← Quay lại trang sách

Chương 9 -

Tiếng nhạc ngừng một lúc. Ngoài sàn nhảy nghe có tiếng la ó phản đối. Rồi giàn nhạc lại trỗi lên lớn hơn trước. Một phụ nữ mặc chiếc áo vàng hoàng yến. mái tóc chít một vòng kim cương giả, cất tiếng hát. Điều không tránh được xảy đến: ông khách người Đức va vào ông khách người Anh. Cả hai bên đều buộc lẫn nhau là cố tình. Người quản lý và hai hầu bàn đóng vai trò hòa giải của Hội Quốc liên, tìm cách xoa dịu hai đối thủ, nhưng chẳng bên nào nghe. Giàn nhạc tỏ ra khéo léo hơn, họ thay đổi nhịp điệu. Điệu foxtrot nhường chỗ cho điệu tango, và hai nhà ngoại giao chỉ còn lựa chọn giữa việc đứng yên tại chỗ để đâm ra lố bịch hoặc nhảy tiếp. Nhưng chàng chiến sĩ người Đức dường như không biết đến điệu tango, trong khi đó ông khách người Anh chỉ cốt giữ cho đúng nhịp, không hề xê dịch lấy một bước. Cả hai bắt đầu bị những cặp khiêu vũ khác xô đẩy và cuộc cãi vã cũng tiêu tan luôn. Hai nhà ngoại giao mắt trừng trừng nhìn nhau trở về bàn mình.

— Tại sao hai vị anh hùng ấy lại không thách nhau đọ súng? - Schwarz hỏi giọng khinh miệt.

— Thế là ông đến được Zurich, - Tôi nhắc.

Hắn mỉm cười yếu ớt:

— Tại sao ta không đi khỏi nơi đây?

— Đi đâu bây giờ?

— Chắc phải có một quán rượu loại thường nào đó mở cửa suốt đêm. Nơi đây toàn là một đám xác chết chỉ biết nhảy nhót và chơi trò chiến tranh.

Hắn trả tiền và hỏi người hầu bàn xem còn nơi nào khác đến được không. Hầu bàn xé một mẩu giấy ở sổ tay, ghi vội địa chỉ rồi chỉ chúng tôi cách đến đó.

Chúng tôi bước ra, đi dưới vòm trời khuya sáng lạn. Sao vẫn còn chiếu sáng, nhưng phía chân trời biển và bình minh giao hòa nhau, quyện lấy nhau trong khoảng màu xanh sớm sủa. Trời lên cao hơn lúc nãy, và không khí ngát mùi muối và mùi hoa. Ngày sắp sửa rạng tỏ. Về ban ngày, Lisbon khoác nét ngây thơ diêm dúa khiến lòng ta đắm say mê mẩn, nhưng về đêm nó là một thành phố của truyện cổ tích, đổ dốc thoai thoải qua các hàng bậc thềm sáng rực xuống bờ biển, như một người phụ nữ trang phục xa hoa thả bước xuống gặp người tình u uất.

Chúng tôi đứng im lặng một lúc.

— Đây phải chăng là cách ta thường nghĩ về cuộc sống? - Sau cùng Schwarz nói, - Muôn ngàn ánh đèn và đường phố đưa ta đến cõi vô biên.

Tôi không đáp lại. Đối với tôi, cuộc sống là con tàu nằm bên dưới kia, trên sông Tagus và nó không dẫn đến vô biên… mà đến Mỹ. Cuộc đời tôi có quá nhiều phiêu lưu mạo hiểm; thời gian ném vào ta bao nhiêu là mạo hiểm lênh đênh như những quả trứng thối. Cuộc phiêu lưu độc nhất của tôi là một mảnh giấy thông hành có giá trị, dấu hộ chiếu và một vé tàu. Với kẻ phiêu du bất đắc dĩ, cuộc sống bình thường thành một giấc mơ lãng mạn nhất và phiêu lưu thành một cực hình.

— Hôm ấy Zurich mong đợi tôi cũng như thành phố này đêm nay mong đợi ông vậy, - Schwarz nói, - Đó là lúc khởi thủy của cái mà tôi tưởng mình đã đánh mất. Thời gian, ông biết rồi đấy, là cái chết được pha loãng, là thứ thuốc độc uống vào từ từ, bằng những liều lượng vô hại. Thoạt tiên chẳng những nó làm ta phấn khích mà còn khiến ta cảm thấy mình bất tử, nhưng rồi từng giọt lại từng giọt, ngày lại qua ngày nó trở nên mạnh hơn và hủy diệt máu ta. Dẫu có muốn mua lại thời non trẻ bằng cái giá của những tháng năm còn trước mặt cũng không được nữa rồi. Chất axít thời gian đã cải biến ta rồi, cái hợp chất hóa học không còn như xưa nữa. Phải cần đến phép màu. Phép màu ấy đã xảy đến tại Zurich.

Hắn đứng yên, nhìn xuống thành phố lấp lánh ánh đèn.

— Đây là đêm khủng khiếp nhất trong đời tôi, - Hắn nói chầm chậm. - Tôi muốn nhớ lại đêm ấy như là đêm hạnh phúc nhất. Ký ức ta không làm được chuyện ấy sao? Phải được chứ. Phép màu không bao giờ hoàn hảo khi nó xảy đến. Luôn luôn có những nỗi thất vọng nho nhỏ. Nhưng một khi nó đã qua hẳn rồi và không gì sửa đổi nó được nữa, thì ký ức ta có thể khiến nó trở nên hoàn hảo và nó chẳng bao giờ biến đổi nữa. Nếu bây giờ tôi còn gợi nhắc đến nó được thì nó sẽ chẳng mãi mãi như thế sao? Phép mầu ấy sẽ chẳng ở lại cùng tôi chừng nào tôi còn sống hay sao?

Lúc đứng ở bậc cấp thềm trông hắn gàn bướng thế nào ấy, mắt đăm đăm nhìn về vùng đông chói lòa đang lên dần, một hình ảnh thảm thương bị quên lãng trong đêm. Tôi cảm thấy ái ngại cho hắn vô cùng.

— Đúng thế. - Tôi nói, cố tìm cách không chạm đến cảm nhận của hắn.

— Làm sao ta có thể thực sự chắc chắn về hạnh phúc của ta cho đến lúc ta biết còn lại bao nhiêu hạnh phúc cho ta? Cách duy nhất, - Schwarz thì thào, - Là phải biết ta không nắm nó được, mà cũng đừng tìm cách nắm bắt nó. Với đôi tay vụng về ta khiến nó hoảng sợ bay đi. Nhưng nếu ta đừng đặt tay vào, nó sẽ chẳng sống mãi, không sợ hãi phía sau mắt ta sao? Nó sẽ chẳng còn mãi tại đó chừng nào mắt ta còn sống sao?

Hắn nhìn xuống thành phố, nơi có đặt một cái quan tài bằng gỗ thông và một chiếc tàu lớn bỏ neo. Sắc diện hắn tan rữa dưới nỗi đau chai điếng. Miệng là cái hốc đen ngòm, mắt hóa đá. Rồi khuôn mặt bừng sống lại.

Chúng tôi tiếp tục xuống đồi về phía cảng. Sau một hồi hắn lại bắt đầu nói tiếp:

— Chúng mình là ai? - Hắn hỏi, - Ông là ai? Tôi là ai? Và tất cả những người kia và cả những người không còn nữa, họ là ai? Cái gì là thực, người hay cái phản ánh trong tấm gương soi? Con người sống thật hay kỷ niệm về hắn, cái hình ảnh của hắn nhưng đã tỉa gọt đi phần đau khổ? Có thể nào người vợ đã chết của tôi và chính tôi nhập chung làm một? Có thể nào trước kia nàng chẳng bao giờ hẳn là của tôi và chỉ qua biến hóa tàn khốc của cái chết nàng mới ra như thế được? Phải chăng giờ đây, lúc nàng chỉ là tia sáng lân tinh lờ mờ trong óc tôi, lúc nàng có thể đáp lời tôi chỉ khi nào tôi muốn và đúng cách như tôi muốn, lúc bây giờ nàng mới là hẳn của tôi. Hay là, sau khi mất nàng một lần, tôi lại phải mất nàng lần thứ hai, và cứ mỗi một lần hình ảnh nàng nhạt nhòa đi là một lần mất mát?

Hắn nhìn tôi.

— Tôi phải nắm giữ nàng, ông không thấy điều đó sao?

Chúng tôi đến một con đường có những tầng bậc cấp đưa xuống đồi. Ngày hôm trước tại đây chắc có tổ chức cuộc lễ gì đó. Những tràng hoa úa móc vào cọc sắt giữa hai dãy nhà, khiến người ta liên tưởng đến nghĩa địa, và những dãy đèn điện xen với đèn lồng hình hoa tuy líp lớn giăng qua đường. Trên cao, cách quãng nhau độ năm sáu chục bộ [*] là những đèn ngôi sao năm cánh kết bằng bóng điện. Những đám nước, hay cuộc lễ gì đó đã qua rồi, và hãy còn lại những trần thiết trơ trọi nhạt mờ trong ánh bình minh. Bên dưới chúng tôi dòng điện như có chỗ nào hỏng, chỉ còn lại một đèn ngôi sao độc nhất với thứ ánh sáng xanh gắt như thường thấy lúc rạng đông và hoàng hôn.

— Đây rồi. - Schwarz mở cửa nói.

Một gã đàn ông lực lưỡng da sạm nắng tiếp chúng tôi.

Đó là một gian phòng trần thấp, mấy thùng rượu vang đặt dọc theo tường và dăm ba cái bàn, một cái đã có một cặp ngồi vào đó rồi. Chúng tôi gọi rượu vang và cá chiên nguội. Chẳng có gì khác để gọi.

— Ông biết Zurich không? - Schwarz hỏi.

— Có. Tôi đã bị bắt tại Thụy Sĩ. Nhà lao tử tế. Tử tế hơn tại Pháp nhiều. Đặc biệt về mùa đông. Rủi là họ không giờ giữ ta quá hai tuần, dẫu ta mong được nghỉ lại tại đấy đôi chút. Sau đó họ đẩy ta đi nơi khác rồi cái chu kỳ ở biên giới lại bắt đầu như trước.

— Quyết định vượt biên giới công khai hợp pháp dẫu sao cũng làm cho tôi thư thái hơn. - Schwarz nói. - Tôi không còn lo sợ nữa. Gặp cảnh sát ngoài đường tôi không còn phải sợ tê cứng người nữa. Tôi vẫn cảm thấy kích động, nhưng nhẹ bớt rồi, vừa đủ để biết quý cái tự do của tôi.

Tôi gật đầu tán thành.

— Nguy hiểm khiến ta nhận thức cuộc sống rõ ràng hơn. Hoàn hảo chừng nào mà nguy hiểm chưa đến quá gần.

— Ông nghĩ thế? - Schwarz nhìn tôi bằng cái nhìn kỳ lạ. - Nó còn đi xa hơn thế. - Hắn nói. - Nó đi xa mãi tận cái mà ta gọi là cái chết, còn xa hơn nữa kia. Một thành phố có ngưng hiện hữu chỉ vì ta bỏ nó mà đi không? Nó lại chẳng còn ở mãi trong ta dẫu có bị tiêu hủy đó sao? Ai biết được cái chết là gì? Có lẽ cuộc sống không gì khác hơn là một tia sáng lướt nhẹ qua khuôn mặt biến đổi của ta. Có lẽ ta đã có sẵn một khuôn mặt trước khi sinh ra và khuôn mặt này sống mãi sau khi tất cả những khuôn mặt mong manh của ta qua đi?

Một con mèo lén nhảy lên bàn. Tôi quẳng cho nó miếng cá, nó cong đuôi lên rồi quay đi.

— Ông gặp lại vợ ông tại Zurich? - Tôi thận trọng hỏi hắn.

— Tôi gặp nàng tại khách sạn. Nỗi đợi chờ, trì hoãn lúng túng tôi cảm nhận lúc ở Osnabruck nay không còn nữa, mất hẳn rồi. Nàng không còn khốn khổ và phiền muộn nữa, trong chỗ thua thiệt của cuộc đời, nàng cũng rút tỉa được đôi điều bổ ích cho bản thân. Như thể tôi gặp một phụ nữ xa lạ mà tôi yêu mến. Tưởng như quá khứ chín năm phẳng lặng đã gắn bó chúng tôi với nhau, thế nhưng cái quá khứ ấy mất hết quyền lực để vây kín nàng trong đó. Với nàng cũng thế, thuốc độc của thời gian đã bốc bay đi mất khi nàng qua biên giới. Chúng tôi không còn là những nô lệ dưới quyền uy của quá khứ; quá khứ nay là của chúng tôi. Thường thì quá khứ chỉ là cái phản ánh buồn phiền của những năm tháng; nhưng quá khứ của chúng tôi đã trở nên tấm gương chiếu lại bản sắc chúng tôi. Quyết định thoát ly và hành động thoát ly giúp chúng tôi dứt khoát hẳn với những gì đã xảy ra trước kia, thành thử điều không thể có được lại xảy đến: chúng tôi tái sinh.

Schwarz nhìn tôi và cái sắc diện lạ lùng kia lại phớt qua trên khuôn mặt hắn.

— Ấy, sự thể là như vậy đấy. Chính Helen giữ vững được tình trạng ấy, còn thì không thể, nhất là về sau này. Nàng làm được như thế cũng khá đủ rồi, bởi đó mới chính là vấn đề. Ông đồng ý chứ? Nhưng giờ đây tự tôi phải lo liệu lấy, và chỉ lần này thôi; cũng vì vậy mà tôi nói chuyện với ông đây. Vâng, lý do là ở đấy.

— Thế ông có lưu lại Zurich không? - Tôi hỏi.

— Chúng tôi lưu lại một tuần. - Schwarz nói giọng bình thường hơn. - Chúng tôi sống tại thành phố và đất nước ấy, đất nước duy nhất tại châu Âu nơi thiên hạ chưa bắt đầu quay cuồng. Chúng tôi có đủ tiền tiêu trong vài tháng, Helen còn đem theo một ít nữ trang có thể bán khi cần, và tại Pháp tôi vẫn còn giữ mấy bức tranh sau này của Schwarz. Ôi cái mùa hè năm 1939 ấy! Tưởng như thể Thượng đế muốn cho thế giới thấy rõ hòa bình là gì và thế giới sẽ phải mất gì. Chuỗi ngày hè đầy ắp vô tư lự, và chúng tôi trở nên hư hư thực thực lúc chúng tôi rời Zurich để đi xuống hồ Maggiore ở phía nam.

Helen có nhận được thư từ và điện gọi của gia đình nàng. Nàng viết ít chữ cho biết nàng đi Zurich gặp bác sĩ. Nếu gia đình muốn tìm ra nơi mặt hắn.

— Ấy, sự thể là như vậy đấy. Chính Helen giữ vững được tình trạng ấy, còn thì không thể, nhất là về sau này. Nàng làm được như thế cũng khá đủ rồi, bởi đó mới chính là vấn đề. Ông đồng ý chứ? Nhưng giờ đây tự tôi phải lo liệu lấy, và chỉ lần này thôi; cũng vì vậy mà tôi nói chuyện với ông đây. Vâng, lý do là ở đấy.

— Thế ông có lưu lại Zurich không? - Tôi hỏi.

— Chúng tôi lưu lại một tuần. - Schwarz nói giọng bình thường hơn. - Chúng tôi sống tại thành phố và đất nước ấy, đất nước duy nhất tại châu Âu nơi thiên hạ chưa bắt đầu quay cuồng. Chúng tôi có đủ tiền tiêu trong vài tháng, Helen còn đem theo một ít nữ trang có thể bán khi cần, và tại Pháp tôi vẫn còn giữ mấy bức tranh sau này của Schwarz. Ôi cái mùa hè năm 1939 ấy! Tưởng như thể Thượng đế muốn cho thế giới thấy rõ hòa bình là gì và thế giới sẽ phải mất gì. Chuỗi ngày hè đầy ắp vô tư lự, và chúng tôi trở nên hư hư thực thực lúc chúng tôi rời Zurich để đi xuống hồ Maggiore ở phía nam.

Helen có nhận được thư từ và điện gọi của gia đình nàng. Nàng viết ít chữ cho biết nàng đi Zurich gặp bác sĩ. Nếu gia đình muốn tìm ra nơi nàng ở thì cũng dễ thôi: hệ thống đăng ký ở Thụy Sĩ rất có hiệu năng. Họ không để nàng được yên với những câu hỏi và trách cứ của họ. Nàng vẫn còn khả năng trở về. Chúng tôi phải quyết định. Chúng tôi sống trong cùng một khách sạn, nhưng khác phòng. Chúng tôi là vợ chồng, nhưng hộ chiếu lại mang tên khác nhau. Ấy chính những mảnh giấy quản lý cuộc sống chúng ta vào những lúc như thế. Thật tình chúng tôi không sống chung với nhau được. Tình huống kể cũng lạ, nhưng nó khiến chúng tôi cảm nhận sâu sắc rằng khoảng thời gian trước đã về lại với chúng tôi. Theo luật này chúng tôi là chồng và vợ, còn theo luật kia thì lại không phải. Môi trường mới mẻ chung quanh, thời gian xa cách lâu dài, và nhất là cái thay đổi đột ngột đến với Helen tại Thụy Sĩ, tất cả mọi thứ đó tạo nên một tình trạng lạ kỳ. Mọi thứ đều có vẻ mơ hồ nhưng đồng thời lại hiện thực một cách mãnh liệt. Và bên trên cái thế giới kỳ quặc này của chúng tôi lơ lửng đám sương mù tan loãng dần của một giấc mơ khó lòng gợi lại. Dạo ấy, tôi không rõ cái gì đã tạo nên cái tâm trạng an bình hạnh phúc ấy. Tôi xem đó như là một món quà không chờ đợi, tưởng như Thượng đế cho tôi sống lại một quãng đời mà lần trước kia tôi đã làm hỏng và biến nó thành cuộc sống hoàn hảo. Con chuột chũi đào đất tìm đường vượt biên giới không giấy hộ chiếu này đã trở thành con chim không biết đến biên giới là gì.

Một buổi sáng tôi tìm gặp Helen thì tôi thấy nàng nói chuyện với ông Krause mà nàng giới thiệu là một viên chức làm việc tại tòa lãnh sự Đức. Nàng nói với tôi bằng tiếng Pháp khi tôi vào và gọi tôi bằng cái tên Monsiear Lenoir. Krause hiểu lầm nàng và hỏi tôi bằng thứ tiếng Pháp dở tệ tôi có phải là con của nhà danh họa nổi tiếng không. Helen bật cười.

“Ông Lenoir đây là người Geneve.” Nàng nói. “Nhưng ông ấy cũng biết nói tiếng Đức. Ông cũng rất hâm mộ Renoir.”

“Ông cũng thích trường phái ấn tượng?” Krause hỏi tôi.

“Ông ấy còn có cả một bộ sưu tập nữa cơ đấy.” Helen đáp thay tôi.

“Tôi có ít bức họa của danh sư ấy.” Tôi nói.

Biến đổi cái di sản tôi thừa hưởng được của ông Schwarz quá cố thành bộ sưu tập của tôi, dường như là một trong những trò ưa thích mới đây của Helen. Nhưng kể từ khi nhờ cái trò ấy mà tôi tránh được trại tập trung, nên tôi cứ nhập cuộc chơi luôn.

“Ông có biết bột sưu tập của Oskar Reinhart ở Winterthur không?” Y hỏi tôi giọng thân ái.

Tôi gật đầu.

“Reinhart có một bức họa của Van Gogh[*] mà tôi sẵn sàng mang một tháng của cuộc đời tôi đánh đổi lấy.”

“Tháng nào?” Helen hỏi.

“Bức họa nào của Van Gogh?” Krause hỏi.

“Bức Vườn hoa nhà thương điên.”

Krause mỉm cười:

“Một bức họa tuyệt vời.”

Y bắt đầu thao thao về hội họa, và đến lúc y đề cập đến viện bảo tàng Louvre, tôi có thể tham gia ý kiến ngay, nhờ vào chút đỉnh kiến thức nhận được từ ông Schwarz quá cố. Tôi hiểu chiến thuật của Helen. Nàng kiếm cách ngăn không để Krause nhận ra tôi là chồng nàng hoặc là dân tị nạn. Mấy tay lãnh sự Đức chẳng tiếc ngại gì mà không báo cáo họ với cảnh sát Thụy Sĩ. Tôi đánh hơi thấy Krause có ý muốn phanh phui ra mối quan hệ giữa tôi và Helen, và nàng cũng biết thế ngay từ đầu. Giờ đây nàng bịa cho tôi một người vợ là Lucienne và hai con, đứa gái đầu chơi piano rất cừ!

Krause quắc mắt hết nhìn tôi lại nhìn sang Helen. Lợi dụng chỗ chúng tôi cùng quan tâm đến nghệ thuật, y đề xuất một cuộc gặp gỡ khác. Tại sao lại không dùng bữa tại một tiệm ăn nhỏ bé trên bờ hồ, nơi có cá thật ngon nhỉ? Gặp được một người biết chút đỉnh về nghệ thuật là chuyện đâu phải ngày nào cũng có. Tôi hưởng ứng rất nhiệt tình. Tôi sẽ rất hân hạnh khi nào tôi trở về Thụy Sĩ. Chỉ từ bốn đến sáu tuần nữa thôi. Y ngạc nhiên. Không phải tôi sống ở Geneve sao? Tôi bảo y tôi là dân ở đấy thật, nhưng tôi sống tại Belfort[*]. Vì Belfort thuộc Pháp, nếu y có muốn điều tra lại càng khó khăn hơn. Lúc ra về, y không kiềm chế được câu hỏi sau cùng: Helen và tôi đã gặp nhau tại đâu? Hai kẻ cùng tính tình, hợp nhau như thế, kể ra thật là khác thường.

Helen nhìn tôi.

“Chúng tôi biết nhau tại phòng mạch bác sĩ, ông Krause ạ. Những người bệnh thường giống tính nhau,” Nàng điểm thêm nụ cười ranh mãnh, “Hơn những người khỏe mạnh rất nhiều, khỏe nên có nhiều bắp cơ thay vì dây thần kinh, ngay cả bên trong đầu họ.”

Krause tiếp nhận câu chế giễu của Helen bằng nụ cười đau khổ.

“Tôi hiểu, thưa bà.”

Không muốn để Helen qua mặt mình, tôi hỏi:

“Chẳng phải ngày nay người Đức xem nghệ thuật của Renoir là suy thoái đó sao? Còn Van Gogh thì chắc hẳn là thế rồi.”

“Với người sành sỏi như chúng tôi thì không đâu.” Krause đáp, lại thêm một nụ cười đau khổ khác, rồi lách ra khỏi cửa.

“Y muốn gì?” Tôi hỏi Helen.

“Muốn rình rập. Em có tìm cách báo anh biết để đừng đến, nhưng lúc ấy anh đã đi sang đây rồi. Anh của em phái hắn đến đấy. Sao mà em ghét cay ghét đắng những chuyện ấy thế!”

Cánh tay bạch tuộc của Sở mật vụ Gestapo vươn ra tận bên ngoài biên giới để nhắc nhở rằng chúng tôi không hẳn hoàn toàn tự do đâu. Krause có mời Helen ghé qua tòa lãnh sự nếu không có gì trở ngại. Chẳng có gì khẩn trương đâu. Có điều là giấy hộ chiếu của nàng cần đóng thêm con dấu mới. Dấu xuất cảnh nàng đã quên xin.

“Hắn bảo là quy định mới.” Helen nói.

“Hắn nói dối.” Tôi cãi lại, “Anh rành chuyện này mà. Dân tị nạn các anh luôn luôn đánh hơi được chuyện này. Nếu em đến đó, chúng rất có thể tịch thu hộ chiếu của em.”

“Thế thì anh muốn em cũng là tị nạn như anh chứ gì?”

“Đúng. Trừ phi em quyết định quay về.”

“Em ở lại.” Nàng nói, “Em sẽ không đến tòa lãnh sự nào cả và em không trở về.”

Trước kia chúng tôi không đề cập đến vấn đề này. Thế là đã quyết định rồi đấy. Tôi không trả lời, mà chỉ nhìn Helen. Phía sau nàng, tôi thấy vòm trời, hàng cây trong công viên và mặt hồ lấp lánh qua khe lá. Mặt nàng u ám trong ánh sáng chói lòa.

“Anh chẳng có trách nhiệm gì mà phải lo.” Nàng bực bội nói, “Anh không đưa em đến đây và chuyện này chẳng can dự gì đến anh. Cho dù rằng không có anh, em cũng chẳng trở về. Bây giờ anh yên tâm rồi chứ?”

“Được.” Tôi đáp, hơi ngạc nhiên và có phần xấu hổ, “Nhưng đấy không phải là điều anh đang nghĩ đến.”

“Em biết chứ, Josef ạ. Thôi ta đừng bàn đến chuyện ấy nữa. Đừng bao giờ nữa.”

“Krause sẽ trở lại.” Tôi nói, “Hoặc một người nào khác.”

Nàng gật đầu:

“Chúng sẽ gây rắc rối nếu chúng phát hiện ra anh là ai. Tại sao ta lại không đi về phía nam nhỉ?”

“Ta không thể đến nước Ý. Cảnh sát của Mussolini[*] và mật vụ Gestapo là hai bạn thân thiết đấy.”

“Còn chỗ nào về phía nam không?”

“Còn chứ. Tỉnh Ticino thuộc Thụy Sĩ. Hai nơi nghỉ mát Locarno và Lugano[*].”

Chúng tôi đáp tàu lửa chiều hôm ấy. Năm tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã ngồi tại quảng trường Ascona, trong một thế giới cách Zurich không phải là năm tiếng mà là năm mươi tiếng đồng hồ. Phong cảnh đặc sắc hệt như nước Ý. Thành phố đông nghẹt khách du lịch, và không ai có ý nghĩ nào khác hơn là bơi lội, nằm dài phơi nắng, và tận hưởng cuộc sống khi còn có thể được.

— Chắc ông còn nhớ những tháng hòa bình sau cùng? Khắp cả châu Âu bàng bạc trong không khí một linh cảm kỳ lạ. - Schwarz nói.

— Đúng thế. - Tôi xác nhận, - Mọi người đang mong đợi một phép mầu. Một thỏa ước Munich thứ hai. Rồi thứ ba. Vân vân.

— Đó là một thứ ánh sáng mờ mờ giữa hy vọng và tuyệt vọng. Thời gian đứng lặng yên. Trong bóng tối của tai họa sắp đến, cái gì cũng có vẻ huyền ảo. Như thể có một ngôi sao chổi khổng lồ thời trung cổ xuất hiện để chia bầu trời với vầng thái dương. Mọi cái đều mờ ảo. Và mọi cái đều có thể xảy ra.

— Ông đi qua Pháp lúc nào? - Tôi hỏi.

Schwarz gật đầu:

— Ông nói đúng. Cái gì khác cũng là tạm bợ cả. Nước Pháp là nơi trú ngụ cho kẻ không nhà, nhưng cũng không thoải mái đâu. Mọi con đường đều đưa ta trở về nước Pháp. Tuần lễ sau đó, Helen nhận được thư của ông Krause bảo nàng phải đến trình diện ngay tòa lãnh sự ở Zurich hoặc Lugano. Có chuyện khẩn trương. Chúng tôi phải ra đi. Thụy Sĩ là một đất nước quá nhỏ và được tổ chức quá tốt. Đi đến đâu chúng tôi cũng có thể bị phát hiện. Và bất luận ngày nào giấy tờ của tôi cũng có khả năng bị kiểm tra; người ta sẽ phát hiện giấy hộ chiếu của tôi là giả mạo và trục xuất tôi. Chúng tôi đi Lugano, nhưng lánh xa tòa lãnh sự Đức. Thay vào đó, chúng tôi đến tòa lãnh sự Pháp. Chúng tôi nhận được hộ chiếu du khách giá trị trong sáu tháng. Thế mà chúng tôi chỉ dám mong được ba tháng là tối đa.

“Chừng nào ta đi?” Tôi hỏi Helen.

“Ngày mai.”

Chúng tôi dùng bữa tối sau cùng trong khu vườn quán Albergo della Posta ở Ronco, một làng vắt vẻo như tổ chim nhạn trên sườn đồi trông xuống hồ. Đèn lồng kiểu Nhật Bản đong đưa trong mấy lùm cây, mấy chú mèo bò trên tường, và từ những bậc thềm bên dưới thoảng đưa lên mùi hương hoa hồng và hoa nhài dại. Mặt hồ với những đảo nhỏ, “người ta đồn rằng trên một hòn đảo ấy vào thời đại La Mã có ngôi đền thờ thần Vệ Nữ[*], trải rộng yên tĩnh. Những rặng núi quanh co uốn khúc màu xanh thẫm nổi bật trên nền trời chói chang. Chúng tôi ăn mì ống, uống rượu vang. Đó là một đêm thật êm dịu sầu muộn.

“Thật tiếc là chúng ta phải bỏ đi.” Helen nói. “Ước sao em được ở đây suốt mùa hè.”

“Em sẽ có nhiều dịp để nói lên điều đó.”

“Còn gì hay hơn để nói nữa không anh? Em đã nhiều lần nói ngược lại rồi.”

“Điều ngược lại là thế nào?”

“Là nếu phải ở đây thì thật là xấu.”

Tôi nắm lấy tay nàng. Da nàng rất sạm, nàng bắt nắng dễ dàng, chỉ hai ba ngày là xong, và khiến mắt nàng càng trong sáng hơn.

“Anh yêu em vô cùng.” Tôi nói, “Và lúc này đây, và mùa hè này sẽ qua đi, và phong cảnh này ta sẽ rời bỏ, và là lần đầu trong đời của anh, vì anh chỉ là tấm gương chiếu rọi hình ảnh em, và cũng nhờ thế anh có được cả hai em. Xin Chúa ban phúc lành cho buổi tối hôm nay và giờ phút này!”

“Chúa ban phúc lành cho mọi sự! Nào ta hãy uống mừng đi! Và Chúa cũng ban phước lành cho em vì sau cùng em đã dám nói lên điều mà bình thường khiến em chắc phải đỏ mặt.”

“Anh cũng đỏ mặt đây.” Tôi nói, “Nhưng chỉ bên trong thôi, và anh không xấu hổ. Ngay con sâu bướm cũng phải làm quen với ánh sáng khi nó vươn ra từ bóng tối và thấy mình có đôi cánh. Thiên hạ ở đây thật là may mắn. Hoa nhài dại sao mà thơm thế! Cô hầu bàn cho biết là có cả rừng hoa nhài như thế.”

Tới lúc rượu vang đã uống cạn, chúng tôi dạo khắp con đường nhỏ hẹp, đi vào con lộ xưa cũ đi ngang qua nghĩa địa làng Romeo đầy hoa và thập giá, rồi dọc xuống sườn đồi đến Ascona. Miền nam như một tay phù thủy: rừng cọ và trúc đào xóa tan những ý tưởng đen tối và buông thả trí tưởng tượng. Mỗi lúc các vì sao hiện ra nhiều thêm, tưởng như bao trùm cả vũ trụ. Ánh đèn từ mấy quán nước ở quảng trường Ascona tỏa ra xa mãi tận mặt hồ, và gió mát lành thoảng đưa từ dưới thung lũng lên.

Chúng tôi về căn nhà chúng tôi mướn trên bờ hồ. Căn nhà nhỏ nhưng có hai phòng ngủ. Thế trông cũng hợp với đạo Đức của địa phương.

“Chúng mình sống được bao lâu với số tiền hiện có?” Helen hỏi.

“Một năm nếu ta tiêu xài kỹ. Có thể một năm rưỡi.”

“Nếu không kỹ?”

“Thì chỉ đủ mùa hè này.”

“Thế thì ta cứ tiêu xài thả cửa.” Nàng nói.

“Một mùa hè thì ngắn đấy.”

“Vâng.” Nàng nói, giọng đột nhiên cuồng nhiệt lên. “Một mùa hè thì ngắn thật, mà cuộc đời cũng ngắn vậy, nhưng tại sao? Vì ta biết rõ nó ngắn như thế nào. Những con mèo trên tường kia có biết được cuộc sống là ngắn ngủi không? Mấy con chim kia biết không? Và đàn bướm kia nữa? Với chúng cuộc đời cứ tiếp diễn mãi thôi. Chẳng ai bảo chúng cả. Tại sao chỉ chúng ta lại phải biết?”

“Có nhiều câu trả lời cho câu hỏi ấy.”

“Thì hãy nói cho em một câu thôi.”

Chúng tôi đang đứng trong căn phòng tối mờ. Cửa lớn, cửa sổ đều mở.

“Một trong những câu trả lời ấy là cuộc sống sẽ không tài nào chịu đựng nổi nếu cứ tiếp tục mãi mãi.”

“Anh muốn nói chúng ta sẽ chán? Như Chúa vậy? Không đúng đâu. Cho em câu khác đi, anh.”

“Là sẽ có nhiều bất hạnh hơn là hạnh phúc. Và cũng may là đến một lúc nào đó cuộc đời sẽ kết thúc.”

Helen im lặng một lúc. Rồi nàng nói:

“Trong tất cả những điều anh vừa nói chẳng có lấy một chút sự thật. Ta bảo thế vì ta biết ta đến đây không phải ở lại đây và chẳng có gì để ta bám víu cả. Chẳng có gì là may. Ta chỉ bịa đặt ra thôi. Ta bịa ra nó và nó là nguồn hy vọng độc nhất của ta.”

“Thế mà ta vẫn chẳng tin vào nó đó sao?” Tôi hỏi.

“Em thì không.”

“Em không tin vào hy vọng?”

“Em chẳng tin vào cái gì cả. Một ngày nào đó số ta được gọi đến và chỉ thế thôi.”

Nàng vứt bỏ quần áo lên giường.

“Với ai thì cũng thế thôi. Người tù thì mong trốn thoát. Cũng có khi thoát được. Nhưng bận sau đâu được may mắn như thế.”

“Đó là tất cả những gì người trốn cầu mong. Chỉ là một sự tạm ngưng. Có thế thôi.”

“Vâng, chỉ có thế thôi. Với thế giới hay với chiến tranh thì cũng thế. Hy vọng một cuộc tạm ngưng khác. Nhưng chẳng gì ngăn ngừa chiến tranh được.”

“Chiến tranh thì có thể ngăn ngừa được.” Tôi nói, “Nhưng cái chết thì không.”

“Thôi anh đừng cười.” Nàng kêu lớn.

Tôi bước đến nàng. Nàng giật lùi, lọt ra cửa lớn ra ngoài.

“Gì thế?” Tôi ngạc nhiên hỏi.

Bên ngoài sáng tỏ hơn, và tôi thấy mặt nàng dàn dụa nước mắt. Nàng không trả lời mà tôi cũng chẳng hỏi lại.

“Em say.” Sau cùng nàng nói, “Anh không thấy sao?”

“Không.”

“Em uống nhiều rượu vang quá.”

“Chả có gì nhiều đâu. Còn một chai nữa đấy.”

Trên bãi cỏ phía sau nhà có cái bàn đá. Tôi đặt chai rượu lên bàn và vào trong nhà lấy ly. Lúc trở ra tôi thấy Helen băng qua bãi cỏ về phía hồ. Tôi không đi theo nàng ngay. Tôi rót đầy hai ly; trong ánh sáng dìu dịu của mặt hồ và bầu trời, chất rượu vang trông thẫm hơn. Rồi tôi chậm rãi bước ra bãi cỏ đến hàng cây cọ và cây trúc đào bên bờ hồ. Tôi đang lo cho Helen và thở phào nhẹ nhõm khi trông thấy nàng. Nàng đứng bên bờ, người khom xuống dáng trầm tư đến lạ lùng, tưởng như đang chờ đợi một điều gì, một giọng nói hoặc có lẽ một ảo ảnh nào đó. Tôi đứng lặng yên, không phải để trông chừng nàng, mà thật ra vì ngại phải làm nàng kinh hoảng. Một lúc lâu sau nàng buột miệng thở dài và đứng thẳng người dậy. Rồi nàng bước xuống nước.

Thấy nàng bơi lội, tôi trở về nhà lấy khăn và áo tắm cho nàng. Rồi tôi ngồi trên tảng đá chờ đợi. Từ xa đầu nàng với mái tóc uốn cong trông thật bé nhỏ; nàng là tất cả những gì tôi có trên cõi trần, tôi nghĩ, và tôi cảm thấy thôi thúc phải gọi nàng trở lại. Nhưng cùng lúc tôi có cảm giác nàng có điều gì đó cần giải quyết với chính nàng, một điều mà tôi không biết được, và đây là lúc quyết định. Với nàng, nước dưới hồ là định mạng, vừa là câu hỏi vừa là câu trả lời. Nàng cần phải phấn đấu để tự tìm ra một mình, như mọi người đều phải thế. Điều tốt nhất người khác có thể làm cho nàng là đứng đấy và có lẽ tiếp thêm cho nàng chút ấm áp của tâm hồn.

Helen bơi rộng ra thành vòng cung, quay lại, rồi hướng về phía tôi thành một đường thẳng. Tôi thấy nàng đến gần, cái đầu đen nhỏ bé của nàng nổi bật lên mặt hồ tím thẳm. Rồi nàng bước lên, người mảnh mai lấp lánh giọt nước hồ và chạy đến tôi.

“Trời lạnh đấy. Mà lại có ma quỷ nữa đấy. Cô hầu bàn bảo có con bạch tuộc sống bên dưới mấy hòn đảo đó.”

“Những con cá lớn nhất trong hồ này là những con cá chó già nua.” Tôi vừa nói vừa lấy khăn quấn người nàng, “Chẳng có bạch tuộc nào cả. Giống bạch tuộc bây giờ ở cả bên Đức rồi, nước Đức mới ấy. Nhưng sông hồ ban đêm lúc nào cũng có ma quỷ.”

“Nếu ta nghĩ được là có bạch tuộc, thì chắc là phải có.” Helen nói, “Ta không thể nghĩ điều gì mà nó không có.”

“Đó có thể là một lối dễ dãi để chứng minh sự hiện hữu của Thượng đế.”

“Thế anh không tin sao?”

“Đêm nay thì cái gì anh cũng tin.”

Nàng đứng sát vào người tôi. Tôi bỏ khăn ra cho nàng và đưa nàng chiếc áo tắm.

“Anh có tin chúng ta sống được hai lần không?”

“Có chứ,” Tôi đáp không chút do dự.

Nàng thở dài.

“Cảm ơn Chúa. Em chẳng muốn tranh cãi về chuyện đó, không, bây giờ thì không. Em mệt và lạnh. Em cứ mãi quên nước trong hồ này là từ núi đổ xuống.”

Cùng với rượu vang, tôi có mang theo chai rượu nho mua ở quán Albergo della Posta. Rượu grappa là một loại rượu mạnh nước trong cất từ vỏ quả nho, nặng và thơm, rất thích hợp cho những lúc như thế này. Tôi vào trong nhà mang nó ra rót cho nàng một ly thật đầy. Nàng uống chậm chậm.

“Em không thích rời khỏi nơi đây.” Nàng nói.

“Rồi ngày mai là em quên nó thôi.” Tôi đáp lại, “Ta sẽ đi Paris. Em chưa đến đó bao giờ mà. Đó là thành phố đẹp nhất thế giới.”

“Thành phố đẹp nhất là thành phố nơi đó ta được hạnh phúc nhất. Nói thế thì tầm thường vô vị quá phải không anh?”

Tôi bật cười.

“Chả phải bận tâm về kiểu cách nữa,” Tôi nói, “Nếu đó là câu nói vô vị, thì chúng ta không có được nhiều câu vô vị như thế đâu! Em dùng thêm ít rượu grappa nữa nhé?”

Nàng gật đầu và tôi đi lấy một ly khác cho nàng. Chúng tôi ngồi tại bàn đá trên bãi cỏ cho đến lúc Helen buồn ngủ. Tôi đưa nàng vào giường. Nàng ngủ bên cạnh tôi. Tôi nhìn qua cửa lớn ra ngoài bãi cỏ đang chầm chậm đổi sang màu xanh rồi màu bạc. Khoảng một giờ sau nàng thức dậy, xuống bếp lấy nước. Nàng trở lên với một lá thư đã đến khi chúng tôi ở làng Ronco. Lá thư chắc nằm trong phòng nàng.

“Thư của Martens.” Nàng nói.

Nàng đọc xong rồi đặt lá thư xuống.

“Anh ấy có biết em ở đây không?” Tôi hỏi.

“Anh ấy tin cho gia đình em biết anh ấy có khuyên em nên đi Thụy Sĩ để khám bệnh lại, và em nên lưu lại đó vài tuần.”

“Em có nhờ anh ấy điều trị không?

“Thỉnh thoảng.”

“Về bệnh gì?”

“Chẳng có gì đặc biệt.” Nàng nói, và cho lá thư vào túi xách. Nàng không đưa tôi đọc.

“Em bị vết sẹo ấy ở đâu vậy?” Tôi hỏi.

Có một vết sẹo trắng nhỏ vắt ngang qua bụng nàng. Trước tôi có thấy nó, nhưng bây giờ nước da của nàng sẫm hơn khiến nó trông rõ hơn.

“Một cuộc giải phẫu nhỏ thôi. Chẳng có gì quan trọng.”

“Phẫu thuật gì?”

“À, loại giải phẫu không tiện nói ra. Đàn bà chúng em thường có như vậy.”

Nàng tắt đèn.

“Anh đến với em thật là may quá.” Nàng thì thầm, “Không có anh chắc em không chịu nổi nữa. Yêu em đi! Yêu em đi và đừng hỏi nữa! Đừng bao giờ!”