé cũng quan sát ông. Người phụ nữ giúp ông thợ tóc cột một miếng vải cotton trắng quanh cổ đứa bé. Lần cắt tóc đầu tiên của đứa bé, theo truyền thống của đạo Hồi ở Kashmir, phải được tiến hành tại một đền thờ. Ông thợ hớt tóc thoa lên mái tóc màu nâu nhạt thứ nước ấm đựng trong một tô nhôm.

Đứa bé khóc ré lên, người phụ nữ dỗ dành cho nó im lặng và đôi cha mẹ trẻ thì bồn chồn. Ông thợ cạo sạch tóc của đứa bé. Người cha bỏ những mớ tóc đó vào một chiếc khăn tay. Người mẹ mang một thau đầy tehr – thứ gạo tẩm gia vị có màu nghệ – và chia cho những người đã chúc phúc cho đứa bé.

Tôi đi theo gia đình đó vào trong đền thờ. Những người coi sóc đền thờ – những baba – ngồi trên bục gỗ đằng sau các khay đồng đựng đầy tiền xu. Gia đình đó hào phóng cúng tiền, đặt một hoặc hai tờ lên khay của mỗi baba . Tất cả baba đều chúc phúc cho đứa bé. Bên trong đền thờ là một cái hang cổ xưa với những cải biến hiện đại. Nhiều phụ nữ mặc áo hoa rực rỡ cầu nguyện ở một bên bệ đá cẩm thạch óng ánh xanh và một số baba khác nhận tiền cúng ở phía bên kia. Một cột đá vững chãi chống đỡ nóc hang. Một baba đang ngồi đó la to, “Nó là cột Mehboob-e-Alam. Người nào dựa vào nó thì được giải tỏa hết những rắc rối của mình. Cúng một ít vào đây và dựa vào cái cột kia, chàng thanh niên ơi. Những lo lắng của cậu sẽ biến mất.”

Tôi bước về cuối hang, nơi có một hốc thấp và hẹp dẫn vào căn phòng bé xíu nơi vị thánh từng cầu nguyện. Một ông cụ bước ra khỏi hốc đó và hai cô gái trẻ theo sau ông. Họ gập lưng lại và bước lùi ra. Người mộ đạo không quay lưng về phía vị thánh. Một ngọn đèn bằng đất nung được thắp gần cái hốc. Các tín đồ nhúng ngón tay của họ vào một ô đá hình lòng bàn tay chứa đầy dầu rồi xoa lên trán mình. “Nó sẽ chữa lành mọi bệnh tật và giải quyết mọi rắc rối của quý vị,” một baba đầu vấn khăn nói lanh lảnh. Tôi bò vào căn phòng của ông thánh. Một mảnh lụa xanh phủ lên mộ của ngài. Tám vị tín đồ đứng thành hai hàng hướng về ngôi mộ. Một baba cầu kinh một lúc rồi đi từ tín đồ này sang tín đồ kia với cái khay đồng của mình. “Để những tờ tiền vào khay, vị thánh sẽ lo cho quý vị.” Tôi ra về với một chút thất vọng về sự lấn lướt của sự thương mại hóa đối với vẻ cô tịch và trang nhã ở đây.

Khi đang bước xuống các bậc thang để đến trạm xe buýt, tôi nghe tiếng ai đó gọi. Khuôn mặt của người đàn ông thấp và gầy đó có vẻ quen quen. “Ta học chung trường. Tôi là Mubashir.” Anh ấy bán dược phẩm ở gần đây. Tôi ngồi trên một băng ghế gỗ sần sùi đối diện với chiếc bàn gỗ trống trơn, anh ngồi trên một cái ghế nhựa. Thuốc bao tử loại thường, xirô giảm ho và những gói giấy đựng thuốc viên chữa các bệnh lặt vặt nằm trên các kệ gỗ thô sơ dọc theo bức tường trát bùn. Giấy hoa dán tường phủ cái trần bằng rầm gỗ và cái bóng đèn lờ mờ làm cho cửa tiệm trông vàng vọt hẳn đi. Mubashir bỏ đi lấy trà. Tôi ngắm anh băng qua đường, anh đi cà nhắc. Khi anh quay lại, chúng tôi trò chuyện về cuộc sống của mình sau khi ra trường và Mubashir nói với tôi là anh không học hết cao đẳng.

Cha của Mubashir bị bệnh vào mùa đông năm 1997.

Bệnh viện địa phương lại đóng cửa. Chàng trai mười chín tuổi chạy đến tiệm thuốc gần cửa tiệm của ông Kallu. Khi anh chờ đến lượt mình thì thấy một tên trong nhóm chống khởi nghĩa Ikhwani đi về hướng tiệm thuốc. Mubashir cảm thấy bồn chồn khi thấy tên Ikhwani lảng vảng xung quanh mình. “Tôi tự hỏi ai sẽ gặp rắc rối đây.” Quân ly khai rất ghét Ikhwani và chắc chắn sẽ có một cuộc đụng độ nhỏ. Mubashir chỉ muốn lấy thuốc cho cha mình rồi đi về nhà.

Hàng người nhích lên chậm chạp. Tên Ikhwani đứng gần Mubashir, nhìn ngó quanh quất, nói vài câu xã giao và tung hứng một quả lựu đạn như tung một trái banh cricket. Mubashir hét to, bảo ông bán thuốc tây làm nhanh hơn. Không có gì xảy ra. Anh ấy vẫn chờ. Rồi anh nghe một tiếng nổ và mọi thứ tối đen. Sáu tiếng sau anh hồi tỉnh trên giường bệnh viện ở Srinagar. Quả lựu đạn đã tuột khỏi tay tên phản bội, rơi xuống mặt đường kim loại và phát nổ. Tên phản bội chết tại chỗ. Nhiều mảnh đạn xuyên vào chân Mubashir. Các bác sĩ đã mổ và chăm sóc cho anh trong ba tháng. Anh về nhà trên chiếc xe lăn và sau hai năm thì bỏ xe để chống gậy. Việc chữa trị cho anh hao tốn cả một gia tài. Cha anh đã nghỉ hưu một vị trí công chức cấp thấp. Anh Mubashir phải chu cấp cho gia đình mình. Bằng cấp của anh không đảm bảo được một công việc, mà anh lại không quen ai có chức tước. Thế nên anh bỏ học và mở tiệm thuốc, cũng kiếm được chút tiền. Ngày ngày anh ngồi trên chiếc ghế nhựa màu xanh đằng sau cái bàn gỗ trống trơ, chờ bệnh nhân đến mua thuốc và mơ đến những gì lẽ ra anh đã có thể có.

Tôi rời tiệm của anh và bắt đầu đi xuống trạm xe buýt. Anh đi với tôi, lê chân qua các bậc thang bằng đá cuội. Tôi ngăn anh lại. Anh dừng, quay lưng lại và nói, “Basharat à! Điều này thật khó nói, nhưng mà cậu giúp tôi tìm một công việc được không? Giúp tôi ra khỏi cái địa ngục này.” Thật không dễ gì trả lời câu hỏi này. Nhưng tôi thấy có một niềm hy vọng, đó là việc học tập. “Tôi sẽ hỏi thăm bạn bè tôi, nhưng anh phải học xong cao đẳng đã. Không có bằng cấp thì không có hy vọng gì đâu.”

Anh đồng ý. “Tôi sẽ gọi điện cho anh khi tôi có tấm bằng trong tay. Với sự phù hộ của thánh Zain Shah, chắc sẽ có điều gì đó giải quyết được”. Đôi mắt anh lóe lên một tia hy vọng mỏng manh. Chúng tôi chia tay nhau. Những lời nói của anh theo tôi về đến nhà. Tôi nghĩ mãi về sự vô vọng, về sự bám víu vào đức tin của anh.

Dường như con người ta cần đức tin, cần những phép màu. Một tuần sau, tôi ngồi trong nhà mình ở Srinagar, nói chuyện với một người bạn thi sĩ, người làm ra tiền bằng việc sản xuất những chương trình trả tiền cho đài truyền hình của bang. Anh ấy nói, “Thời bây giờ, đức tin đã trở thành thứ chống đỡ cho những kẻ giàu có, người nổi tiếng và người nghèo vô danh. Người ta không còn hy vọng vào chính phủ hay bất kỳ một chính khách nào. Họ quay sang các đền thờ, Đấng tiên tri và Thượng Đế.” Anh kể cho tôi nghe về một trong số các nhà thơ nổi bật nhất của Kashmir, giáo sư Rashid Nazki, người đã đắm mình vào đức tin sau một bi kịch cá nhân trong khoảng giữa những năm chín mươi. “Ông ta rời bỏ cuộc sống ồn ào và lui về sống tại ngôi làng của tổ tiên ở Bandipora,” anh bạn tôi nói.

Thị trấn nhỏ Bandipora cách Srinagar khoảng một trăm kilômét, trong quận Baramulla ở phía bắc Kashmir, gần Đường Kiểm Soát. Một buổi sáng, tôi đón taxi buýt đi từ Srinagar đến Bandipora. Đi khỏi Srinagar khoảng nửa tiếng, con đường dẫn đến Bandipora chạy men theo dòng Jhelum nhiều dặm khi con sông chảy lên hướng bắc, ngang qua Pakistan rồi đến biển Ả Rập. Những nhành dương liễu đan vào nhau tạo thành bóng mát cho đến khi con đường chạy lên một vùng cao nguyên bị quân đội chiếm đóng.

Đăm đắm nhìn qua cửa sổ taxi bên tay phải của mình, tôi bị hút hồn bởi khung cảnh của một cái hồ. “Đó là hồ Manasbal,” một người đi cùng nói với tôi. Trên mặt hồ xanh ngắt, hai chiếc shikara màu vàng đang lướt đi thanh thoát. Con đường lại chạy về hướng những ngọn đồi ở đằng xa. Chúng tôi chạy ngang qua các vườn táo và hạnh nhân cùng với những nóc nhà bằng tôn lấp lánh. Trong làng, có một cái biển vẽ tay thông báo:

HIỆU LÀM ĐẸP MUSKAAN, CHĂM SÓC DA, MÁT-XA VÀ CẮT TÓC.

Trên băng ghế phía sau tôi là một gia đình có hai đứa con hiếu động. Người mẹ bảo chúng xử sự đúng mực. Do quá phấn khích bởi làn gió nhẹ thổi qua cửa sổ xe, mấy thằng bé bỗng dưng đọc một bài thơ nói về ánh sáng và làn gió lạnh.

Một trạm kiểm soát xuất hiện chứng tỏ đã đến Bandipora. Một chiếc xe bọc thép đậu gần đó và hàng tá lính đứng dọc con đường. Chiếc taxi dừng lại. Mấy bé trai trên ghế sau la hét, “Dishkiaon, Dishkiaon”. Chúng nó cong tay, giả làm súng. Chúng nhại các hiệu ứng âm thanh đi kèm với tiếng súng trong hầu hết phim tiếng Hindi. Cái chợ ngay trung tâm thị trấn rất đông đúc, nhưng không dơ dáy như chợ ở các thị trấn nhỏ khác ở Kashmir. Lính Ấn Độ là những kẻ ngoại đạo duy nhất người ta có thể thấy. Cho đến tận những năm 1930, nếu bạn đi lòng vòng trong một cái chợ, thì cứ mỗi bốn người bạn gặp sẽ có một người đến từ một thành phố trung cổ nổi tiếng nào đó ở Trung Á. Chuyến hành trình từ Bandipora đến các thành phố Trung Á mất đến vài tuần, ngay cả bằng những phương tiện thời trung cổ như ngựa và la. Sự giao thoa văn hóa giữa Kashmir với những thành phố Samarkand, Bokhara và Kashgar rất phong phú và mạnh mẽ.

Nhà thơ Rashid Nazki sống trong căn nhà một tầng có cây tuyết tùng bên ngoài. Một thằng bé dẫn tôi vào. Nhà thơ rúm người dưới tấm khăn choàng trong một căn phòng nhỏ. Ông có đôi mắt đen sâu, sáng rực trên khuôn mặt hóp và giống như bức tượng. “Chắc hẳn cậu đến từ Srinagar,” ông nói, đẩy một tấm đệm về phía tôi. Mời khách tấm đệm để tựa lưng thay vì để họ dựa vào bức tường trống là một cử chỉ bày tỏ sự kính trọng theo tập quán địa phương. Ông duỗi chân ra rồi lại dựa vào tấm đệm, rít điếu thuốc lá trên những ngón tay mảnh khảnh, run rẩy. “Tôi là một ông già sống cách biệt với thế giới bên ngoài. Điều gì đã mang cậu đến đây?” Bạn tôi đã giới thiệu tôi là một nhà báo, và nhà thơ cũng chờ đợi một cuộc phỏng vấn về suy nghĩ của ông đối với cuộc xung đột ở Kashmir.

Ông vừa ngạc nhiên lại vừa nhẹ nhõm vì tôi đã không có câu hỏi nào như vậy cho ông. “Ở những thời điểm khó khăn thế này, các nhà báo thường hỏi những câu người ta biết nhưng không dám trả lời,” ông nói có phần bực dọc. “Tôi chỉ muốn được gặp ông thôi,” tôi nói. Một cậu thiếu niên đi vào và hỏi ông dùng bữa trưa hay không. “Cậu sẽ ăn trưa với tôi,” ông ra lệnh. Rồi ông lấy tờ một trăm rupee trong túi quần đưa cho cậu. “Mua thịt cừu rồi nói mẹ con chiên lên. Ông khách này sẽ ăn cơm với ta.” Ông nói với tôi, “Nó là cháu ngoại tôi.” Rồi ông bảo tôi kể về những chuyến đi. Tôi kể chuyện, còn ông nhận xét, hút thuốc, rồi nhận xét và hút thuốc. Thức ăn được mang đến: cơm, thịt cừu và đậu. Nhà thơ chất lên đĩa của tôi đầy thịt cừu. “Tôi sẽ ăn chừng đó trong hai ngày,” tôi vùng vằng. “Cậu là thanh niên và cậu cần phải ăn”, ông ấy khăng khăng.

Sau bữa trưa, chúng tôi trò chuyện về thơ ca. “Ông nghĩ gì về thơ ca được viết ở Kashmir sau khi có cuộc xung đột?” tôi hỏi ông. “Thơ được sáng tác nhiều lắm. Thế hệ trẻ hơn nói về cuộc xung đột một cách thẳng thắn. Có một số bài khá hay. Viết bằng tiếng Anh thì có tác phẩm của Agha Shahid Ali,” ông ấy khăng khăng.

“À đúng rồi. Tôi thích thơ anh ta lắm,” tôi tán thành.

Giáo sư Nazki lại im lặng. “Cậu ấy là một chàng trai khá hay. Khi chúng tôi ở nhà cậu, Shahid hay bước đi như một người say rượu. Cha của cậu là bạn tôi và có một lần tôi nói với ông ấy là Shahid không được khỏe. Nhưng ông ấy tin rằng đó chỉ là cách các nhà thơ sống mà thôi. Không bao lâu sau, người ta phát hiện ra tế bào ung thư trong cậu. Cái chết của cậu là một mất mát to lớn. Kashmir cần có những nhà thơ như cậu ấy, nhưng liệu ai có thể né tránh được cái chết?” Nhà thơ già ngồi thẳng người lên. “Shahid tuy làm thơ về chính trị nhưng không thỏa hiệp về mặt kỹ thuật. Hầu hết thơ ca chính trị đều trống rỗng. Chất luận chiến còn thì thơ ca chết.”

Tôi hỏi về thơ của ông. Những bài thơ có tính chất huyền bí của ông đã đoạt nhiều giải thưởng khác nhau. Tôi hỏi ông có bài nào được dịch sang tiếng Anh không. “Có, chúng đã được dịch sang tiếng Urdu. Người nào đó ở Delhi đã dịch thơ ta sang tiếng Anh. Người dịch không bao giờ hỏi xin phép ta, thậm chí cậu ta cũng chẳng thèm gửi cho ta một bản copy.” Ông đã không viết nhiều kể từ năm 1990. “Ta đã mất nửa gia đình mình trong một vụ nổ lựu đạn và đã ngưng làm thơ sau đó.” Tôi rất sợ cái giây phút này và cúi đầu trong im lặng. Nhà thơ tường thuật lại chuyện của mình bằng một giọng điềm tĩnh.

Một buổi chiều năm 1990, khi ông đang dạy tại trường Đại học Kashmir thì có tin báo rằng một trái bom đã phát nổ gần nhà ông. Ông lao thẳng từ trường đại học về Bandipora. Sáng hôm ấy, một người nghĩa quân lảng vảng trên con ngõ cạnh nhà ông, dự tính sẽ ném một trái lựu đạn vào toán lính đang đi ngang qua. Sợ bọn lính trả đũa, hai người con trai của nhà thơ đi ra, thuyết phục người đó ném trái lựu đạn ở môt nơi xa khu dân cư. Anh ta rất kiên quyết và họ cũng vậy. Rồi mẹ của họ cũng tham gia vào câu chuyện. Trong lúc tranh cãi, người ta vung tay chỉ trỏ để thuyết phục theo cách của người Kashmir và người nghĩa quân đó đã vô tình làm bật chốt nổ trái lựu đạn. Khi nhà thơ về đến nhà thì vụ nổ đã giết chết tay nghĩa quân, hai người con trai và vợ của ông. “Ta rơi vào trạng thái mê man trong tám năm sau đó. Ta không thể viết nổi một dòng thơ. Mỗi lần cầm bút lên, mấy ngón tay ta run lẩy bẩy.” Không có tòa án nào dành cho nỗi mất mát của ông. “Ta than với Đấng tiên tri Muhammad. Ta gửi những lời cầu nguyện và than vãn của mình đến tòa án của người.” Ông đã vượt qua sự mất mát bằng tình yêu dành cho Đấng tiên tri. “Ta dành thời gian cho việc dịch một cuốn tiểu sử.” Ông sống động trở lại, mắt ông sáng rỡ khi ông nói về công việc của mình. “Cậu sẽ cảm nhận được hơi thở của Đấng tiên tri khi cậu đọc cuốn sách này. Ta đã tận hưởng dòng ý thức ấy.” Tôi còn nhớ một trong những câu thơ của ông:

Tôi hỏi vị tu sĩ ngồi trên vỉa hè

Từ đây đến thế giới bao xa?

Nooruddin Rishi là vị thánh bảo hộ của Kashmir. Ông được dẫn dắt bởi Lalleshwari, một phụ nữ Bàlamôn, người sau khi chịu quá nhiều đau khổ dưới bàn tay sắt của gia đình chồng đã nổi loạn và trở thành một người bí ẩn, rao giảng về sự độc hữu của Thượng Đế và phản bác hệ thống đẳng cấp xưa cũ của Ấn Độ. Khi còn bé, ông Nooruddin đã được gửi đến một mullah, nhưng ông không chịu đọc cái gì khác ngoài chữ cái Ả Rập đầu tiên là chữ Alif (Một). Thầy của ông hỏi vì sao, ông đáp, “Chỉ có một Thượng Đế mà thôi và tôi không cần biết gì ngoài Alif.” Thời tuổi trẻ, ông đã chối bỏ thế giới và cầu nguyện trong một hang động suốt mười hai năm. Thỉnh thoảng sau thời gian tu hành trong hang động của mình, ông Nooruddin đã gặp Mir Mohammed Hamdani, một vị thánh Sufi người Iran. Mohammed là con trai của nhà học giả Sufi vĩ đại Syed Mir Ali, người đến Kashmir vào thế kỷ mười bốn và đã thu hút người Kashmir đến với Hồi giáo và được biết đến rộng rãi với cái tên Shah-eHamadan (Vua của Hamadan). Trước khi trở về và chết ở Khatlan, một thị trấn Trung Á, Shah Hamadan đã thuyết phục được đứa con trai nhỏ của mình là Mohammed đi vòng quanh thế giới để học hỏi. Sau nhiều cuộc hành trình, chàng trai trẻ đã đến Kashmir và tiếp tục sứ mạng cũng như công việc của một học giả như cha mình.

Mohammed Hamdani đã dạy cho Nooruddin Rishi những giáo lý phức tạp của đạo Hồi và về cuộc đời của đấng tiên tri Muhammad. Những cuộc đàm luận của hai người đã thuyết phục Nooruddin tập trung vào cải cách xã hội thay vì từ bỏ nó. Ông đã đi khắp Kashmir, trò chuyện với mọi người bằng tiếng nói của họ. Sự diễn giải của ông về đạo Hồi đã bám được vào các phong tục địa phương và nền văn hóa của họ, nên dân chúng hiểu ông dễ dàng hơn hiểu những người Sufi gốc Iran và gốc Trung Á, những người đã đưa đạo Hồi đến Kashmir. Ông chỉ trích những tu sĩ Hồi giáo chính thống và Bàlamôn đã hạ thấp tôn giáo thành những nghi thức rỗng tuếch, biến nó thành cách tự đề cao bản thân và tạo ra sự thù ghét lẫn nhau giữa những người theo đạo Hindu và đạo Hồi:

Nghiền ngẫm sách vở họ trở thành những người xa lạ với chính mình.

Giống như những con lừa nặng trĩu sách trên lưng.

Vị Mullah thì hỉ hả với quà cáp và tiệc tùng,

Vị Pandit già thì tìm kiếm một cô vợ trẻ trinh trắng.

Dưới sự ảnh hưởng của ông, phần lớn dân Kashmir trở thành tín đồ Hồi giáo, tuy việc cải đạo sang Hồi giáo đã bắt đầu vào đầu thế kỷ mười bốn sau khi hoàng tử Tây Tạng Rinchana trở thành người cai trị Kashmir. Để củng cố vị trí của mình, ngài Rinchana đã quyết định cải đạo sang đạo Hindu. Nhưng các tu sĩ Bàlamôn không chịu cho ngài cải đạo vì không chắc chắn Rinchana sẽ thuộc về đẳng cấp nào. Shah Mir, người bạn theo đạo Hồi đồng thời là cố vấn của ngài nói cho ngài biết về Hồi giáo. Hoàng tử Rinchana ngủ trong cung điện trên bờ sông Jhelum và tỉnh giấc khi nghe nghe tiếng gọi cầu nguyện của người Hồi giáo. Trên bờ sông đối diện với lâu đài, vị Sufi người Ba Tư Bulbul Shah đang dẫn dắt lễ cầu nguyện buổi sáng. Hoàng tử Rinchana vượt qua sông để gặp Bulbul Shah và được trả lời những thắc mắc. Thế giới đạo Hồi không phân biệt đẳng cấp, mọi người đều bình đẳng. Sự cải đạo chỉ đơn giản là nói: “Không có chúa trời mà chỉ có Thượng Đế và Muhammad là sứ giả của Ngài.” Hoàng tử Rinchana đã cải đạo sang đạo Hồi, bảo trợ cho vị thánh đó và cai trị độ lượng trong ba năm.

Shah Mir đã thắng trong trận tranh giành quyền kế vị sau cái chết của ông hoàng Rinchana. Trong số những người kế vị của Shar Mir có hai người được nhớ đến nhiều nhất: Sikander, một người cuồng tín và Zainulabideen, một người theo chủ nghĩa tự do. Sikander ra lệnh cấm nhạc nhẽo, rượu chè nhảy múa và bị lên án là đã phá hủy nhiều đền thờ của đạo Hindu tại Kashmir trong khoảng cuối thế kỷ mười bốn. Người Kashmir còn nhớ, thời gian trị vì của vị vua chuộng tự do Zainulabideen, từ năm 1420 đến năm 1470, là một thời kỳ hoàng kim. Người ta vẫn còn gọi ông là Bud Shah (Đức vua vĩ đại). Ông đã cho xây dựng nhiều trường đại học và tặng học bổng cho nhiều sinh viên và học giả ngành luận lý và ngôn ngữ. Ông cho mời các thợ thủ công và nghệ nhân bậc thầy ở những thành phố Trung Á về dạy cho dân Kashmir làm giấy bồi và dệt thảm. Ông chấm dứt nạn ngược đãi người theo đạo Hindu và vực dậy âm nhạc và kịch nghệ. Bud Shah là một trong những người hộ tang trong tang lễ của Nooruddin Rishi. Nhà vua được chôn cất tại thị trấn Chrar, cách Srinagar khoảng một giờ lái xe về hướng tây, nơi ông đã sống những năm cuối đời mình. Ngôi đền được xây ở đó để tưởng niệm ông đã trở thành một trong những nơi linh thiêng nhất ở Kashmir.

Tháng Năm 1995, quân đội Ấn đã bao vây thị trấn Chrar. Nghĩa quân được cầm đầu bởi một người Pakistan tên là Mast Gul đang ẩn náu trong thị trấn Chrar. Từ khi tuyết rơi, việc ẩn nấp trong núi của họ trở nên bất khả. Một trận chiến đã nổ ra trong thị trấn và không lâu sau trở nên vô cùng gay gắt. Hai ngàn năm trăm ngôi nhà đã bị đốt và vô số thường dân bị giết. Quân Ấn đã chuyển sang tấn công khu đền thờ nơi nghĩa quân ẩn nấp. Trận chiến đó đã thiêu rụi ngôi đền: sáu trăm năm của lịch sử đã bị hủy hoại chỉ trong một ngày. Người Kashmir thương khóc và cùng tuần hành đến ngôi đền chỉ còn lại tro tàn. Bọn lính bắt bớ họ, xả súng vào những người tuần hành. Mast Gul và quân của ông đã phá vỡ hàng rào quân đội và trốn thoát. Người Kashmir buộc tội quân đội Ấn Độ đã phá hủy ngôi đền, còn quân đội và chính phủ Ấn đổ tội cho nghĩa quân Pakistan đã phá hủy nó để tự cứu mình.

Vào một buổi chiều tháng Năm quang đãng tôi lên đường từ Srinagar đến đền thờ ở thị trấn Chrar. Nửa tiếng sau, chiếc taxi ra khỏi thành phố và những ngôi làng xuất hiện dày đặc hơn ở phía trước. Xe chạy qua những cánh đồng, lên một vùng cao nguyên và qua một số trạm kiểm soát. Chín năm sau, thị trấn Chrar có vẻ giống như một thị trấn mới. Chiếc jeep dừng lại bên ngoài ngôi đền mới do chính phủ xây dựng. Nó là một tòa nhà bằng xi-măng, màu trắng. Những khung cửa sổ bằng gỗ phủ véc-ni được mô phỏng theo kiến trúc ngôi đền cũ một cách nửa vời. Những tấm thiếc bóng loáng như đang mỉa mai cái ký ức về những tấm ván ốp mái.

Tôi đứng nơi taxi đậu, chăm chú nhìn ngôi đền mới. Một cặp vợ chồng già đang đi chầm chậm ra cửa trong nỗi sùng kính. Họ dừng lại gần tôi, miệng mấp máy những lời khấn nguyện: “Ôi Sultan của các vị thánh! Xin hãy từ bi với chúng con, từ bi với con cái của chúng con. Xin hãy cứu chúng khỏi những trận bão và hỏa hoạn, xin hãy cứu vớt chúng như ngài đã từng cứu vớt chúng cho đến hôm nay.” Đôi mắt họ rưng rưng lệ.