← Quay lại trang sách

Chương 15 Thần Shiva mất tích

Những nghi thức Hồi giáo ở Kashmir đã vay mượn các nguyên lý của đạo Hindu và đạo Phật trong quá khứ; ngược lại, những tín đồ đạo Hindu cũng bị các nghi thức Hồi giáo ảnh hưởng. Trong thời thơ ấu của tôi, không ai mảy may nhướn mày ngạc nhiên khi một phụ nữ đạo Hindu đến một đền thờ Hồi giáo để xin thánh phù hộ. Sự phân chia về tôn giáo chỉ thể hiện rõ vào những ngày Ấn Độ và Pakistan chơi cricket. Người Hồi giáo ủng hộ đội cricket của Pakistan, những Pandit thì về phe Ấn Độ. Những sự căng thẳng phần nào dựa trên đẳng cấp đó, không bao giờ bùng nổ thành bạo lực tôn giáo. Không ai ngạc nhiên khi một người Hindu và một người Hồi giáo là bạn bè của nhau. Bạn chí cốt của cha tôi đã và vẫn là một Pandit, còn mẹ tôi có những tình bạn lâu năm với các nữ Pandit dạy cùng trường với bà.

Mọi thứ đều tan rã sau khi bùng nổ cuộc xung đột vũ trang. Quân ly khai không hề dung thứ cho một sự bất đồng quan điểm nào. Cùng với việc giết chết hàng trăm nhà hoạt động chính trị Hồi giáo ủng hộ Ấn Độ và những người bị tình nghi là chỉ điểm cho tình báo Ấn, họ đã giết mấy trăm Pandit dựa vào lý do trên hay chẳng vì một lý do nào. Những vụ thảm sát đó đã mang một làn sóng khiếp sợ đến cho công đồng và hơn một trăm ngàn Pandit khác đã bỏ Kashmir đi sau tháng Ba năm 1990. Tầng lớp giàu có đó đã dời đến những ngôi nhà ở Jammu, Delhi và nhiều thành phố Ấn Độ khác. Nhưng đa phần số Pandit đó chỉ có thể tìm được nơi trú ẩn trong những trại tị nạn và những căn phòng cho thuê bẩn thỉu ở Jammu và Delhi.

Mặc dù nỗi cay đắng dâng trào, cả người Hồi giáo lẫn các Pandit đều cố gắng giữ gìn các mối quan hệ riêng của mình. Cha tôi vẫn giữ liên lạc với những người bạn là Pandit của ông và vẫn đến thăm họ ở Jammu và Delhi mỗi dịp ông ở đó. Bà Kaul, chủ nhà trọ của tôi, thường kể những kỷ niệm về Kashmir của bà. Bà kể một mạch về ngôi đền thánh Sheikh Nooruddin hoặc việc viếng thăm các đền thờ gần ngôi nhà của tổ tiên mình ở trung tâm Srinagar. Sinh sống tại nhiều thành phố khác nhau của Ấn Độ, các Pandit hy vọng một ngày nào đó được trở lại nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Ngay cả những Pandit quá già để bắt đầu một cuộc đời mới cũng không quên được mái nhà họ đã bỏ lại phía sau. Hầu hết nhà của các Pandit đều bỏ hoang hay bị đốt trụi trong cuộc xung đột còn những khu đền thờ thì bị quân đội Ấn chiếm đóng.

Vào thời thơ ấu, tôi và những đứa bạn Hindu đã viếng thăm các đền thờ địa phương, nhất là đền thờ cổ Martand gần làng tôi. Tôi còn nhớ trong chuyến viếng thăm đền Martand, thằng bạn Pandit tên Vinod kể cho tôi nghe với thái độ hống hách rằng đền thờ đó được xây bởi họ Pandava, năm vị anh hùng trong Mahabharata . Năm anh em đó đã đánh bại hàng trăm anh em họ hung ác của mình, thuộc dòng họ Kaurvas, với sự giúp đỡ của Krishna. Thằng Vinod còn kể với tôi rằng những tảng đá đồ sộ của đền thờ đã được nhấc vào đúng vị trí của chúng bởi Bhima, người anh khổng lồ nhà Pandava. Ông hiệu trưởng đã sửa sai cho chúng tôi: “Vua Lalitaditya, một trong những vị vua vĩ đại nhất của Kashmir, đã xây đền thờ đó.” Vua Muktapida Lalitaditya đã trị vì Kashmir từ cuối thế kỷ bảy đến giữa thế kỷ tám và người ta tin rằng ông đã chinh phục nhiều phần của Ấn Độ, Iran và Trung Á.

Có thể nào đền thờ mặt trời Martand cũng trở thành đồn bót? Tôi tự hỏi. Hoặc một thầy giáo nào đó vẫn kể cho đám học trò nghe về vị trí của nó trong lịch sử Kashmir chăng? Tôi rời Srinagar để về làng thăm ông bà của tôi một ngày rồi lên đường đi Martand. Tôi đón một chiếc xe buýt tại quảng trường đông đúc ở Mattan, cách làng tôi và ngôi trường đầu tiên Lyceum của tôi ba dặm, để đi đến đền thờ Martand. Chiếc xe buýt đi theo một con đường ngoằn ngoèo lên một vùng cao nguyên tôi đã từng đến trong một chuyến đi dã ngoại của trường. Những ngọn núi cằn cỗi, những con đường gồ ghề, những ngõ hẻm sình lầy của các ngôi làng bao quanh Martand đã không thay đổi gì trong hai mươi năm trời. Ngôi đền đá vôi xanh đứng đó như một vị bô lão già khọm. Bức tường kéo dài từ lối vào tạo thành một hình vuông bao quanh ngôi đền gần như đã đổ sập. Bên trong, cây cỏ dại đã mọc kín. Ký ức về chuyến dã ngoại cùng với Vinod vẫn còn rõ mồn một trong tôi. Khu đền trong mắt chúng tôi lúc đó trông rất khổng lồ. Bây giờ nó như bị thu nhỏ lại.

Tôi ngược trở ra và đợi xe buýt bên vệ đường vắng vẻ. Tôi thấy nhớ Vinod. Kể từ khi cuộc xung đột nổ ra tôi đã không gặp nó. Lúc tôi rời trường Lyceum để đi học xa, tôi mới mười hai tuổi, khi đó gia đình nó đã di dời sang một tỉnh phía nam của Jammu.

Vinod là một thằng con trai mập mạp có đôi má đỏ đến nỗi tôi tưởng nó đánh phấn. Sau buổi học, chúng tôi thường chạy đến dòng suối gần ngôi đền để tắm. Chúng tôi hù dọa lẫn nhau bằng cách la lên “Rắn! Rắn!” khi đứng trên bờ suối. Chúng tôi cũng mê khám phá những hang núi đá vôi gần đó. Vinod tin rằng nếu cứ đi mãi trong cái đường hầm tối đen đó, chúng tôi sẽ đến Trung Quốc. Vì sợ bóng tối nên chẳng bao giờ chúng tôi đi xa hơn một chục mét. Tôi đã tập đi xe đạp trên chiếc Atlas màu đỏ của nó trên con đường dẫn đến những hang động.

Không có tín hiệu xe buýt trên con đường bên ngoài đền thờ Martand. Tôi cuốc bộ vài kilômét đến Mattan. Vinod đã từng sống trong cái làng kề bên. Chỗ khúc quanh, tôi thấy người ta đi xuống con đường dẫn đến làng nó. Tôi không thể kiềm chế mình và đã đi theo ngả đó. Thêm một dặm nữa, có một con đường mòn chạy ngang những ruộng lúa, đến một rặng cây óc chó gần nhà nó. Những người đàn ông và đàn bà làm ruộng còn trẻ con thì đạp xe trên đường. Nhà của các Pandit nằm biệt lập. Tôi còn nhớ đường đến ngôi nhà hai tầng của nó và chỉ trong vài phút tôi đã ở đó. Cái khóa đồng trên cánh cửa gỗ ngó ra trừng trừng, còn mạng nhện chằng chéo trên những cửa sổ đóng kín. Gia đình Vinod có vẻ đã bỏ đi vội vã. Nó thậm chí đã không đến chào từ biệt ai hoặc để lại một dòng địa chỉ nào.

Sáng hôm sau tôi đến thăm ngôi trường cũ của chúng tôi, hy vọng được gặp lại ông hiệu trưởng yêu quý của mình, thầy Kantroo. Tấm biển mới sơn lại treo trên cổng trường đề: TRƯỜNG CÔNG LYCEUM. Tòa nhà trông vẫn vậy. Những học sinh mặc quần soóc xám và áo sơ mi trắng. Tôi gõ cửa phòng thầy hiệu trưởng. Một người đàn ông trung niên mặc quần jean và áo sơ mi giản dị ra mở cửa. Tôi giới thiệu mình và xin gặp thầy Kantroo. Ông ấy mời tôi ngồi ghế rồi nói, “Tôi là hiệu trưởng trường này.” Rồi ông ngồi xuống chiếc ghế mà thầy cũ của tôi từng ngồi. “Thầy Kantroo đã đến Jammu năm 2002 rồi.” Vị hiệu trưởng mới biết chỗ thầy tôi sống tại Jammu nhưng không có số điện thoại của thầy. Tôi đi về và biết rằng tôi phải đi thăm thầy tôi và tìm thằng Vinod.

Jammu, một thành phố nhỏ với những mùa hè khắc nghiệt, đã trở thành nơi ẩn náu cho hầu hết Pandit người Kashmir. Tôi cảm thấy lo lắng trước viễn cảnh thầy cô và bạn bè thuở ấu thơ của mình trở thành những người di cư. Vài năm trước tôi từng ở Jammu trong tư cách một phóng viên đến thăm các trại tị nạn. Nơi ngoại ô, tôi tìm đến cụm nhà gạch tạm bợ nằm san sát nhau thành một dãy dài khép kín, bao bọc bởi vùng đất hoang um tùm cây dại. “Không ai đếm xỉa đến đến chúng tôi,” một thiếu niên nói. Cậu bé không nói chuyện như một người Kashmir. Và nó ghét người Hồi giáo. Tôi không đủ can đảm để nói với nó tôi là một người như vậy. Nên tôi bảo với nó rằng tôi là một người Punjabi [56] sống ở Delhi. Tôi đi vòng quanh, cố tìm những người đồng hương của tôi. Một người đàn ông trạc năm mươi mặc pajamas kiểu kurta màu trắng bước ra từ một con hẻm. Tôi hỏi thăm xem ông có biết ai đến từ Anantnag hay không. Ông nhìn tôi thận trọng. “Cậu là người vùng đó à?”

“Vâng,” tôi trả lời.

“Ở vùng nào của Anantnag?”

“Ở Seer ạ,” tôi nói.

“Cậu là người ở Seer! Cậu là con ai?”

Tôi nói tên cha và tên ông ngoại. Ở xứ sở tôi, người ta luôn hỏi bạn là con, cháu của ai. Mắt ông sáng lên. Ông cười to, mắng yêu, rồi ôm chầm lấy tôi. Trước khi tôi hỏi ông là ai thì ông đã kéo tay tôi đi, bảo tôi im miệng lại mà đi theo ông. Chúng tôi băng qua những con đường chật hẹp, dơ bẩn len lõi giữa những dãy nhà tạm. Ông dừng trước một túp lều lụp xụp nơi một người phụ nữ ốm yếu đang giặt đồ. “Đứng lên đi Gowri!” ông ấy nói. “Ôm nó đi! Nó là con trai con đó!”

Bà ấy không nhận ra tôi, nên chúng tôi lưỡng lự ôm nhau. “Bác này là chị của cha cậu đó,” người đàn ông đó nói với tôi. Tôi đứng đó hoang mang tột cùng. Cha tôi chưa bao giờ có chị cả. Tôi thấy choáng váng khi người phụ nữ đó hỏi: “Nó là con trai của Ammul à?” Ammul là tên thân mật thuở nhỏ của cha tôi, cái tên ít ai biết ngoại trừ những người trong gia đình. Bác nhìn tôi lần nữa, ôm tôi trong tay và khóc. Chồng của bác ngồi dưới đất cũng khóc theo. Mắt tôi nhòa lệ. Bác Gowri bỏ mặc mớ quần áo đang giặt dở dang trong thùng gần vòi nước công cộng. Chúng tôi cùng vào trong lều. Chiếc giường choán gần hết chỗ. Trong góc là phần bếp bé tẹo. Bác Gowri dời vài vật dụng sang bên để lấy chỗ ngồi trước một lò ga nhỏ và nấu trà.

Chúng tôi chuyện trò hơn hai tiếng đồng hồ về Kashmir và cuộc sống của mình ở đó trước khi cuộc xung đột vũ trang nổ ra. Họ đã sống tại ngôi làng gần nhà bác trai tôi, nơi cha tôi đã sống từ ấu thơ cho đến lúc trưởng thành. Trong những năm đầu của tuổi hai mươi, cha tôi là thầy giáo ở Pulwama. Bác Gowri cũng có một công việc ở làng đó. Cha mẹ bác không yên tâm về việc bác đi tới đi lui một mình hàng ngày. “Họ chỉ đồng ý cho bác đi làm ở đó sau khi biết là có cha của cháu đi cùng,” bác nói vậy.

Trên các bức tường treo đầy quần áo là hình của thần Shiva, Rama, Krishna và Saraswati. Khi tôi sắp sửa ra về thì một cô gái trẻ bước vào, gần như không gây một sự chú ý nào. Cô có gương mặt của bác Gowri và đôi mắt đen của bác Avatar. Bác giới thiệu chúng tôi với nhau. Tôi hỏi thăm về trường lớp của cô bé. Cô ngồi trên mép giường, vẻ bồn chồn, cặp sách để trên đùi. Mồ hôi trên trán cô chảy xuống như những dòng nước mắt.

Tháng Tám là thời điểm nóng bức kinh khủng ở Jammu. Tôi đã quên bẵng cái nóng khi gặp bác Gowri và Avatar. Tôi cảm thấy chiếc áo sơ mi dính chặt vào lưng dù cái quạt trần vẫn quay vù vù. Cô bé quay sang nhìn mẹ mình cầu khẩn. Bác Gowri bảo tôi và bác Avatar ra ngoài đi một vòng. Cô bé cần phải thay đồ. Cô đã mười ba tuổi. Mà trong lều không có chỗ nào khác. Không có một tia hy vọng nào về một ngôi nhà lớn hơn cho họ. Và cô bé thì ngày càng lớn. Cô có thể ngủ bao lâu nữa trên tấm nệm trải dưới sàn bên cạnh giường của cha mẹ cô? Những từ như “phòng khách”, “phòng học”, “phòng ngủ” hay “ban công” có nghĩa gì với cô không? Làm sao cô bé có thể cảm nhận được câu chuyện về những người được sống trong một “ngôi nhà”? Có thể cha mẹ cô sẽ tìm cách giải thích. Ngày xưa họ cũng từng sống trong một ngôi nhà có nhiều phòng.

Buổi tối, tôi gọi điện cho cha tôi và kể cho ông về cuộc gặp gỡ. Ông im lặng một hồi lâu. Tôi nghĩ là tôi nghe thấy tiếng ông khóc. Ông nói như thể cho chính mình. “Đó là những ngày thật đẹp, con trai ạ. Gia đình của bác ấy giống như thể gia đình ta. Ta đã làm mọi việc trong nhà khi bác ấy lấy chồng. Ta đã không gặp bác nhiều năm. Nói với bác là cha sẽ đến.”

Cuối cùng vào một buổi sáng tôi lên một chiếc xe jeep ở Anantnag, và sau tám tiếng trên xa lộ gập ghềnh núi non, tôi đã đến được Jammu.

Sáng hôm sau, trong khách sạn, tôi gọi điện cho một số người quen để hỏi thăm về thầy tôi. Họ không thể giúp gì được cho tôi. Chính phủ có danh bạ điện thoại nhưng nó hiếm khi hiệu quả. Tôi gọi nhưng không có ai trả lời. Một cuộc gọi khác, vẫn không ai trả lời. Đến cuộc gọi thứ năm, có tiếng trả lời tự động, “Chúng tôi rất vui khi nhận được điện thoại của bạn. Cuộc điện thoại của bạn rất quan trọng với chúng tôi. Nhân viên tổng đài của chúng tôi sẽ nhanh chóng hỗ trợ bạn”. “Nhanh chóng” có nghĩa là năm phút chờ đợi trước khi cuộc gọi bị ngắt. Tôi đã quá quen với điều này.

Tôi đi tới đi lui trong phòng rồi lại gọi. Có tiếng chuông điện thoại và tôi nghe giọng đàn ông, một nhân viên tổng đài thực sự. “Làm ơn cho tôi xin số điện thoại của ông Chaman Lal Kantroo được không? Ông ấy sống ở Amphalla.” Tôi nghe tiếng đánh máy. “Ghi số nhé.” Tôi nhìn chằm chằm vào số điện thoại trên mẩu giấy, lấy bình tĩnh và bấm số. Vợ thầy trả lời điện thoại. Bà vẫn nhớ tôi; tôi có thể được nói chuyện với thầy mình nếu tôi gọi lại sau mười phút nữa. Tôi gọi lại và thầy bắt máy. Giọng thầy mệt mỏi và khàn đục. Có vẻ như ông không được khỏe. “Em có thể đến gặp thầy được không ạ?” “Đến đây trước mười giờ nhé,” thầy nói. “Thầy có hẹn với bác sĩ của thầy lúc mười giờ rưỡi.” Thầy ho khục khặc rồi chỉ đường cho tôi. Lúc đó đã chín giờ rưỡi rồi.

Tôi lao nhanh ra đường và chụp ngay một chiếc xe lôi. Bác tài đạp hết tốc lực xuyên ngang những cái chợ, băng qua mấy chiếc cầu, vượt lên một con dốc, rẽ vào con đường nhỏ, rồi dừng lại. Chúng tôi đã đến một cột mốc, một nhà tù, trong vòng mười lăm phút. Tôi tìm đường đi đến căn nhà gỗ màu trắng của một nhà văn địa phương. Con đường mòn hẹp và hoang vắng dẫn tôi đến đó. Rồi một người bán rau chỉ cho tôi căn nhà. Từ nhà của nhà văn đó tôi phải đi con đường đầu tiên bên tay trái, thầy tôi sống ở căn nhà đầu tiên. Đó là một căn nhà gạch xuống cấp sơn màu vàng. Chuông cửa không kêu. Tôi gõ. Một cô bé ra mở cửa. “Cháu không biết ai tên Kantroo cả. Có một gia đình Pandit người Kashmir sống ở tầng thượng. Có thể là họ đấy.” Rồi nó biến mất sau tấm rèm cửa ở tầng trệt.

Cầu thang dốc dẫn lên tầng áp mái. Phía sau mớ quần áo treo trên dây nylon như một cái rèm cửa là căn gác xép. “Vào đi Basharat,” thầy Kantroo gọi to. Thầy ngồi trên chiếc giường cạnh cửa sổ duy nhất trong phòng. Chúng tôi bắt tay, rồi thầy bảo tôi ngồi xuống giường với thầy. Tôi ngắm thầy, thầy đã già đi nhiều. Gò má thầy hóp sâu, mái tóc gần như bạc trắng và bộ ria đen của thầy đã biến mất. Đôi lông mày của thầy vẫn đen và rậm rạp, đôi mắt thầy vẫn mang màu nâu thẫm nhưng dường như đã đánh mất sức sống. Tôi nhìn thấy trong đó sự cam chịu và nỗi mệt mỏi. Thầy phá tan sự im lặng, hỏi thăm tôi về cuộc sống và công việc, về những học sinh khác trong lớp tôi.

Tôi trả lời thầy trong lúc lướt mắt nhìn cái thau nhựa màu xanh da trời, một lưỡi dao cạo và một cái tách đựng kem cạo râu nằm trên tờ báo trước mặt thầy. Một số bạn học của tôi giờ là bác sĩ, nhà sinh hóa, luật sư, hay kỹ sư và một số đã chết. Sơn tường bong ra từng mảng, còn chiếc quạt trần trên đầu thì quay ầm ĩ. Tôi muốn hỏi thầy điều gì đã buộc thầy rời bỏ Kashmir mười hai năm sau khi cuộc xung đột vũ trang nổ ra. Tôi nhớ ông hiệu trưởng mới có nói về một “vấn đề” của thầy. Tôi đã không thể hỏi thầy.

Vợ thầy, người từng giúp thầy điều hành trường, góp chuyện với chúng tôi. Chúng tôi nói chuyện Kashmir. Tôi đã quên mất thầy cũng là một thi sĩ. Khi sắp ra về, tôi hỏi thăm chuyện viết lách của thầy. “Gần đây thầy không còn viết nhiều nữa. Thầy có viết khi thầy còn ở Kashmir. Có một tuyển tập thơ xuất bản năm 2002 đấy.” Ánh mắt thầy lấp lánh trở lại. “Nhưng tuyển tập đó không nằm trong tay những người bán sách. Thầy đã không chấp nhận điều khoản của họ. Hầu hết bạn bè và người quen của thầy đến đây đều lấy mỗi người một bản copy.”

“Bọn em cũng phải được đọc thơ của thầy chứ,” tôi quả quyết. “Thầy không thể giấu cả thế giới được.”

Thầy mỉm cười, dửng dưng trước các quyền lợi của việc xuất bản. “Quay ra đằng sau và lấy một bản copy trên kệ đi.” Tôi cầm trên tay một tập thơ mỏng, bìa cứng có tựa đề: Tội lỗi muôn đời . Tôi tạm biệt người thi sĩ – thầy tôi.

Gần nhà tù, tôi thấy một quán trà vắng và tìm một chỗ ngồi trong góc. Tôi mở cuốn sách đề tặng “những sinh linh không tồn tại của thế giới.” Tôi lật sang một trang, ông chủ tiệm trà mang cho tôi một ly trà đầy. Tôi đọc bài thơ “Người thơ ngây vô hại,” mô tả một người đàn ông đang hấp hối:

Một cái nhãn nhuốm máu

Dính chặt vào ve áo của ông ta đề: in...

Nó có nghĩa là indian, informer, hay insurgent? [57]

Thật hoang mang khi nó đề “innocuous innocent” [58]

Tôi đã nhìn thấy những người chết đó: ông Prem Nath Bhat bạn của cha tôi, một vị luật sư Pandit tài ba, đã bị nghĩa quân bắn; ông Abdul Sattar Ranjoor, một thi sĩ phe cánh tả ở Kulgam, bị sát hại trước khi ông có thể làm một bài thơ phản bác; ông Zahoor Dalal, một chủ tiệm khi đang đi dạo buổi tối đã bị đẩy vào một chiếc xe cảnh sát, bị bắn chết và được thay bộ đồ của quân phiến loạn. Các nhà báo chạy ngược chạy xuôi trên taxi, gõ lên bàn phím chiếc máy tính cũ kỹ những từ: NGƯỜI THƠ NGÂY VÔ HẠI.

Một bài thơ khác có nhan đề: “Những khát khao bị khóa chặt.” Tôi còn nhớ cuộc trò chuyện cuối cùng của chúng tôi trong văn phòng thầy Kantroo ở Kashmir. “Người ta không nói chuyện gì khác ngoài sự chết chóc. Nói về cuộc sống, nói về sách vở chẳng hạn.” Tôi đã tìm thấy câu trả lời trong đoạn thơ của thầy. Tôi rời quán trà rồi bước đi giữa bầy xe cộ, thờ ơ với mọi thứ, tôi ôm chặt cuốn thơ trong tay.

Thầy Kantroo nói với tôi là gia đình thằng Vinod sống tại một nơi tên Palora. Tôi gọi cho tổng đài để hỏi về cha nó và xin số điện thoại. Mẹ nó nói là nó làm việc ở Delhi. Vinod đã được đào tạo thành kỹ sư và làm cho một công ty máy điều hòa. Mẹ nó chỉ biết tên chứ không biết địa chỉ công ty hay số điện thoại của nó. Bà ấy bảo rằng nó định sang làm cho một công ty khác. Tôi để lại số điện thoại của tôi cho bà và bà hứa sẽ chuyển cho thằng Vinod.

Sau chừng ấy năm đi theo những hướng riêng rẽ và không giữ được liên lạc với nhau, tôi thấy thiếu kiên nhẫn quá. Tôi tìm kiếm tên công ty đó trên internet và có được một địa chỉ. Tôi nhìn vào màn hình máy tính mà không tin được vào mắt mình. Nó chỉ cách văn phòng tôi ở Delhi có một blốc nhà. Chúng tôi đã làm việc cách nhau chỉ một blốc và không bao giờ gặp nhau. Cũng có thể chúng tôi đã gặp nhưng không nhận ra gương mặt khi trưởng thành của nhau. Tôi tự hỏi chúng tôi đã bước qua mặt nhau bao nhiêu lần cùng với hàng ngàn nhân viên văn phòng khác. Tôi yêu thích Delhi vì sự ẩn danh nó mang lại cho tôi, nhưng tôi cũng ghét chính đặc điểm đó. Tôi phóng nhanh tới phòng điện thoại và gọi đến công ty kỹ thuật ở Vasant Vihar. Giọng nói thân tình của người tiếp tân trả lời, “Thật xin lỗi anh. Anh ấy không còn làm việc với chúng tôi nữa. Anh ấy đã nhận một công việc khác rồi.”

Tôi trở về Srinagar mà không còn dấu vết nào. Một buổi trưa nọ, tôi bước vào quán cà phê internet ưa thích của mình, ngồi trên một cái ghế xa lông lòe loẹt đợi đến phiên mình. Bản hòa âm mới của bài hát Bollywood thịnh hành nhất phát ra ầm ĩ từ cái loa. Tôi cố đọc tờ báo cách đây vài ngày nằm trên bàn. Một thanh niên với mái tóc đen rẽ ngôi một bên và vầng trán hẹp bước vào. Anh ta trông có vẻ quen quen. Chúng tôi nhìn nhau tần ngần trong một giây.

“Vikas!”

“Basharat!”

“Trời ơi! Đúng là mày rồi!”

Lần cuối tôi thấy nó, nó còn là một thằng nhóc đứng bên cạnh Vinod trong tấm hình cũ của trường. Vikas và tôi đã từng tranh giành sự chú ý của một cô bạn cùng lớp trong một câu chuyện tình không đi tới đâu. Vikas cũng cùng gia đình di dân đến Jammu vào đầu những năm chín mươi. Chúng tôi mất liên lạc với nhau. Bây giờ nó làm quản lý kinh doanh cho một công ty dược phẩm ở Srinagar, chuyên đánh giá doanh số bán ra. Nó đang ở tại một khách sạn trên bờ hồ Dal. Tôi nói với nó, “Mày phải về nhà tao thôi, Vicky! Dẹp quách cái khách sạn đi!”

“Tao cũng muốn lắm nhưng mà hai tiếng nữa tao phải đi rồi. Phải đi chuyến bay buổi trưa này, nên tao chỉ ghé vào đây để gửi email về văn phòng.”

Chúng tôi kể cho nhau nghe về gia đình. Không đứa nào nhắc đến cuộc xung đột; nó có vẻ chẳng ăn nhập gì với cuộc gặp gỡ bất ngờ của hai người bạn sau mười lăm năm ròng. Nó hỏi thăm mấy đứa bạn Hồi giáo cùng lớp của chúng tôi. Tôi hỏi thăm mấy đứa Pandit. Nó đã mất liên lạc với phần lớn bọn nó. Chúng tôi chia nhau điếu thuốc và cười ha hả về những chuyện của thời thơ ấu.

Khoảng một giờ sau, tôi tản bộ qua Polo View hướng về phía cầu Zero, bên ngoài khu vực phía nam của Srinagar nơi tôi đang ở. Những giai điệu nhạc trên radio thoát ra từ một chiến hào đơn độc gần cây cầu. Một tên lính trông có vẻ cô đơn đang đứng sau một khẩu súng máy. Ánh hoàng hôn lấp lánh dưới dòng Jhelum xanh biếc, những tia sáng cuối cùng của nó đỏ rực phía chân trời. Tôi nghĩ đến lời bà ngoại dạy tôi khi còn bé, “Khi có một người vô tội bị giết thì bầu trời chuyển sang màu đỏ.” Gần như ngày nào cũng có một người vô tội chết ở Kashmir kể từ sau mùa đông năm 1990.