← Quay lại trang sách

Chương 16 Cái mền đen

Có hai từ đã đồng hành với tôi trong những chuyến hành trình. Bất kể tại bữa tiệc hay đám tang, trong chuyến viếng thăm một đền thờ đã bị phá hủy hay tại một phòng tra tấn, trong câu chuyện về một người xa lạ hay về chính cuộc đời tôi, trong một bài thơ hay một bức tranh, hai từ này luôn khẳng định sự hiện hữu của chúng: nghĩa quân và quân đội. Chúng lẩn khuất trong những trang viết về mỗi cuộc đời, kể cả cuộc đời của chính tôi. Chúng hiện diện như những bóng ma. Bạn bè tôi ở Delhi thường hỏi tôi xem chúng là ai, chúng giống cái gì. Tôi cũng hỏi chính mình tương tự. Tôi cũng muốn cầm súng, đánh nhau, giết chóc và chết. Một số người tôi biết, đã cầm súng vượt qua ranh giới, để tham chiến, giết chóc và chết. Một số thì sống sót.

Gần đây tôi đến thăm gia đình của Tariq anh họ tôi và gặp em trai anh ấy, Shabnam. Mười hai năm sau cái chết của Tariq, tôi đã cùng với Shabnam đi đến sân thể thao nơi chúng tôi nhìn thấy anh Tariq lần cuối. Trông nó thật hoang tàn. Những đám đông hò reo cổ vũ của tháng Tám năm 1992 đã tan rã rồi, quân khởi nghĩa cũng đã thiệt mạng. Thằng Shabnam nói về nghề nghiệp của nó và về một cô gái. Nó muốn cưới cô ấy, nhưng cha mẹ cô gái phản đối mối quan hệ này. Mọi sự trở nên tồi tệ khi một người bà con của cô nhìn thấy nó chở cô trên chiếc xe đạp và thả cô xuống bên ngoài trường cao đẳng cô đang theo học, và người đó than phiền với cha mẹ cả hai về sự ương ngạnh của chúng. Bây giờ hai đứa bí mật gặp nhau tại nhà một người bạn. Shabnam đã hỏi xin cha nó về việc cưới cô và muốn ông đến đặt vấn đề với cha mẹ cô. Cha nó đã nói về danh dự của gia đình, về việc phải gả con cái ông cho những gia đình đáng kính trọng, về việc gia đình cô gái là dân mới phất lên. Thằng Shabnam đã năn nỉ bạn bè và bà con thuyết phục cha nó, nhưng ông cụ là một người cứng nhắc và không thay đổi.

Shabnam đã phá bỏ luật bất thành văn của cha: Nó nói đến cái chết của người anh trai mình. Những gia đình mất người thân trong cuộc xung đột hiếm khi nhắc đến người đã khuất. Nó chất vấn cha nó và nói ra những lời đau đớn nhất: “Anh Tariq đã không quay sang cầm súng nếu như cha cho phép anh ấy cưới người con gái anh thích.” Giờ thì nó ân hận vì những lời lẽ đó. Từ đó đến giờ, cha nó đã thu mình lại trong một nỗi im lặng muộn phiền. “Tao nên làm gì đây? Tao thấy có lỗi khi đã nhắc đến anh Tariq, nhưng tao không thể bỏ cô ấy được. Tao nên bỏ nhà đi và kết hôn tại tòa thị chính, hay là tao nên từ bỏ tất cả?” Cuộc chiến giữa các quốc gia và cuộc chiến của con tim bao giờ cũng là đau khổ, khao khát và nước mắt.

Trước khi tham gia nghĩa quân, anh Tariq là một học sinh nghiêm túc. Tôi nhớ anh luôn tỏ ra lễ phép với cha tôi. Mỗi khi tôi đến thăm nhà anh, một là anh sửa sang cái gì đó trong chiếc xe đạp của mình, hai là anh chơi cricket trong sân chơi gần đó. Tôi đã được nghe về chuyến trở về nhà vội vã và đầy lo lắng nhưng lại biết rất ít về cuộc đời nghĩa quân của anh. Tôi đã không thể hỏi cha hay em trai anh về chuyện đó. Tôi nghĩ về nhiều người trẻ tuổi tôi quen biết trong thời niên thiếu đã gia nhập những phe nhóm như vậy. Nhưng tôi phải thật cẩn thận. Cuộc xung đột vẫn chưa chấm dứt , tôi tự nhắc mình.

Rồi tôi chợt nhớ đến Asif, một thằng bạn ở trường tham gia nghĩa quân trong nhiều năm và đã trở lại cuộc sống thường dân. Tôi đã không gặp nó khi còn đi học trong những năm chín mươi. Tôi lướt qua cuốn album của mình và tìm thấy một tấm ảnh chụp thời đi học: tôi mới mười lăm tuổi và đứng cùng Asif trong một khu vườn trước trường nội trú của chúng tôi. Bọn tôi sống cùng một ký túc xá và chơi trong cùng đội bóng chuyền.

Asif rất bảnh bao. Tôi ganh tị với sự chú ý của phái nữ dành cho nó và với những món phụ kiện của nó như đôi giày Kamachi. Kamachi là loại giày thể thao của Nga mà quân khởi nghĩa đã biến thành mốt thời trang. Đối với thanh thiếu niên của Kashmir thời kỳ đầu những năm chín mươi, tên của Che Guevara và Malcom X không hề được nhắc đến, mà những nghĩa quân sải bước trên triền dốc của chiến tranh mới quyết định trào lưu thời trang. Các nghĩa quân thay đá trên nhẫn bằng những viên đạn, thì đám con trai cũng thay đá trên nhẫn của chúng bằng những viên đạn. Một loạt trang sức kiểu quân đội trở thành thời thượng. Truyền thống đeo bùa hộ mạng Sufi được cải biên bằng một sợi dây đeo vỏ đạn Kalashnikov. Thằng Asif có giày Kamachi, có nhẫn mặt viên đạn và bùa hộ mệnh là một vỏ đạn. Nó rất ngầu.

Tôi rời thành phố Srinagar vào một sáng tháng Tám để đến Anantnag, nơi tôi lên xe buýt để đi về làng thằng Asif ở xa tít về phía nam. Tôi không biết chắc nó có ở đó hay không, thậm chí tôi còn không có số điện thoại của nó nữa. Chiếc xe buýt chạy qua nhiều ngôi làng của người Kashmir và khoảng một giờ sau dừng lại ở một trạm kiểm soát của quân đội gần làng thằng Asif. Việc soát người, đòi chứng minh thư và hỏi những câu cộc cằn trước đây từng gây cảm giác nhục nhã, bây giờ đã trở thành lệ, giống như việc đánh răng vậy. Bọn lính cho chúng tôi đi qua, chiếc xe buýt chạy tiếp rồi dừng lại tại làng. Tôi băng qua sân đậu xe buýt đến một tiệm tạp hóa treo lủng lẳng một biển quảng cáo Coke với tấm hình cỡ người thật của nữ diễn viên Bollywood, Aishwarya Rai.

Hai cậu trai rỗi việc trước cửa tiệm chỉ cho tôi nhà của Asif. Chúng tôi chen chúc qua một mê hồn trận những con hẻm và đến cổng của một biệt thự có hai ban công gỗ. Một trong hai cậu trai chạy vào trong rồi quay lại cùng với cha của Asif, một người đàn ông gầy, đầu hói ngoài năm mươi mặc áo khoác kiểu Nehru rất phổ biến trong giới chính khách.

“Asif có nhà không ạ?” tôi hỏi thăm.

“Cậu là ai?” bác ấy hỏi trong khi nhìn tôi soi mói.

Tôi tự giới thiệu. Bác trở nên nồng hậu hơn và mời tôi vào nhà. “Bác thật xin lỗi. Bác không chắc cháu là ai,” bác nói. “Ai cũng nên cẩn thận.” Chúng tôi ngồi trong phòng khách lót thảm. Một bức họa về thánh địa Mecca và một bức ảnh rẻ tiền in mấy chú ngựa hoang treo trên tường. Asif đang đi thăm một ông chú sống tại đầu bên kia làng. Trong làng không có điện thoại. Cha nó nhờ hai thằng con trai chạy đi gọi nó. “Ở đây có một phòng điện thoại dùng cho cả làng hồi năm ngoái,” bác ấy nói với một tiếng thở dài, “nhưng mà nó không hoạt động nữa.”

“Chuyện gì đã xảy ra vậy bác?”

“Nghĩa quân nghĩ rằng nó có thể được dùng để báo tin cho quân đội về hành tung của họ, nên họ đã cho nổ tung căn nhà nơi nó được lắp đặt. Căn nhà bị hư hại và một nửa gia đình đó bị giết. Không ai dám nghĩ đến việc dùng điện thoại nữa.” Làng của bác và làng kề bên có tiếng về sự hiện diện đông đảo của cả nghĩa quân lẫn lính quân đội. Những người sống ở đó hoặc tuân lệnh quân đội, hoặc tuân lệnh nghĩa quân.

Em gái của Asif mang trà ra. Cô bé học văn chương ở trường đại học, còn Asif sắp lấy bằng thạc sĩ về lịch sử. Tôi nhớ cha của Asif là luật sư nên hỏi thăm bác ấy về việc hành nghề của bác để kéo dài cuộc chuyện trò. “À, thỉnh thoảng bác có đến tòa án. Thật ra bác chưa bao giờ đam mê ngành luật. Bác kiếm tiền nhờ vào những vườn táo của mình.” Bác ấy dừng lại một chút rồi nói thêm một cách mệt mỏi, “Bác đã từng mơ được làm chính trị. Bác muốn ra tranh cử, làm một chính trị gia. Đó là tham vọng duy nhất của bác.”

“Bác có gia nhập đảng phái chính trị nào không?”

“Cháu tưởng bác muốn chết à?” bác ấy cười to. Bác từng là thành viên một đảng cầm quyền, Đảng Hội nghị Quốc gia, cho đến năm 1989. Sau khi chiến tranh bắt đầu, bác đã đăng đơn từ chức trên những tờ báo địa phương, giống như những nhà hoạt động thuộc các đảng phái ủng hộ Ấn Độ khác. Các nhóm nghĩa quân cũng như phe Ấn Độ không dung thứ cho bất cứ sự bất đồng chính kiến nào nên đã giết hại nhiều nhà hoạt động. Những lá đơn từ chức công khai đã cứu biết bao mạng người. Cha của Asif đã từ bỏ những tham vọng chính trị và bám chặt vào việc trồng táo.

“Basharat,” một giọng phấn khích gọi tôi ngoài cửa. Tôi quay lại, thấy một thanh niên cường tráng với mái tóc ngắn và đôi mắt đen láy trên khuôn mặt hút hồn như tạc. “Mày đã ở đâu trong suốt những năm qua?” Asif gào lên. Chúng tôi ôm nhau. Tôi luôn thấy ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của tình bằng hữu tôi tạo dựng được trong quãng đời thơ ấu của mình. Tôi gặp bọn nó sau cả một thập kỷ và cảm thấy như mình chưa bao giờ đi xa. Cha nó để cho chúng tôi chuyện trò một mình. Asif nói năng chậm rãi, cẩn trọng và có vẻ như đến giữa chừng lại quên bẵng nó định nói gì. Nó sống trong khu nhà trọ của trường đại học ở Srinagar và về thăm cha mẹ mỗi tháng một lần. Nó đến lớp và đọc bài vở. “Chẳng có nhiều việc để làm sau giờ học,” nó nói, “nói chung tao chỉ ngồi ở bờ hồ hay ở trong phòng.”

Nó uống trà và nhìn tôi như thể cân nhắc xem có nên nói cho tôi nghe một điều gì đó không. Tôi đến để hỏi thăm nó về cuộc đời làm nghĩa quân. Nhưng tôi không thể hỏi câu đó. Có vẻ việc tôi tha thiết muốn tìm hiểu về đời nghĩa quân của một người bạn cũ là không thích hợp.

Sau một hồi nó bắt đầu kể về cuộc sống của nó sau khi ra trường. Nó quay về làng và học tại một trường cao đẳng địa phương. Được bao bọc bởi những ngọn núi nâu khô cằn, làng của nó trở thành căn cứ của nghĩa quân. Họ diễu hành công khai, súng vắt trên vai, thắt lưng dắt đầy lựu đạn. Các toán lính tuần tra Ấn Độ thường tránh xa nơi đó. Không hề có tivi, điện thoại, kể cả bệnh viện hay những dịch vụ đàng hoàng ở nơi này. Nghĩa quân sống cùng nhà và ăn cùng mâm với dân địa phương.

Asif được làm quen với một số vị chỉ huy nghĩa quân. Nó thấy ấn tượng và ngày càng bị họ ảnh hưởng. Rồi một ngày kia nó bỏ nhà để đi theo lũ bạn bè nghĩa quân. Tại vô số điểm ẩn náu, nó học cách bắn súng, ném lựu đạn, kích nổ những bãi mìn và lập kế hoạch tác chiến du kích. Nó lang thang từ làng này qua làng kia với những người bạn chiến đấu. Tôi cố gắng hình dung thằng Asif trong bộ quần áo dã chiến, được trang bị các loại vũ khí giết người. Nó đã là nghĩa quân trong hai năm ròng.

“Mày thấy thế nào?” rốt cuộc tôi cũng hỏi.

“Thật đáng sợ,” Asif trả lời. “Tiểu đoàn đối xử với tao tử tế lắm. Tụi tao di chuyển cùng với nhau và nói chung là hài lòng với bản thân mình lúc đó. Nhưng tao thấy đau lòng khi tụi tao phải chạy hết làng này đến làng kia, tìm nơi trú ẩn và thức ăn. Người dân đón tụi tao vào nhà họ. Nhưng nhiều lúc tao cảm thấy người ta cho tụi tao ăn vì họ sợ. Tao cảm thấy không được chào đón, gần như là một thằng ăn mày có vũ khí vậy. Tao đã lớn lên trong sự giàu có và cha mẹ tao mua cho tao những gì tao đòi. Và rồi tao lại thành một quân khởi nghĩa ngủ trong một căn nhà nơi chủ nhà sợ lính quân đội có thể đến bất cứ lúc nào. Người ta mỉm cười nhưng trong bụng chỉ ước gì tụi tao đi khỏi. Tao không ngủ được và rất nhớ gia đình.”

Asif thấy khó khăn khi nói về những ngày tháng đó.

Tôi thật sự muốn hỏi nó đã giết ai chưa. Thay vào đó, tôi hỏi nó về sự chia tay với nghĩa quân. “Ngày nọ, chỉ huy bảo tụi tao phải tấn công một đoàn xe vũ trang của quân đội. Tao nhặt khẩu Kalashnikov của mình lên. Lúc tụi tao sắp lên đường thì tao bắt đầu run lẩy bẩy. Tao thấy quá sợ hãi và cái chết xem ra rất thực. Tao bỏ ngũ không lâu sau đó. Những người chỉ huy đã khá tử tế khi cho tao ra đi.”

Chúng tôi rời nhà nó, đi bộ ra trạm xe buýt và mua hai lon Coke trong tiệm có cái hình quảng cáo của Aishwarya Rai. Asif mê cô đào Aishwarya và xem tất cả phim cô ta đóng. Tôi lại thấy cô ta máy móc quá và nói với nó như thế. Chuyện đó làm cho bầu không khí nhẹ hẳn đi. Chúng tôi trở lại là mấy thằng nhóc. Asif nói về chuyện sẽ tốt nghiệp đại học ở địa phương và sẽ thử học lấy bằng tiến sĩ ở Delhi hay một thành phố nào đó của Ấn Độ. Tôi ủng hộ việc học ở Delhi. “Nó là thành phố tốt nhất dành cho sinh viên. Mày sẽ tìm được các thầy giỏi và những thư viện tuyệt vời. Mày thử tìm hiểu Đại học Delhi và Đại học Jawaharlal Nehru xem.”

Nó đồng tình. “Sống ở đó chắc là vui lắm.”

“Có thể rất tuyệt đấy.”

Trên mặt nó nở một nụ cười láu lỉnh. “Nói thật cho tao nghe một chuyện nhé?”

“Cái gì?” tôi cũng tò mò.

“Mày có đi sàn ở Delhi không? Mày có nhảy với bọn con gái không?”

Tôi kể cho nó nghe về những lần thử ngượng chết người của mình. Chúng tôi cười ha hả.

Rồi chúng tôi bắt tay nhau. Tôi nhảy lên một chiếc xe buýt đang chạy ra khỏi sân đậu. Asif quay lại nhà. Từ trên xe tôi nhìn theo nó. Tôi mừng cho Asif, mừng vì nó đã sống sót và trở về.

Tôi về đến Anantnag sau khi mặt trời lặn. Thị trấn vắng tanh, các cửa tiệm đã đóng cửa và những nhóm hành khách tụ lại tại bãi đỗ xe buýt. Tôi quyết định không đi về Srinagar nữa và chờ một xe buýt đi về làng tôi. Sau vài phút, một chiếc xe lôi dừng lại và ông tài xế la to tên của một khu vực gần làng tôi. Nửa giờ sau tôi được gõ cái cửa sắt nhà mình. Vài phút thinh lặng. Rồi Ngoại tôi hỏi, “Ai đó?” “Con là Basharat đây, Ngoại ơi!” Cánh cửa mở ra. Tôi bắt tay Ngoại và hai đứa em họ của tôi đứng sau lưng ông như những vệ sĩ.

Sau bữa ăn tối, tôi ngồi trên cái ban công nhỏ, nhìn ra đường cái và xa hơn là cánh đồng lúa trải dài nhiều dặm cho đến tận cánh cung tạo bởi những ngọn núi. Vầng trăng khuyết đang đổ xuống làng tôi một thứ ánh sáng trắng nhờ nhờ. Có tiếng suối róc rách ở đằng xa. Tôi ngồi trên một cái ghế, gác một chân lên cái ghế khác, rồi vươn vai vặn mình một chút. Tôi lại suy nghĩ về Asif và những ngày chiến đấu của nó. Nó có nói về cảm giác nhớ nhà.

Tôi hiểu ý nó. Nó đã không thể cãi nhau với thằng em họ mười bốn tuổi về vụ đổi kênh tivi và chống lại cố gắng của bà ngoại ép nó dùng phần ăn đủ cho ba người. Làm một nghĩa quân không chỉ gồm việc huấn luyện vũ trang và chiến đấu mà còn là việc bị tước đoạt những niềm vui giản dị nhất của cuộc sống.

Một số nghĩa quân trở thành các nhân vật bí ẩn, nhưng họ đều chết cả. Và những người mà họ giết cũng vậy. Dân chúng trở về nhà sau những đám tang và những câu khẩu hiệu và tiếp tục cuộc sống của họ cho đến đám tang tiếp theo và một loạt khẩu hiệu sau đó. Tôi đã chứng kiến điều đó vào đầu những năm chín mươi và lại nhìn thấy nó lần nữa vào mùa xuân năm 2004 trong một lần đến thăm nhà người bạn cũ Hilal của mình.

Hilal sống trong một làng phía nam thị trấn Anantnag dọc theo xa lộ từ Srinagar đến các đồng bằng Ấn Độ. Chúng tôi học cùng một trường cao đẳng, sống trong cùng một ký túc xá và có lúc cùng lãng phí tuổi trẻ của mình. Chúng tôi vẫn giữ liên lạc. Cậu ta là một thanh niên cao, gầy với mái tóc quăn và đôi mắt xanh hiếu động. Trang phục thường ngày của cậu là quần jean áo thun và cậu gần như luôn bước đi vội vã, tay ôm cuốn tiểu thuyết hay cuốn sách gì đó. Cậu làm phóng viên một thời gian sau khi ra trường nhưng đã bỏ nghề sau khi va chạm thực tế khắc nghiệt. Sau đó cậu quay sang học ngành xã hội học ở trường đại học Srinagar. Bây giờ cậu trông giống phiên bản trưởng thành hơn của chính cậu so với thời chúng tôi còn học cao đẳng – cậu đi lại với một cặp đầy sách. Cậu ta khá nổi tiếng vì không bao giờ trả những cuốn sách mình mượn.

Sáng hôm sau tôi lên đường đi thăm Hilal. Tại trạm xe buýt ở Anantnag, một nhóm nhân viên văn phòng cũng đợi như tôi. Trong khoảng nửa giờ, không có một chiếc xe buýt nào. Chúng tôi tự hỏi lý do nào gây ra sự chậm trễ này và hy vọng không phải là một vụ tổng đình công. Bên cạnh xa lộ, một dãy nhà nghỉ trở nên nhộn nhịp, một trung đoàn lính đang tuần tra, những sinh viên sải bước đến ngôi trường gần đó và một cảnh sát chốt tại một vòng xoay vắng bóng xe cộ.

Rồi một chiếc xe tải thắng kít lại gần trạm xe buýt. Hai mươi mấy người đàn ông ăn mặc tồi tàn nhảy xổ ra và đứng gần chỗ vòng xoay. Tôi nghe tiếng hét xung trận Allah-o-Akbar và quay người lại. Cái điệu bộ cương quyết chống lại một đối thủ vô hình nào đó có vẻ manh nha một cuộc biểu tình. Những người đàn ông đó vẫn kiên trì hò hét. Các nhân viên nhà nghỉ, những ông chủ tiệm, khách qua lại văn phòng và các sinh viên nhìn họ đề phòng. Viên cảnh sát có vẻ hồi hộp, còn những người chờ xe cùng tôi thì thầm: “Đã có ai bị bắt chưa?”

Một thanh niên lanh lợi ôm một bó củi nhúng vào xăng rồi dùng diêm châm lửa. Cậu ta chia cho mỗi người hô khẩu hiệu một thanh đang cháy. Họ cầm những thanh gỗ cháy như những cây đuốc Olympic và di chuyển thành vòng tròn, hô đồng thanh, “Bóng tối bao phủ khắp nơi.” Viên cảnh sát cố sức ngăn nhưng họ vẫn tiếp tục. Khi lính quân đội đến, những người cầm đuốc đứng khựng lại. Viên cảnh sát nói gì đó với bọn lính, rồi chụp lấy một cái dùi cui và nhập vào đám lính kiên quyết trong cuộc tấn công bằng dùi cui. Những người biểu tình chạy tán loạn. Những thanh củi đang cháy rơi vãi xung quanh vòng xoay. Viên cảnh sát cùng bọn lính dập tắt những đốm lửa lay lắt bằng những đôi giày ống nặng nề. Những người ngoài cuộc đứng nhìn, một số còn mỉm cười.

Một lát sau tôi hỏi viên cảnh sát về những người biểu tình. “Họ đến từ mấy cái làng hẻo lánh và không có điện,” ông ta nói. “Bởi vậy họ đến đây để gây náo loạn giao thông trên xa lộ và buộc chính quyền phải xem xét những đòi hỏi của họ.”

Tôi gọi điện cho Hilal. Cậu ta nói với tôi là trên đường lớn không có xe buýt vì quân đội đã giết một chỉ huy quân khởi nghĩa ở một làng gần đấy. Người ta đã kêu gọi đình công để bày tỏ sự đoàn kết. Hilal đến đón tôi bằng xe máy. Chúng tôi quẹo vào một con đường đất chạy loằng ngoằng từ xa lộ xuyên qua những cánh đồng. Trong nhiều dặm không hề có một phương tiện giao thông nào khác, làng xóm dường như đang thiếp ngủ. Con đường đất chạy thẳng vào làng của Hilal và chúng tôi vượt qua mặt những đoàn xe tải chở đầy đàn ông, đàn bà và trẻ em đang hoang mang. Hilal kể cho tôi nghe là vị chỉ huy quân khởi nghĩa bị sát hại là người cách làng cậu ta hai dặm. Những chiếc xe tải đó đang chở những người than khóc đến đưa tang anh ta. Chúng tôi đậu xe lại và quan sát những người đang than khóc thì mấy thiếu niên địa phương bước đến chỗ Hilal và hỏi cậu ta có muốn đi đưa tang không. “Xe tải sẽ chạy về đó. Anh có thể đi cùng.”

Chúng tôi không chắc việc này an toàn đến mức nào nhưng vẫn quyết định đi theo và không lâu sau thì chúng tôi đã rong ruổi trên đường. Khi chúng tôi đến gần làng thì bắt đầu nhìn thấy hàng đoàn xe tải và xe hơi nối đuôi nhau như suối chảy về nơi có đám tang. Nam phụ lão ấu đi như chạy về hướng ngôi nhà của vị chỉ huy bị sát hại. Chúng tôi mất nửa giờ cho nửa dặm đường. Rồi chúng tôi đậu xe lại và đi theo một đám người đang ngày càng đông. Tôi nhìn thấy những mái đầu tạo thành những ngọn sóng nhấp nhô. Người ta đứng trên bức tường đắp bùn bao bọc con đường làng, trên hàng hiên của những ngôi nhà, trên những vựa thóc và trên những chuồng bò. Lũ choai choai hí hửng xem cảnh tượng này trên các chạc cây. Chúng tôi còn nghe những khẩu hiệu đòi tự do bằng tiếng Urdu: Hum Kya Chahte? Aazadi! (Chúng ta muốn gì? Tự do!)

Nơi ở của vị chỉ huy là một căn nhà xác xơ có tường gạch sơn màu nâu thẫm. Thi thể anh đang được mang ra nghĩa trang. Tôi leo lên một vách tường trát bùn và nhìn thấy một cái xác đắp khăn choàng lụa màu xanh lá cây nằm trên sạp: đó là Arif Khan, chỉ huy khu vực phía nam của quân Hizbul Mujahideen. Chiếc sạp được đưa qua những mái đầu, những thân thể chen chúc và những cánh tay cố vươn ra để đỡ lấy nó. Làn sóng đó di chuyển như cơn lũ, như thể được tiếp thêm sinh lực bởi hình bóng của người đã chết. Tôi lạc mất Hilal trong đám đông. Tôi nhìn vào những khuôn mặt quanh mình. Họ không giống những người biểu tình được thuê mướn và được chở đi trên xe buýt từ làng này sang làng khác bởi các phe phái chính trị để gây ấn tượng với những nhóm phóng viên truyền hình trong những công viên ở Srinagar. Một số người khóc, một số cố kìm nước mắt, còn một số khác thì bừng bừng nổi giận. Nhiều người nhẹ nhàng chạm vào tấm vải liệm rồi xoa lòng bàn tay mình lên trán và ngực. Đó là một nghi thức của người Kashmir tại những đền thờ thánh Sufi, nơi người ta xoa tay lên những nấc thang dẫn lên ngôi mộ của vị thánh hoặc lên mảnh vải phủ trên mộ của vị thánh đó. Đoàn người tiến về phía trước với nhiều khẩu hiệu hơn:

Arif, Tere Khoon Se inquilab Aayega!

(Arif, máu của anh sẽ mang đến cuộc cách mạng!)

Ae Zaalimo, Ae jaabiro Kashmir Hamara Chorr Do!

(Này lũ bạo ngược! Này lũ bạo hành! Hãy cút khỏi Kashmir của chúng tao!)

Arif Se Poocho! Arif Kahta hai! Aazadi!

(Hỏi Arif đi? Và anh ấy sẽ nói với bạn: tự do!)

Những người khiêng chiếc sạp đi ngang qua chỗ tôi đứng trên tường. Tôi rướn người để nhìn thi thể người nghĩa quân bị sát hại. Khan vừa trạc ba mươi, dáng người thấp, gầy và cái đầu hói làm cho gương mặt anh dài ra. Tôi nhìn thấy đôi mắt đen vô hồn hé mở của anh và những vệt máu không được lau sạch lấm tấm trên trán. Tôi nhìn thấy chiếc áo sơ mi màu xám anh mặc khi chết. Đoàn người vẫn cứ đi. Một thanh niên trèo lên tường, tay cầm một chiếc giày da màu đen la to, “Chiếc giày này là của ai?” Một thiếu niên làm mất giày quay mặt lại nhìn rồi nói nó không phải của cậu.

Tôi nhập vào đoàn người đưa tang. Tôi nghe tiếng hát ở phía trước. Giống như tiếng đồng ca nữ đang ngân nga những bài dành cho lễ cưới, nó vút lên qua tiếng hô khẩu hiệu sôi nổi của đám đàn ông. Âm điệu của nó gợi cho tôi nhớ lại một bài hát mà đám con gái làng tôi hát vào cái đêm trước lễ Eid. Có một nhóm khoảng năm mươi phụ nữ theo sau đoàn tuần hành. Tôi đi phía sau họ. Một số người sửa sang khăn đội đầu, còn một số khác cứ để khăn tuột xuống khi họ lướt qua đường phố và hát: “ Shaheedo Mubarak! Shaheedo Mubarack !” (Xin chúc mừng! Ôi người nghĩa quân! Anh đã chết vì nghĩa lớn!)

Bên ngoài nghĩa trang, đồng đội của người chỉ huy bị giết đang khẳng định sự trường tồn của tổ chức sau cái chết của anh. Một nhóm nghĩa quân khoảng hai mươi tuổi giơ cao những khẩu Kalashnikov và súng lục Trung Quốc màu đen và tiễn đưa người chết bằng những loạt đạn xuyên thấu trời xanh. Một người có râu mép cầm súng lục thét to phiên bản Kashmir của câu “Nhà vua băng hà, nhà vua sống mãi!” là: “ Zinda Hai HM ” (Hizbul Mujahideen sống mãi). Nghĩa quân và người đưa tang đồng thanh thét to, “Zinda Hai” (Anh sống mãi).

Một nhóm người vây quanh huyệt được đào sẵn dành cho chỉ huy Khan. Đất ẩm ướt mới đào được đắp quanh hố. Những người hộ tang đặt chiếc sạp gần huyệt. Nhiều người khác đến. Họ muốn nhìn mặt Khan trước khi anh được chôn cất. Người đưa tang tranh cãi, việc an táng bị hoãn lại. Cánh cổng gỗ của nghĩa trang kêu ken két trước lượng người khổng lồ đang cố đẩy nó mở ra. Người ta xô đẩy hàng rào.

Tôi nhảy qua được hàng rào và đang chen lấn tìm lối ra ngoài thì một phụ nữ trung niên bé người túm lấy cổ áo tôi và hét lên, “Nghe tôi nói này.” Gương mặt bà ta bóng loáng vì mồ hôi, gần như cùng sắc độ với chiếc áo choàng màu hồng tươi bà đang mặc. “Cậu ta được sinh ra ở đây, nhưng lớn lên, chiến đấu và chết tại làng tôi. Tôi đã đi bộ mười dặm đường cùng với hàng trăm người để đến đây. Hãy nói với họ là họ không thể chôn cất cậu ta cho đến khi chúng tôi thấy mặt cậu.” Tôi nói với bà là việc an táng đã bị hoãn lại. Bà ôm chầm lấy tôi rồi lao vào hàng rào nghĩa trang, vốn cũng đã đổ rạp xuống.

Tôi chen lấn ra khỏi đoàn người, cởi áo khoác, rửa mặt và uống nước ở cái vòi bên vệ đường. Tôi nghỉ ngơi một chút trước một cửa tiệm. Đây có vẻ giống một ngày của những năm chín mươi, khi những đám tang như thế được tổ chức hầu như mọi ngày, ở khắp mọi nơi.

Một ông già đứng cạnh cửa tiệm nhìn tôi dò xét. Tôi có thể thấy ánh mắt ông thu vào chiếc áo khoác bông, chiếc quần nhung, cái túi đeo ngang người và cuốn sổ ghi chép của tôi. “Cậu không phải dân ở quanh đây đúng không?” ông ấy hỏi. Tôi nói cho ông biết tên của làng tôi. Có thể ông thấy tôi không giống một người đưa tang. “Điều gì khiến cậu đến đây?” Tôi nói, “Cháu là nhà báo.” Ông ấy thốt lên cái từ đó với vẻ khinh bỉ và hét lên, “Những người làm truyền hình đâu? Đi nói cho họ biết chuyện gì đã xảy ra ở đây! Bảo họ rằng đây mới là thứ đáng phát sóng trực tiếp.”

Hilal đợi tôi bên ngoài dãy xe dài hàng dặm. Cậu có vẻ mệt vì trải nghiệm này, tôi cũng không khác gì. Chúng tôi về làng cậu. Dựa lưng vào mấy tấm nệm trong phòng cậu ta, phấn chấn hơn nhờ tách cà phê ngon, chúng tôi dần lấy lại sức lực đã tiêu tốn vì đám tang cuồng nhiệt đến chóng mặt. Hilal nhìn thế giới theo cách của một sinh viên xã hội học. Cậu nói về sự pha trộn giai cấp của đám đông đưa tang: các tầng lớp trung trở xuống và tầng lớp nông dân. Bị cuốn hút bởi vai trò của truyện thần thoại và cổ tích trong một xã hội như Kashmir, cậu kể lại những chuyện nhuốm màu thần thoại cậu được nghe về Arif Khan ở đám tang. “Có người nói là anh ta đổi trang phục để thoát khỏi sự lùng sục của quân đội. Có ngày anh là gã chăn dê đang lùa đàn dê trên xa lộ, có ngày anh lại là một người du mục Gujar mặc gi-lê và đội khăn xếp cưỡi ngựa đi ngang một tiểu đoàn tuần tra của quân đội.”

Bản chất cuộc đấu tranh ly khai ở Kashmir đã thay đổi. Phe ủng hộ độc lập JKLF đã bị lấn át bởi phe ủng hộ Pakistan Hizbul Mujahideen từ năm 1994. Cho đến giữa những năm chín mươi, quân khởi nghĩa liên Hồi giáo người Pakistan của Lashkar-e-Taiba và sau này của Jaish-e-Mohammed đã có sự hiện diện đáng kể. Quân khởi nghĩa Hồi giáo Pakistan chủ yếu giao thiệp với nhau và không hòa đồng với cộng đồng nói chung như quân khởi nghĩa Kashmir. Hai phe Lashkar và Jaish tin vào việc đánh bom cảm tử, còn quân khởi nghĩa Kashmir – kể cả quân Hizbul Mujahideen theo Hồi giáo – lại tránh việc đó. Tôi chưa bao giờ gặp hay phỏng vấn một người thuộc phe Lashkar hay Jaish nào ngoại trừ thấy trên tivi hoặc trên báo, nơi trưng hình những người chết bị lính Ấn lôi đi xềnh xệch sau một vụ tấn công cảm tử vào một doanh trại quân đội. Phần lớn những bài phóng sự đó mô tả họ hoặc là dân nghèo hoặc là con côi của cuộc chiến tranh ở Afghanistan, được nuôi dạy trong những trường Hồi giáo rồi bị đẩy sang Kashmir bởi những người chăm nom họ vốn làm việc cho quân đội và cơ quan tình báo của Pakistan.

Tôi có một cảm thức về những nghĩa quân Kashmir. Tôi biết hoàn cảnh của họ và có thể định vị được họ ở đâu đó trên bản đồ xã hội. Nhiều người họ đã bị giết, như anh họ Tariq và Pervez bạn tôi; nhiều người khác đã hạ vũ khí và trở về với cuộc sống thường dân lặng lẽ, như bạn học Asif của tôi; và nhiều người khác đã theo tất cả phe phái, cố tận dụng những gì có thể từ sự hỗn loạn và rối ren của cuộc xung đột, như Yusuf đã làm.

Tôi biết Yusuf hồi tôi còn bé. Kể từ đó gã đã trải qua nhiều mảnh đời khác nhau. Năm 1987, Yusuf giữ một chức vị thấp trong sở cảnh sát địa phương. Những lúc rảnh rỗi gã lẩn quẩn ở xung quanh Heavan, cái rạp hát duy nhất ở Anantnag, thu gom vé và bán lại cho đám người tụ tập chờ xem kịch để kiếm lời. Năm 1991, Yusuf trở về sau bốn tháng ở trại huấn luyện vũ trang tại Pakistan. Tôi thấy gã trên đường, bên ngoài nhà tôi. Gã mặc một áo khoác da đắt tiền với quần jean xanh và áo sơ mi trắng, túi quần ló ra một khẩu súng ngắn sáng loáng màu bạc. “Thầy hiệu trưởng có nhà không vậy?” gã hỏi thăm Ngoại tôi, người từng dạy gã cũng như đã dạy hàng ngàn học sinh khác. Yusuf ngồi trên ghế salon trong phòng khách của chúng tôi và nói với Ngoại, ra dáng trịnh trọng, “Thầy hiệu trưởng kính mến, em xem thầy như một người cha vậy. Nếu có ai làm khó dễ thầy thì hãy nói với họ rằng thầy là thầy của Azad Khan (tên mới của Yusuf).” Gã để khẩu súng lên bàn rồi ăn bánh quy và uống trà. Ngoại tôi nói vài chuyện xã giao rồi lưỡng lự hỏi, “Cậu đã làm trong sở cảnh sát và biết cách dùng súng rồi. Vậy tại sao cậu lại sang Pakistan?”

Yusuf phá lên cười. “Chỉ để thấy Pakistan thôi! Rồi thêm nữa là, nó giống như một chứng chỉ, một bằng cấp chứng nhận nghĩa quân thực thụ! Nếu không thì người ta không tin em.”

Năm 1995, tôi gặp Yusuf lần nữa tại Anantnag, bên ngoài một doanh trại chống quân khởi nghĩa. Gã nói rằng việc làm quân ly khai quá nguy hiểm. Cái chết có vẻ quá gần bên, nên gã đã đổi phe, sống dưới sự bảo vệ và đỡ đầu của quân đội Ấn Độ.

Năm 1996, sau sáu năm Delhi cai trị trực tiếp, Ấn Độ quyết định tổ chức bầu cử địa phương tại Kashmir. Cuộc bầu cử biến thành một trò hề. Gần như không ai đi bầu. Phe chống khởi nghĩa cũng ra tranh cử; mấy người bị quân lính lôi đến phòng bỏ phiếu thì bỏ phiếu chống lại chúng. Yusuf đánh hơi được tình trạng đó nên đã rời bỏ phe chống khởi nghĩa. Quân khởi nghĩa đe dọa những ứng cử viên tranh cử. Còn chính phủ Ấn Độ hứa cấp cho họ nhà ở, xe hơi chống đạn và vệ sĩ là cảnh sát và lính bán quân đội. Yusuf chớp lấy thời cơ và tham gia vào một đảng phái chính trị cỡ nhỏ không bao giờ thắng một ghế nào. Tôi được nghỉ lễ ở trường nên về nhà. Cha tôi được bổ nhiệm làm phó chủ tịch quận, chức vị hành chính đứng thứ nhì về quyền lực của quận. Cha tôi ở trong một dinh thự, nơi chỉ dành cho viên chức cấp cao hoặc chính khách. Tôi thấy Yusuf đứng dựa vào một chiếc xe jeep chống đạn cách nơi cha tôi sống vài căn nhà. Gã trông khỏe mạnh và giàu có hơn.

Trong năm 2003, bất kể có chuyện gì xảy ra ở Kashmir, những kẻ như Yusuf – có rất nhiều những kẻ như vậy – luôn xoay sở để được “làm ăn khấm khá”. Tôi đã bay từ Delhi về để tường thuật một cuộc thảm sát người Kashmir theo đạo Hindu trong làng Nadimarg. Cả thị trấn quay cuồng với nỗi đau. Những tiếng rên xiết của người sống sót và dấu vết còn lại của cuộc thảm sát đều làm mọi người rơi lệ. Tất cả chính khách cao cấp của Ấn Độ, kể cả phó thủ tướng L.K.Advani và chủ tịch quốc hội, bà Sonia Gandhi và con gái của bà, cô Priyanka đầy sức lôi cuốn đối với quần chúng, cũng có mặt ở đó. Bà Sonia đang trò chuyện với những người sống sót. Cô Priyanka đứng bên cạnh bà, nghiêm trang và trầm tĩnh trong áo sari. Những người lính biệt kích có nhiệm vụ bảo vệ đứng thành vòng tròn quanh bà mẹ và cô con gái. Một người đàn ông mặc bộ kurta trắng theo phong cách chính khách và khoác áo kiểu Nehru bước đến chỗ cô Priyanka Gandhi. Hóa ra đó là Yusuf. Họ nói chuyện một lúc. Nàng công chúa nói năng chậm rãi. Tên nịnh thần lắng nghe, trong tư thế xun xoe thấp hèn nhất có thể. Rồi Yusuf nhìn xung quanh, gương mặt hắn bừng lên trong thoáng chốc trước sự thân thiết của mình đối với cô con gái quyền lực nhất ở châu Á, một phụ nữ mà lời nói của cô có thể đưa gã tiến xa trên chính trường.

Tháng Sáu năm 2004, khi tôi đang đi bộ tại trung tâm thành phố Srinagar, một chiếc xe hơi bóng lộn dừng lại cạnh tôi và Yusuf kêu tên tôi rõ to. Gã bước ra khỏi xe và ôm choàng lấy tôi. “Tôi nghe nói cậu em đã trở thành một phóng viên cỡ bự. Nhưng cậu đừng có quên tôi đấy nhé! Viết một bài gì đó về tôi đi.” Một ngày nào đó, tôi hứa với gã. Tôi đang vội đến một nơi và tôi bỏ lỡ một chầu cà phê với gã.

Tháng Chín năm 2004, tôi đang ngồi tại nhà đọc một tờ báo địa phương. Nhan đề bài báo:

NGHĨA QUÂN XUẤT KÍCH CÔNG KHAI Ở ANANTNAG

LÃNH ĐẠO ĐẢNG QUỐC ĐẠI, PSO BỊ BẮN CHẾT

Sáng 29 tháng Chín năm 2004, Yusuf, lúc này là phó chủ tịch Đảng Quốc đại tại Anantnag, đã dừng chiếc SUV của gã tại một cái chợ ở Anantnag. Gã bảo vệ sĩ cứ ngồi lại trong xe rồi đi bộ về hướng một cửa tiệm. Vài nghĩa quân bước ra từ một ngõ hẻm và xả súng vào gã. Yusuf và vệ sĩ của hắn được đưa vào bệnh viện. Nhưng các bác sĩ không thể làm gì được nữa; họ đã chết.

Đến cả Yusuf cũng không thoát chết. Tôi từng tin rằng Yusuf có thể thực hiện được nước bài của gã, rằng gã sẽ sống sót và chúng tôi sẽ lại gặp nhau.

Nghĩa quân người Pakistan đang hoạt động ở Kashmir khác xa với quân du kích phe ly khai, những người đã khởi đầu cuộc nổi dậy chống Ấn Độ năm 1990. Tôi tò mò về họ và muốn gặp vài người trong số họ. Bạn bè tôi gợi ý nên đến Shopian, một thị trấn nhỏ ở phía nam Kashmir.

Bill Clinton gọi Kashmir là nơi nguy hiểm nhất trên thế giới. Những người sống ở Kashmir gọi Shopian là nơi nguy hiểm nhất ở Kashmir. Thị trấn này hiện diện dày đặc những toán lính tuần tra Ấn Độ lẫn nghĩa quân Kashmir và Pakistan. Vài năm trước, tại trường đại học của tôi ở Delhi, tôi đã gặp Ahmed, một sinh viên học kỹ sư người Shopian. Chúng tôi trở thành bạn và có nhiều đêm tụ tập trong phòng trọ của tôi, hút thuốc, uống cà phê và bàn luận về văn chương – Orwell và Steinbeck và Ayn Rand, nữ thần của Ahmed.

Dường như cậu ta thần tượng Howard Roark, nhân vật chính của Rand trong tiểu thuyết The fountainhead [59] .

Cậu nói về Rand suốt cả đêm. “Bản ngã! Basharat ạ. Bản ngã là suối nguồn phát triển của con người. Người ta nên giống như Howard Roark, toàn tâm toàn ý với sự hoàn thiện và không nao núng vì hoàn cảnh.” Đôi mắt màu nâu sâu thẳm sáng lên và giọng nói của cậu run lên vì phấn khích mỗi lần cậu nhắc lại những câu văn. Tay cậu giơ lên rồi bỏ xuống như những nhát búa đóng vào cây đinh tưởng tượng trong khi cậu nói.

Tôi không có địa chỉ hiện tại của cậu ta. Có rất ít khả năng tôi sẽ tìm thấy một người đầy tham vọng như cậu trong thị trấn u uất nhưng vô cùng nguy hiểm này. Tôi gọi cho một người bạn lâu năm ở Srinagar và thế là tôi có số điện thoại nhà Ahmed, nhưng anh ta không chắc là Ahmed có ở đó. Người phụ nữ nhận cuộc gọi của tôi nói rằng Ahmed làm việc tại một ngân hàng trong thị trấn.

Con đường đến Shopian chạy dài như một dải băng đen xuyên qua những ngôi nhà gạch và nhà gỗ mái nón. Xung quanh là phong cảnh thường nhật kiểu Kashmir: những cánh đồng, rặng dương liễu và những vườn cây ăn quả và doanh trại quân đội ngăn cách làng xóm với nhau. Xa xa là những ngọn núi trọc hoặc đã được phủ xanh. Người lái taxi chở tôi và năm người khác từ Srinagar là một lão đằng đằng sát khí, lái xe với tốc độ như đang muốn tự tử. Giọng hát sướt mướt của một ca sĩ phát ra từ chiếc loa: “Nhà ảo thuật hỡi! Người đã xuyên thủng con tim tôi bằng mũi tên nào?”

Hai giờ sau, chiếc xe jeep của chúng tôi dừng lại trong một cái chợ bụi bặm ở Shopian. Cái chợ – gồm hai dãy tiệm đối diện nhau: các tiệm vải, tiệm tạp hóa, hiệu sách, hiệu thuốc và quán trà – một kiểu chợ điển hình Kashmir trong một thị trấn nhỏ. Những chiếc xe jeep và xe buýt đợi khách; những người dân quê mang vác tạp phẩm và thuốc trừ sâu cho vườn cây của họ, đang đi lại quanh quẩn. Quân lính mang súng trường lủng lẳng trên vai đang tuần tra trên đường. Ngồi uống trà trong một kiốt ở trạm taxi, tôi nhớ lại một kỳ nghỉ đông ở đây cùng với cha mẹ tôi vào khoảng giữa những năm tám mươi, khi cha còn làm việc tại đây. Tôi nghĩ về những bản copy của tạp chí Reader’s Digest của cha mà tôi đã hăm hở đọc; một trái banh lông màu xanh da trời mà tôi và em trai thường dùng để chơi cricket; và một huyền thoại được cha tôi và bạn bè của ông thuật lại: chuyện tình lãng mạn của hoàng tử Nagirai và công chúa Heemal, hai nhân vật được tin rằng đã từng sống tại đây trong thời cổ xưa. Hai con suối chảy ngoài rìa thị trấn được đặt theo tên của họ. Niềm hoài cổ đã thôi thúc tôi đi tìm chúng.

Người tài xế vẫn đang chờ thêm khách. Tôi hỏi thăm anh ta về hai con suối Heemal và Nagirai. Gương mặt cau có của anh sáng bừng lên. “Tôi đã từng ngồi bên hai dòng suối đó hàng giờ. Tôi sẽ chở cậu đến đó.” Chúng tôi quay trở lại con đường dẫn ra khỏi thị trấn. Anh ta dừng xe ngay khi chúng tôi vừa thoát khỏi sự huyên náo của thị trấn và tiến gần một rặng liễu. Anh ta bước ra khỏi con đường rồi chỉ về phía một cây chinar. “Dòng suối Nagirai đấy.” Dưới cây chinar non nớt là một dòng suối nhỏ bị che lấp bởi tán lá đỏ. Bên cạnh nó là một lùm táo.

Lưu vực của một con sông lớn, giờ đã khô cạn, chỉ còn lại một dòng nước nhỏ chảy tới chỗ rặng dương mọc đằng sau cây chinar. Xa xa phía sau dòng sông cạn kiệt nhô lên một quả đồi. “Dòng suối Heemal nằm gần quả đồi đó đấy,” anh Hasan tài xế nói vậy. Chúng tôi tiếp tục chạy trên trên con đường dẫn ra khỏi thị trấn. “Suối Nagirai rất linh thiêng. Chúng tôi vẫn thấy rắn ở đó. Năm ngoái ba lính giết một con rắn tại suối Nagirai. Ba ngày sau, bọn họ bị mìn nổ tan xác.” Lòng tôn kính từ xưa của người Hindu đối với các vị thần rắn dường như còn mãi, mặc dù hầu hết dân Kashmir đã cải đạo sang Hồi giáo.

Qua vài dặm nữa thì con đường cái trở thành một lối mòn dẫn lên đồi. Ở đỉnh đồi là một doanh trại quân đội khổng lồ. Trước khi đến doanh trại khoảng nửa dặm anh Hasan dừng xe lại và nói, “Hành khách bắt buộc phải đi bộ.” Tôi đi bộ đến chỗ cổng, nơi bọn lính rà soát người tôi rồi kiểm tra chứng minh thư.

“Anh đến đây có việc gì?” một tên lính la lên.

“Tôi muốn đến thăm dòng suối ở phía bên kia doanh trại của các anh.”

“Suối hả?” Giọng của hắn ta vừa mỉa mai vừa nghi hoặc.

Tôi đoán hắn là người ở Punjab, cũng là nơi nổi tiếng về một huyền thoại tương tự. “Dòng suối ở đây là ký ức về vị Heer của Kashmir. Chuyện của bà đối với Kashmir cũng giống như Heer-Ranjha đối với Punjab vậy.” Tôi đáp.

Hắn ngửa cổ ra sau, cân nhắc lời tôi, rồi mỉm cười. “Tôi ở đây lâu rồi nhưng chưa bao giờ nghe đến chuyện này. Thôi đi đi! Đi thăm vị Heer của anh đi!”

Sau cái cổng gác cuối cùng, anh Hasan đậu xe bên cạnh một lùm cây liễu. Anh ta chỉ tay vào một cây chinar khác dưới sườn đồi. “Kia là dòng suối Heemal.”

Có một bức tường xi-măng hình chữ nhật bọc lấy con suối. Một thằng bé đang cúi người cạnh bức tường, khua làn nước phủ đầy rêu bằng một nhánh cây. Nó nhìn lên và dừng lại. Tôi hỏi thăm nó về con suối. “Nó là con suối của nàng Heemal. Cả thế giới đều biết con suối này. Nàng là công chúa của Kashmir vào thời cổ xưa và đã yêu chàng Nagirai, một hoàng tử,” nó nói, cố gắng tỏ vẻ trịch thượng. Rồi nó ngừng một chút và hỏi, “Có phải vì vậy mà anh đến đây không?”

“Đúng vậy.”

Nó cười và khua khoắng làn nước phủ rêu bằng một nhánh cây. Huyền thoại ấy sống mãi.

• • •

Trên đường về tôi đi đến ngân hàng của Ahmed. Một tấm biển màu xanh-trắng cho biết ngân hàng nằm ở tầng trệt của một tòa nhà gạch không có nét gì đặc biệt vừa được xây xong trên con đường đâm qua chợ. Howard Roark sẽ không tán thành kiểu kiến trúc đó. Cái quầy gỗ được đóng bên ngoài bằng tấm formica màu nâu rẻ tiền dài như một đường ngăn cách khách hàng và nhân viên. Đằng sau quầy, năm người đàn ông ngồi trên ghế gỗ, đầu cúi gằm vào những tờ khai và chứng từ. Một người đàn ông thấp có râu quai nón và một phụ nữ cao đeo mạng che mặt đang tranh cãi với một thư ký. Anh chàng thư ký có đôi mắt nâu và gò má cao, đang vung vẩy hai tay trên không. Tôi nhìn anh ta một lúc lâu.

“Basharat!” Ahmed nhảy ra khỏi chỗ ngồi của mình. “Làm thế quái nào mà cậu đến được đây? Tôi không thể tin được điều này!”

Cậu ấy ngưng việc và chúng tôi gần như lao ra đường, cười đùa phấn chấn. Rồi chúng tôi đi về nhà cậu ở tận đầu bên kia của thị trấn. Nó là một cái nhà xây bằng gạch và đá tươm tất nhìn ra một bãi cỏ, xa hơn một chút là vườn táo. Chúng tôi cùng ngồi trong phòng của Ahmed, hút thuốc, uống trà và thay nhau kể chuyện. Hai năm trước cậu quay về nhà trong kỳ nghỉ và thấy cha mẹ mình sống trong nỗi cô đơn và sợ hãi. Là con một, cậu quyết định ở lại nhà. Lúc đó không có công việc nào trong thị trấn phù hợp với trình độ và bằng cấp của cậu, nhưng sáu tháng sau một ngân hàng địa phương cần một chân thư ký. Trong nhiều tháng trời, cậu đấu tranh với bản thân, hy vọng quay lại với Delhi và những ước mơ của mình. Chúng đã phai nhạt dần. Ahmed đã yêu một cô gái người địa phương đang học văn chương tại một trường cao đẳng trong vùng. “Cô ấy giống tôi lắm. Cô ấy cũng mê Ayn Rand và mơ về một thành công cho riêng mình. Vì gia đình, cô ấy cũng chấp nhận một công việc tại trường học địa phương.”

Ahmed mở một cửa sổ. Chiếc khung cửa dường như đã tạo ra quang cảnh khu vườn. Vườn táo và mô đất của quả đồi nhô lên ở đằng xa. Chúng tôi nhìn thấy người mẹ già nhưng vẫn khỏe mạnh và người cha lưng còng đang ngồi trên thảm cỏ. Cậu nhìn họ mải mê nói chuyện với nhau. “Đây là điều mà tôi nghiệm ra. Howard Roark là một ảo ảnh.” Cậu phát ngôn từ tốn và đóng cửa sổ lại. Chúng tôi không nói về cuộc xung đột. Chúng tôi đang thử sống lại những ngày xa xưa. Chúng tôi nói chuyện sách vở và các nhà văn. Tôi mang theo một bản copy cuốn Suy tôn xứ Catalonia nên đưa cho cậu ấy. “Cậu sẽ tìm thấy Kashmir trong những trang sách này,” tôi nói.

Tiếng bước chân vội vã khiến chúng tôi nhìn ra cửa sổ. Chúng tôi thấy một nhóm thanh niên có súng đi vào con hẻm bên cạnh nhà. Ahmed nói với tôi rằng đó là nghĩa quân Pakistan. “Chắc là chúng đang đi đến một chỗ trú ẩn nào đó.” Tôi hỏi cậu đã bao giờ chạm mặt họ chưa. Cậu kể là có một đêm, ba người như vậy gõ cửa nhà cậu. Cậu và cha mẹ mình đã phải phục vụ cơm tối cho chúng sau khi một trong ba tên đó dùng súng đẩy vào giữa ngực cha cậu. Ahmed không nói gì ngoài những mẩu chuyện xã giao, rồi sau khi ăn tối các nghĩa quân bỏ đi. “Chúng trong độ tuổi hai mươi và mang theo nào súng, nào điện thoại vệ tinh và cả máy tính cá nhân nữa.”

Tôi vừa định hỏi Ahmed về khả năng gặp một thanh niên như thế thì cậu kể tôi nghe một câu chuyện đang làm xôn xao thị trấn Shopian. Những DVD lậu của bộ phim Bollywood có diễn viên ngôi sao Salman Khan đóng đã tới được tiệm bán băng đĩa địa phương. Khan đóng vai một sinh viên tỉnh lẻ và câu chuyện về tình yêu tuyệt vọng của anh có nhan đề Tere Naam là một trong những phim ăn khách nhất của năm. Nhạc nền phim trở nên rất thịnh hành. Mọi thanh thiếu niên đều đi cắt tóc giống ngôi sao điện ảnh Khan, kiểu tóc đó đã trở nên nổi tiếng như là một phong cách “Tere Naam”. Ở Shopian, một thành viên của phe Jaish-e-Mohammed, mười chín tuổi, người Pakistan, đã mua một bản copy của phim này. Vài ngày sau, cậu ra lệnh cho một ông thợ cắt tóc trong vùng cạo hết bộ râu quai nón của cậu rồi cắt tóc kiểu Tere Naam . Trong vài tuần sau đó, người nghĩa quân “thời thượng” đó bị bắt gặp bên ngoài trường cao đẳng nữ sinh địa phương, khi đang say đắm nhìn một cô gái mà cậu mê. Ahmed nói với tôi, “Cậu ta muốn cưới cô bé và mang cô về Pakistan. Nhưng cha mẹ cô bé không chịu. Tôi thấy cậu ta vài lần trong một cái chợ. Cậu ta trông hoàn toàn si dại và bây giờ cả thị trấn gọi cậu là Tere Naam.”

Ngoài kia, ngày đang tàn. Bãi cỏ, vườn tược và quả đồi đang trở thành những nét phác thẫm màu của bản thân chúng mới vừa đây thôi. Như thể chợt nhớ ra điều gì đó, Ahmed nhìn cái bóng tối không mời mà đến và đứng dậy. Cậu ta thắp một ngọn nến, đóng cửa sổ lại và kéo rèm. Rồi cậu lôi hai cái mền đen trong tủ ra, phủ lên trên tấm rèm và bật đèn lên. “Mấy cái mền này là sao?” tôi hỏi. “Để làm nó trông như một cái phòng tối khi nhìn từ bên ngoài vào. Chúng tôi làm như vậy với các phòng sau khi hoàng hôn xuống,” cậu giải thích. “Chúng tôi không có đèn đường và không mở đèn tại cổng hay trong sân.” Ánh đèn sáng sẽ khiêu khích bọn lính xông vào kiểm soát xem có nghĩa quân hay không và chúng sẽ chọn căn nhà làm nơi trú đêm. Mấy trăm căn nhà đã bị phá hủy trong những lần chạm trán giữa quân lính và nghĩa quân, hàng trăm người đã bị bắt, tra tấn và bỏ tù vì chứa chấp nghĩa quân. Người ta hy vọng không nghe thấy tiếng gõ cửa nhà mình vào buổi tối. Tiếng xe cộ chạy ngang hoặc chỉ cần tiếng bước chân bên ngoài cũng đủ làm cả gia đình run lẩy bẩy. Đã bao nhiều lần chúng tôi hít thật sâu và thở phào khi những tiếng động đó chìm vào trong đêm và không có ai gõ cửa?

Tôi đã trải qua kinh nghiệm sợ hãi này chỉ vài ngày trước khi đến thị trấn của Ahmed. Vào một buổi tối, Salaam, đầu bếp của nhà tôi chạy ùa vào trong phòng. Cậu là anh chàng gầy nhom, hói đầu, ám ảnh với cái radio. Cha tôi đang bận rộn với chồng hồ sơ ở phòng bên cạnh. Salaam toát mồ hôi đầm đìa và thở hổn hển. Cậu ra dấu cho tôi giữ im lặng. “Có người đã vào trong phòng khách đấy.” Có một cánh cửa từ nhà bếp mở sang phòng khách. Salaam cố mở cánh cửa đó và cảm thấy như có ai đó đang đẩy nó ngược lại. Ngày xưa, nếu bạn là người mê tín dị đoan, bạn sẽ đổ thừa là có ma, trong khi những người lý trí hơn sẽ tìm những lời giải thích hợp lý. Giờ đây, ý nghĩ đầu tiên bật ra trong đầu là về những kẻ mang súng lạ mặt.

Salaam tin rằng kẻ đã vào trong phòng khách của nhà tôi có thể mang ý đồ xấu. Chúng tôi quyết định không làm phiền cha tôi và tự đối phó với việc này. Chúng tôi nhón chân đi thật khẽ vào trong bếp. Salaam khóa cánh cửa dẫn đến cầu thang từ tầng trệt lên tầng một. Chúng tôi đứng nhìn trừng trừng vào cái cửa đang che giấu kẻ đột nhập. Rồi chúng tôi áp tai mình vào cánh cửa gỗ để lắng nghe bất kỳ dấu hiệu chuyển động nào. Không có tiếng động nào ngoài lác đác vài tiếng chó sủa trên đường. Chúng tôi rời khỏi vị trí và thì thầm với nhau, quyết định sẽ tìm vũ khí rồi xông vào phòng. Việc tìm vũ khí là cả vấn đề nhưng rồi chúng tôi cũng có được một con dao bếp. Vì cao to và lớn tuổi hơn, tôi chụp lấy con dao. Salaam đứng đằng sau tôi, tay cầm một cái nĩa như cầm dao găm. Tôi cố gắng giấu Salaam bàn tay tôi đang run lập cập trong khi Salaam cũng đang cố gắng không kém gì tôi để tỏ ra dũng cảm. Tuy sợ hãi nhưng chúng tôi đã sẵn sàng cho một cuộc chiến.

Thời khắc xông vào kẻ thù giấu mặt đã đến. Chúng tôi đá cho cửa mở rồi xông vào phòng. Con dao bếp và cái nĩa giơ cao đầy sát khí. Chúng tôi nhìn quanh phòng. Chiếc trường kỷ trống không, những cái ghế trống không, kệ sách vẫn ở chỗ cũ. Không thấy kẻ đột nhập đâu. Gần cửa, một góc thảm lật ngược lên. Nó bị kẹt và lèn cứng cánh cửa. Chúng tôi nhìn thấy nó cùng lúc và quay sang nhìn nhau. Ném vũ khí xuống sàn, chúng tôi cười ha hả.

Đó là viễn cảnh không mấy hài hước ở thị trấn của Ahmed, một vùng sống trong sự sợ hãi cực độ như nhiều nơi khác ở Kashmir. Tôi hình dung cảnh cha mẹ già của Ahmed co rúm trong nhà bếp suốt những năm Ahmed xa nhà và tôi hiểu vì sao cậu ấy đã ở lại. Trong giây phút đó tôi thấy nể trọng cậu hơn bao giờ hết. Cậu đã sống cuộc đời mình còn tốt hơn Howard Roark. Tôi quay về phía cậu với một cái nhìn kính nể trong khi cậu đang lặng lẽ bập thuốc lá và nhìn chăm chú vào hoa văn trên tấm thảm chúng tôi đang ngồi. Đốt một điếu thuốc khác, cậu nhìn tôi với vẻ mặt của một người đã già nua và mệt mỏi. “Nó giết dần giết mòn tôi,” Ahmed nói.

Cuộc chiến đã hủy hoại tất cả công trình văn hóa ở Kashmir. Trong thị trấn của cậu, không còn sót lại một thư viện hay tiệm sách nào. Người ta chỉ muốn được an toàn và không mong gì hơn nữa. Ahmed nói về nỗi sợ, rằng nhà của cậu sẽ nát vụn sau một trận đụng độ. Thậm chí ngay cả khi không có lính Ấn hay nghĩa quân xộc vào, cậu ta cũng chờ nó xảy ra. Gia đình, bạn bè và dân trong thị trấn của Ahmed chẳng nói chuyện gì khác hơn cuộc xung đột. “Cha mẹ tôi làm việc cả đời để dành dụm tiền xây căn nhà này. Chỉ cần một trận đánh là có thể biến nó thành một đống than tàn và gạch đá vỡ nát.” Tôi hỏi, “Sao cậu không bỏ đi? Cậu có thể đến bất cứ thành phố lớn nào và tạo dựng sự nghiệp. Sao cậu không quay lại Delhi?” Tôi không còn lời nào khác nữa. Cậu muốn bỏ đi nhưng không thể bỏ mặc cha mẹ mình. Và ngay cả nếu cậu rời nơi này để tìm một sự nghiệp tốt hơn ở đâu đó, nhiều Ahmed khác vẫn phải ở lại.

Gần nửa đêm. Ahmed kéo mền và rèm che cửa sổ xuống. “Giờ thì an toàn rồi. Không có động tĩnh gì vào lúc này đâu.” Thị trấn được bao phủ bởi bóng đêm; bầu trời xanh thẫm và những ngôi sao lấp lánh ánh bạc vẫn lặng lẽ.

Tôi đã không đành lòng nhờ Ahmed mạo hiểm để giới thiệu tôi với vài nghĩa quân Pakistan, nhưng lần ghé thăm thị trấn Shopian đã giúp cho nhận thức của tôi về cuộc sống trong một xã hội bị quân sự hóa nặng nề trở nên sắc bén hơn. Trên đường trở lại Srinagar, cứ vài phút tôi lại đi ngang qua những đoàn xe và doanh trại của lực lượng quân đội và bán quân đội. Ấn Độ có hơn nửa triệu lính đóng tại Kashmir. Srinagar là thành phố của những boongke. Những chiếc xe và binh lính vũ trang tuần tra mọi ngả đường hoặc chốt tại trạm kiểm soát đã trở thành một phần của phong cảnh Kashmir, giống như những hàng dương, liễu và thông. Tôi biết rằng binh lính phần lớn là những người nghèo sống tại các vùng nông thôn và thành phố của Ấn Độ – họ đứng thành hàng dài ngoài cổng các trung tâm tuyển lính quân đội và bán quân đội, khấp khởi hy vọng được nhận vào thứ công việc nguy hiểm mà tiền lương lại thấp đến mức vô lý này. Tôi còn nhớ đã xem những báo cáo về việc thiếu hụt sĩ quan trong quân đội khi nền kinh tế của Ấn Độ đi lên, nhưng chưa bao giờ thấy một báo cáo nào về sự thiếu hụt binh sĩ. Người nghèo thì nhiều vô kể. Nhưng ngoài bộ đồng phục màu ô liu hay vàng nhạt, những gương mặt cứng đờ, những hiệu lệnh cụt lủn và những khẩu súng đầy vẻ đe dọa, tôi không biết gì về thực chất con người họ. Những từ ngữ chúng tôi nói với nhau chỉ là những câu lải nhải về việc kiểm tra chứng minh thư. Vì tôi là người Kashmir nên cũng chẳng dại dột mà thử nói chuyện lâu với một tên lính.

Bây giờ, chỉ còn vài ngày nữa là đến Lễ Độc lập của Ấn Độ, ngày 15 tháng Tám, bọn lính chờ đợi sẽ có thêm nhiều vụ tấn công của quân khởi nghĩa và chúng trở nên hung hăng hơn. Mật độ lục soát người và kiểm tra chứng minh thư cũng gia tăng. Tôi ở lại nhà tại Srinagar và suy nghĩ về những binh lính tôi đã tình cờ gặp. Tôi nghĩ về hai tên lính đã thẩm vấn tôi trong vụ đàn áp tại ngôi làng.

Tôi nhớ đến một tên lính khác tôi đã gặp hồi tháng Sáu. Tôi nhớ mặt, tên và lời lẽ của hắn. Vào tháng Năm 2004, Ấn Độ tổ chức bầu cử nghị viện, kết quả được thông báo vào tháng Sáu. Đảng Bharatiya Janata (BJP) bị ra rìa và Đảng Quốc đại đã thế chỗ, giành được sự ủng hộ của liên minh Cộng sản. Các tờ báo và các kênh truyền hình đưa tin ầm ĩ về kết quả, rồi những tít lớn trên trang nhất, hàng trăm bài xã luận, và nhữn