← Quay lại trang sách

Chương 10 -

Hạnh phúc! - Schwarz nói, - Sao màu sắc hạnh phúc vương vấn mãi ký ức ta thế! Như mớ áo sơ mi rẻ tiền ở hiệu giặt. Chỉ kẻ bất hạnh mới đếm thôi. Chúng tôi đến Paris và kiếm được hai phòng tại một khách sạn nhỏ ở bến Grands Augustins, trên tả ngạn sông Seine. Không có thang máy; cầu thang ọp ẹp hư mòn với thời gian, phòng thì nhỏ; nhưng được cái có thể nhìn ra sông Seine, mấy quán sách trên bến, Pháp đình và nhà thờ Notre Dame. Chúng tôi có đủ giấy hộ chiếu. Chúng tôi là những con người, được làm người mãi đến tháng chín năm 1939. Chúng tôi là những con người cho đến tháng chín và dẫu cho hộ chiếu chúng tôi là thật hay giả cũng vậy. Nhưng đã khác khi “cuộc chiến tranh giả tạo” bắt đầu.

“Anh sống bằng cách gì dạo anh đến đây lần trước?” Một hôm Helen hỏi tôi như thế, “Anh có được phép làm việc không?”

“Dĩ nhiên là không. Chẳng những thế, anh còn không được phép tồn tại nữa. Làm sao em có thể nghĩ một người không tồn tại giữa loài người lại có thể xin được một giấy phép làm việc?”

“Thế anh sống bằng cách nào?”

“Anh không nhớ.” Tôi thành thật trả lời, “Anh làm đủ thứ nghề. Song chẳng nghề nào bền. Lúc nào ta cũng kiếm ra việc làm nếu chịu nhận lương thấp. Làm phu khuân vác ở khu Les Halles[*], hầu bàn, bán rong cà vạt, vớ, sơ mi, dạy kèm tiếng Đức. Thỉnh thoảng Ủy ban cứu trợ tị nạn cũng có cho anh chút đỉnh; ngoài ra lúc cần túng anh bán tư trang; viết dăm ba bài cho báo Thụy Sĩ.”

“Anh không kiếm lại được một chân viết báo sao?”

“Không được, em ạ. Muốn thế phải ở trong ngành báo chí và có giấy phép cư trú. Nghề kiếm ăn vừa rồi của anh là viết địa chỉ hộ trên thư. Rồi thì Schwarz xuất hiện, tiếp theo là cuộc sống giả mạo từ đó.”

“Sao lại giả mạo?”

“Vì đúng ra anh phải là một người khác kia. Sống dưới lốt tên của một người đã chết, chính tự bản thân anh được coi như không còn tồn tại nữa.”

“Em muốn anh gọi nó bằng một cái tên khác.” Helen nói.

“Gọi nó bằng từ gì thì có quan trọng gì đâu. Một cuộc sống hai mặt, một cuộc sống vay mượn. Hay là một cuộc sống thứ hai thì cũng thế thôi.Vâng, gọi thế có lẽ chính xác nhất đấy. Chúng ta sống như những kẻ trôi giạt bơ vơ, không hối tiếc vì đã mất hết ký ức. Chính ký ức khiến ta cảm thấy đã mất đi những điều tốt đẹp mà không cách gì cải thiện những điều xấu.”

Helen cười lớn tiếng.

“Giờ chúng ta là gì? Phường lừa đảo? Xác chết? Hồn ma?”

“Trước pháp luật, chúng ta là du khách. Chúng ta được quyền ở đây, nhưng không được quyền làm việc.”

“Tốt lắm.” Nàng nói, “Thế thì ta không làm việc. Ta hãy ra đảo Saint Louis ngồi trên ghế tắm nắng. Sau đó ta đến quán Café de France, dùng bữa trên hàng hiên. Chương trình như thế nghe được không, anh?”

“Chương trình hấp dẫn đấy.” Tôi đáp.

Và chúng tôi theo đúng chương trình. Tôi thôi không đi kiếm việc làm lặt vặt tạm bợ nữa. Trong nhiều tuần lễ liên tiếp chúng tôi sống chung với nhau hết ngày này đến ngày khác. Bên ngoài kia, trên thế giới, thời cuộc nổi cơn dông bão khắp nơi: những số báo phát hành đặc biệt, điều động quân đội, những phiên họp khẩn cấp của Quốc hội, nhưng tất cả những chuyện đó chẳng chút dính dáng gì đến chúng tôi. Bao nhiêu chuyện ấy chẳng xảy ra tại đây, có thế thôi. Chúng tôi đang sống trong cái vô tận. Khi thế giới chúng ta tràn ngập cảm giác, đâu còn chỗ để đếm thời gian? Ta đã ở bờ bên kia, bên kia biên giới thời gian rồi. Hay là bạn không tin như thế chăng?

Schwarz quay về tôi cái nhìn nặng trĩu lời kêu gọi tuyệt vọng.

— Ông không tin thế sao? - Hắn hỏi.

Tôi mệt đừ nên đâm ra cáu bực không kềm chế được. Những mẩu chuyện tầm phào về hạnh phúc chẳng có gì là lý thú cả, và tôi hoàn toàn dửng dưng với những quan niệm kỳ quặc của Schwarz về vô tận vô biên.

— Tôi cũng chẳng biết nữa. - Tôi trả lời một cách hờ hững, - Có thể là hạnh phúc và vô tận sẽ đến khi chúng ta chết; đến lúc đó cuốn lịch thôi bóc và thời gian cũng ngừng lại. Nhưng nếu ta cứ tiếp tục sống, thì có gì cản trở được đâu. Bất cứ điều gì ta làm cũng đều xảy ra trong thời gian, mà thời gian thì trôi mãi không ngừng.

— Tôi sẽ không để nó chết! - Đột nhiên Schwarz nói lớn giọng sôi nổi, - Tôi muốn nó đứng yên mãi như pho tượng cẩm thạch. Không như lâu đài cát trôi theo ngọn thủy triều! Kẻ đã chết mà một thời ta đã yêu giờ ra sao? Tất cả những người ấy giờ ra sao rồi? Họ chẳng chết mãi mãi rồi hay sao? Giờ họ ở nơi đâu nếu không phải chỉ trong ký ức ta? Khuôn mặt nàng, trời ơi! Tôi là người độc nhất còn nhớ đến khuôn mặt nàng. Sao tôi không thể để thời gian tàn phá nó đi? Tôi cũng biết rồi thì nó cũng sẽ phai mờ trong trí tôi, nó sẽ bị bép méo biến dạng đi nếu tôi không thể phóng chiếu và dựng nó lên bên ngoài tôi. Những dối trá và suy tư quái dị của tâm trí sẽ cuộn tròn nó lại như dây trường xuân, tiêu diệt nó để rồi sau cùng chỉ còn lại là dây trường xuân. Tôi biết điều đó. Chính vì thế thôi phải cứu vãn ký ức tôi khỏi chính bản thân tôi, khỏi cái vị kỷ xói mòn nó thúc tôi cố gắng quên đi mới sống tiếp được. Ông không hiểu sao?

— Tôi hiểu lắm, ông Schwarz ạ. - Tôi đáp, giọng ra vẻ hết sức nhẹ nhàng dè dặt, - Chính vì thế mà ông đang nói chuyện với tôi, là để bảo vệ ký ức của ông khỏi sự quên lãng của chính ông…

Tôi giận mình vì trước đây ăn nói quá lỗ mãng thẳng thừng. Người đối thoại với tôi là một tên điên khùng, với một thứ điên khùng hữu lý, kẻ điên, một thứ Don Quixote[*] mang quyết tâm chặn đứng dòng thời gian, và vì quá tôn trọng nỗi khổ đau của hắn nên tôi không tìm cách phân tích hoàn cảnh của hắn.

— Nếu tôi làm được việc đó… - Schwarz không nói tiếp được nữa.

Một lát sau anh ta lại tiếp:

— Nếu tôi làm được như thế, thì bất luận tôi làm điều gì cũng không tác dụng đến nó. Ông tin thế không?

— Vâng, tôi tin. Ký ức ta không phải là cái tráp ngà trong viện bảo tàng đầy bụi bặm. Nó là con sinh vật biết sống, biết ăn và biết tiêu hóa. Nó tự tiêu hao dần dần y như con phượng hoàng trong truyện cổ tích kia, cũng nhờ thế ta mới có thể tiếp tục sống mà không bị nó hủy diệt. Đó là điều ông ra sức đề phòng.

— Đúng thế đấy! - Schwarz nói lớn, mắt đầy vẻ biết ơn, - Ông bảo ký ức biến thành đá chỉ khi nào ta chết. Đó là điều tôi sắp làm đây.

— Những điều tôi nói chẳng nghĩa lý gì đâu. - Tôi uể oải nói. - Tôi không ưa những câu chuyện như thế. Tôi được biết quá nhiều kẻ thác loạn thần kinh. Cuộc sống lưu đày sản sinh ra bọn họ như mưa sinh nấm vậy thôi.

— Tôi không kết liễu đời tôi đâu. - Schwarz vừa bảo vừa mỉm cười, như thể hắn đoán ra được suy nghĩ của tôi, - Hiện nay mạng sống con người rất cần thiết. Tôi chỉ sẽ chết với cái tên gọi Josef Schwarz. Sáng ngày mai, khi tôi bỏ anh ra đi thì Josef Schwarz sẽ chết.

Một ý nghĩ vụt lóe lên trong trí tôi, và cùng với nó là một niềm hy vọng cuồng dại, dữ dội.

— Rồi ông sẽ làm gì? - Tôi hỏi.

— Biến đi.

— Dưới tên Josef Schwarz?

— Vâng.

— Chỉ cái tên thôi?

— Bất cứ gì có liên quan đến tên Josef Schwarz sẽ phải biến mất. Cái tôi trước kia ấy mà.

— Rồi ông làm gì với tấm hộ chiếu?

— Tôi sẽ không cần đến nó nữa.

— Ông có cái nào khác nữa không?

Schwarz lắc đầu.

— Tôi chẳng cần nữa.

— Trên tấm hộ chiếu đó có dấu nhập cảnh Hoa Kỳ không?

— Vâng, có.

— Ông vui lòng bán cho tôi nhé? - Tôi hỏi, mặc dù tôi không có tiền.

Schwarz lại lắc đầu.

— Tại sao không?

— Tôi không thể bán được. - Schwarz đáp, - Tôi nhận nó như là một quà tặng. Nhưng tôi có thể biếu ông. Sáng mai. Ông dùng nó được không?

— Lạy chúa! - Tôi nói không kịp thở, - Dùng đến nó! Ông không hiểu là nó sẽ cứu mạng sống tôi sao? Trên hộ chiếu của tôi không có dấu nhập cảnh Hoa Kỳ, và tôi cũng không biết đến ngày mai làm sao xin được đây.

Schwarz mỉm cười buồn bã.

— Sao việc đời lại lặp đi lặp lại tài tình đến như thế: Ông làm tôi nhớ tới dạo ông Schwarz sắp chết. Tôi ngồi trong phòng ông ta, và lúc bấy giờ tôi không thể nghĩ gì khác ngoài tấm hộ chiếu, nó biến tôi trở lại thành con người. Tốt thôi. Tôi sẽ biếu ông. Ông chỉ phải thay tấm ảnh trong ấy. Tuổi thì chắc được.

— Ba mươi chín. - Tôi nói.

— Vậy ông sẽ phải thêm năm tuổi. Ông có quen ai rành việc làm hộ chiếu giả không?

— Vâng, có. - Tôi đáp lại, - Tại đây có quen một người. Đổi ảnh thì cũng dễ.

Schwarz gật đầu.

— Dễ hơn là đổi nhân cách.

Hắn nhìn vào khoảng không trong một lúc.

— Ông có nghĩ là lạ nếu phải tìm hiểu thêm về hội họa không? Như Schwarz trước đây, và chính tôi bây giờ?

Toàn thân tôi run bắn lên.

— Hộ chiếu chỉ là một mảnh giấy. - Tôi nói, - Có gì là ma quái.

— Không sao à? - Schwarz hỏi lại.

À vâng, có chứ. - Tôi trả lời, - Nhưng không như ông nghĩ đâu. Ông đã ở lại Paris trong bao lâu?

Tôi đang mải băn khoăn bận bịu về lời Schwarz hứa cho tôi tấm hộ chiếu nên chẳng nghe được hắn nói gì. Tôi chỉ nghĩ tìm cách nào để xin được hộ chiếu cho Ruth. Có thể tôi để nàng đóng vai em gái tôi. Song chắc không xong đâu. Ở tòa lãnh sự Hoa Kỳ người ta kỹ lắm. Tuy nhiên tôi cũng cứ thử xem, may ra có một phép mầu thứ hai. Lúc ấy tôi mới nghe Schwarz nói.

— Một hôm hắn xuất hiện trong phòng chúng tôi tại Paris. - Hắn nói tiếp, - Phải mất sáu tuần hắn mới tìm thấy chúng tôi. Lần này hắn không phái ai trong tòa lãnh sự đến mà đích thân mình đến. Hắn đứng giữa căn phòng khách sạn dán đầy ảnh in cảnh đồng quê thế kỷ XVIII: đúng là Georg Jurgens, trung tá, anh của Helen, người đẫy đà, đôi vai rộng, cân nặng hai trăm pao[*] hoặc hơn nữa, hiện thân là dân Đức chính thống gấp mười lần hơn dạo ở Osnabruck, tuy mặc thường phục. Hắn nhìn chúng tôi chăm chăm.

“À ra là dối trá từ đầu đến cuối!” Hắn nói, “Thoạt đầu ta cũng đã nghĩ có điều ám muội khả nghi rồi.”

“Ông cũng chẳng nên ngạc nhiên làm gì.” Tôi đáp, “Đến đâu ông cũng đánh mùi được mà. Tôi chẳng hiểu tại sao.”

Helen cười to.

“Im đi!” Georg hét lớn.

“Im đi! Chớ có la lớn!” Tôi nói lại, “Nếu không tôi cho người ném ông ra khỏi đây đấy!”

“Sao không thử tự mình làm thế xem nào?”

Tôi lắc đầu.

“Ông còn chơi trò anh hùng lúc chẳng có gì nguy hiểm đó sao? Cho ông biết, ông cân nặng hơn tôi hai mươi pao đấy. Không ai để ta lên cùng một võ đài đâu. Ông muốn gì nào?”

“Đấy chẳng phải việc của anh, tên phản bội đáng nguyền rủa. Đi ra khỏi đây ngay! Ta cần nói chuyện với em ta.”

“Anh cứ đứng đây!” Helen bảo tôi.

Mặt nàng đỏ bừng vì điên giận. Nàng đứng dậy từ từ khỏi ghế và nhặt lấy cái gạt tàn thuốc bằng cẩm thạch.

“Nói thêm tiếng nữa bằng giọng đó là anh lãnh ngay cái này vào mặt đấy. Đây không phải là nước Đức.” Nàng điềm tĩnh nói.

“Không, tiếc thay! Nhưng chẳng hề gì. Trước sau gì rồi cũng là nước Đức thôi.”

“Không bao giờ.” Helen kêu lớn, “Có thể những tên người máy có vũ trang của anh sẽ chinh phục nó trong một thời gian, nhưng nó vẫn là nước Pháp. Có phải đó là điều anh muốn đến nói chuyện không?”

“Tôi đến đây đưa cô về nhà. Cô không biết những gì sẽ xảy đến với cô nếu chiến tranh bắt gặp cô tại đây sao?”

“Không nhiều lắm.”

“Chúng sẽ bắt giam cô.”

Helen sửng sốt trong một lúc.

“Có thể người ta sẽ đưa chúng tôi vào trại.” Tôi nói, “Nhưng đó là trại giam giữ chứ không phải trại tập trung như ở Đức.”

“Anh biết gì mà nói?” Georg cười chế nhạo.

“Nhiều lắm chứ.” Tôi đáp,” Tôi đã từng ở trong một trại như thế mà, cũng nhờ ông đấy.”

“Đồ sâu bọ. Anh chỉ ở trại phục hồi nhân phẩm.” Georg nói giọng khinh bỉ, “Nhưng thấy đã chẳng có lợi gì cho anh. Vừa được trả tự do lại đào ngũ ngay.”

“Tôi phục lối dùng từ của ông đấy. Nếu có ai trốn khỏi nanh vuốt của ông, đó là đào ngũ.”

“Còn gọi đó là gì nữa? Anh nhận được lệnh không rời khỏi nước Đức mà.”

Tôi phác một cử chỉ coi thường. Tôi có khá nhiều những cuộc đối đáp như thế này với Georg trước khi hắn có đủ quyền lực tống giam tôi.

“Georg luôn vẫn là một tên ngu ngốc.” Helen nói, “Một tên nhu nhược với những bắp thịt to lớn. Anh ta cần đến cái triết lý bọc thép của anh ta y như mụ đàn bà mập béo cần đến cái yếm ngực, vì thiếu nó anh ta chẳng ra hình thù gì cả. Anh đừng cãi với anh ta làm gì. Anh ta ồn ào vì anh ta yếu đuối.”

“Câm ngay đi!” Georg nói giọng bình tĩnh hơn tôi mong đợi, “Thu dọn đồ đạc đi, Helen. Tình hình nghiêm trọng đấy. Ta đáp tàu lửa đêm nay.”

“Nghiêm trọng như thế nào?”

“Sắp sửa có chiến tranh. Nếu không anh không đến đây.”

“Dẫu sao anh cũng phải đến đây thôi.” Helen nói, “Cũng y như anh đã đến Thụy Sĩ cách đây hai năm lúc tôi không muốn trở về. Thật là phi lý điên đảo đối với một đảng viên trung thành lại gặp cô em gái không muốn sống tại Đức. Anh đã kiếm đủ cách thuyết phục tôi trở về. Nhưng lần này tôi ở lại đây, nói tới nói lui chẳng ích gì đâu.”

Georg quắc mắt nhìn nàng.

“Chỉ vì tên vô lại kia? Chắc là hắn đã dụ dỗ em?”

Helen cười to.

“Tên vô lại! Thời gian đã lâu tôi chưa nghe được từ ấy. Nghe như còn ở thời Trung cổ vậy. Không đâu! Tên vô lại này, chồng tôi đấy, chẳng dụ dỗ tôi gì cả. Nói thực ra, anh ấy đang tìm đủ cách để đưa tôi trở về. Mà với những lý do đứng đắn hơn của anh nhiều.”

“Tôi muốn nói chuyện riêng với cô.” Georg nói.

“Chẳng lợi ích gì cho anh đâu.”

“Cô là em tôi.”

“Tôi là đàn bà có chồng.”

“Đó không phải quan hệ máu mủ,” Georg nói. Rồi bỗng nhiên hắn lấy giọng của đứa bé có lỗi bị la mắng, “Đến cái ghế cô cũng không mời anh. Anh đến đây từ mãi tận Osnabruck, thế mà cô chẳng buồn mời anh ngồi.”

Helen lại bật cười.

“Đây không phải là phòng của tôi. Chồng tôi trả tiền phòng…”

“Thế thì mời ngài ngồi, ngài trung tá và con cưng của Hitler.” Tôi nói, “Nhưng chớ ngồi lâu quá.”

Georg ném cho tôi cái nhìn giận dữ rồi ngồi xuống một cái rầm lên chiếc đi văng đổ nát.

“Tôi muốn nói chuyện riêng với em tôi. Anh không thể hiểu được điều đó sao?”

“Thế ông có để tôi nói chuyện riêng với nàng khi ông bắt tôi không?” Tôi hỏi.

“Hai trường hợp khác hẳn.”

“Với Georg và những đồng chí của anh ta, tất cả những gì chúng làm đều luôn luôn khác.” Helen nói. “Khi chúng giết hay bắt người vì họ không đồng ý với chúng, khi chúng tống ta vào trại tập trung là chúng bảo vệ cái danh dự đã bị bôi nhọ của Tổ quốc đấy. Tôi nói đúng không, Georg?”

“Đúng thế.”

“Anh ta luôn luôn đúng.” Helen tiếp, “Không bao giờ ngờ vực, không chút ray rứt lương tâm. Lúc nào anh ta cũng ở bên lẽ phải, phía của quyền lực. Anh ta giống hệt tên Quốc trưởng của anh ta là người yêu chuộng hòa bình nhất thế giới chừng nào mà mọi người đều chấp hành đúng những gì hắn nói ra. Còn những kẻ khác hoàn toàn là một bọn phá rối. Phải thế không, Georg?”

“Những chuyện ấy có dính dáng gì đến ta?”

“Chẳng dính dáng gì cả. Cũng như mọi thứ khác thôi. Trong cái thành phố khoan dung này, anh không nhận thấy rằng thái độ luôn tự cho mình là đúng đắn, chính đáng của các anh là lố bịch buồn cười sao? Dầu mặc thường phục, anh vẫn mang giầy ống để giẫm lên thiên hạ. Nhưng ở đây anh chẳng có chút quyền lực nào. Chưa đâu. Ở đây anh không thể bắt tôi gia nhập đoàn Phụ nữ quốc xã, toàn đám người đần độn thô bỉ. Ở đây anh không thể xem tôi như tên tù, ở đây tôi còn thở được, và tôi quyết ở lại đây để còn được thở.”

“Cô giữ hộ chiếu Đức. Sắp sửa có chiến tranh. Cô sẽ bị tống giam.”

“Không ngay bây giờ đâu. Dẫu sao, tôi thích ở tù tại đây hơn tại Đức. Bởi vì anh cũng sẽ nhốt tôi mà. Sự thể đâu giống nhau, giờ đây tôi được thở không khí ngọt ngào của tự do, giờ đây tôi đã hiểu được rằng xa lánh được bọn các anh, các trại lính, các chuồng ngựa người và những tiếng thét kinh khủng của các anh là như thế nào rồi. Tôi không thể nào ngậm miệng được nữa.”

Tôi vụt đứng dậy, không chịu nổi phải chứng kiến cảnh nàng tự bóc trần trước mặt tên Quốc xã đê tiện chẳng bao giờ hiểu được nàng.

“Lỗi là tại nó đó!” Georg gầm lên, “Thằng vô tổ quốc khốn kiếp! Hắn làm cô hư hỏng rồi. Cứ chờ đấy xem. Tôi sẽ trị cho các người một trận đích đáng.

Đến lượt y cũng đứng dậy. Y có thể cho tôi một trận đòn một cách dễ dàng. Y cao lớn gấp đôi tôi, và cái khóa học phục hồi chúng bắt tôi theo trong trại tập trung đã để lại cho tôi một khuỷu tay cứng đờ.

“Chớ có đụng vào anh ấy!” Helen nói rất nhẹ nhàng.

“Tên hèn nhát ấy à?” Georg rít lên. “Sao cô lại phải bảo vệ hắn? Hắn không thể tự lo lấy thân được sao?”

Schwarz quay người về phía tôi:

— Nói về thể lực thuần túy thì kể cũng lạ thật. Ta đều biết nó chẳng ăn nhập gì với lòng dũng cảm hoặc sức mạnh của nghị lực. Một khẩu súng trong tay người què có thể bắn xì lủng một bao đầy nhóc thịt. Ta đều biết vậy, ấy thế ta vẫn cảm thấy nhục nhã vì không thể đương đầu lại mấy tên võ sĩ nhà nghề đần độn kia. Ta biết rằng đó chẳng phải là cuộc thi đấu về lòng dũng cảm, rằng tên đánh mướn này có lẽ là một thằng cực kỳ hèn nhát. Song biết thế cũng chẳng mảy may ích lợi gì. Ta mong lời xin lỗi, ta muốn biện giải cho ta, nhưng ta cảm thấy ta chẳng khác gì một côn trùng vì không muốn bị đánh đập đến tan xác. Ông hiểu tôi muốn nói gì chứ?

Tôi gật đầu:

— Ta biết điều ấy thật là nghịch lý. Nhưng nó vẫn khiến ta cảm thấy còn tệ hơn nữa.

— Lúc ấy, nếu y tấn công vào tôi, chắc chắn tôi tự vệ ngay. - Schwarz nói. - Tôi xin thề là như vậy đó.

Tôi đưa tay lên.

— Ông Schwarz, sao ông nói với tôi điều đó? Việc gì ông phải giải thích những điều đó với tôi?

Hắn mỉm cười yếu ớt.

— Tôi nghĩ chắc là không nên. Ấy đấy, tôi vẫn tìm cách tự biện giải cho mình. Đủ rõ nó tác động sâu xa đến mức nào. Giống như cái gai nằm trong thịt. Tôi tự hỏi không biết có khi nào ta có thể khắc phục được cái thói kiêu căng hợm hĩnh ấy của phái đàn ông mình không?

— Thế rồi chuyện xảy ra làm sao? - Tôi hỏi, - Ông đánh nhau hả?

— Không. Bấy giờ Helen cất tiếng cười.

“Anh làm ơn nhìn tên khùng kia kìa.” Nàng bảo tôi, “Y nghĩ nếu y đánh anh, em sẽ được dịp chứng kiến anh hèn yếu như thế nào; y nghĩ em sẽ hối hận và quay về miền đất nơi đó quả đấm là quyền lực tối cao.”

Nàng quay sang Georg:

“Anh đủ trơ tráo gọi chồng tôi là kẻ đốn mạt hèn nhát. Anh ấy đã tỏ ra dũng cảm hơn anh có thể nghĩ nhiều. Anh ấy đã trở về vì tôi. Anh ấy quay về Đức đón tôi đi đấy.”

“Sao? Cái gì?” Mắt Georg gần lọt ra khỏi hố mắt. “Về Đức?”

Helen lấy lại bình tĩnh:

“Thôi, anh hãy quên chuyện ấy đi. Có điều là tôi đã đến đây và quyết không về đâu.”

“Hắn quay về đón cô?” Georg hỏi, “Ai giúp hắn?”

“Chẳng ai cả.” Helen đáp, “Anh thích bắt giữ vài người lắm, phải không?”

Tôi chưa bao giờ thấy nàng như thế. Toàn thân run lên vì ghê tởm, căm thù, và rạng rỡ đắc thắng vì thoát khỏi móng vuốt của y. Tôi cũng cảm thấy như thế. Nhưng một ý nghĩ lóe lên với sức mạnh mù quáng, ý nghĩ trả thù. Ở đây Georg chẳng có quyền gì. Y không thể huýt còi gọi đám mật vụ đến. Y đơn độc. Tôi phấn khích dữ dội. Tôi phải làm một điều gì đó, song chưa hình dung ra được. Tôi không đánh y được, vả chăng tôi không muốn như thế. Điều tôi muốn là tống cổ y ra khỏi nơi đây. Là xóa hẳn y khỏi mặt địa cầu không cần xét xử. Với hiện thân của tội ác, đâu cần phải xét xử lôi thôi; suy nghĩ của tôi về Georg là như thế đấy. Đây không phải đơn thuần là ý chí phục thù mà hơn thế nữa: hủy diệt y là cứu được hàng tá nạn nhân vô danh. Tôi bước đến cửa. Tôi chưa biết rõ tôi làm gì. Đầu óc tôi quay cuồng và lấy làm lạ là tôi không ngã. Tôi cần được ở yên một mình. Tôi cần phải suy nghĩ. Helen chăm chú nhìn tôi, song chẳng nói gì. Georg nhìn tôi trừng trừng vẻ khinh bỉ rồi lại ngồi xuống.

“Thế cũng xong.” Y lầu bầu lúc tôi đóng cửa lại sau lưng.

Tôi bước xuống cầu thang. Mùi cá rán từ trong bếp tỏa ra thơm lừng. Ở đầu cầu thang kế có một cái hòm kiểu Ý. Đã bao nhiêu lần đi qua đấy nhưng tôi không lưu ý đến nó. Giờ tôi mới quan sát kỹ những hình chạm trổ trên hòm ấy như thể tôi đang có ý định mua nó. Rồi cứ thế tôi tiếp tục đi như kẻ mộng du. Xuống đến tầng thứ ba tôi thấy có cửa mở. Căn phòng sơn màu xanh nhạt, cửa sổ mở toang, cô hầu phòng đang lật tấm nệm. Có điều lạ là trong tâm trạng bồn chồn mắt ta chăm chú nhìn mọi sự vật nhưng thật ra ta chẳng nhận thấy gì. Tôi gõ cửa phòng một người đàn ông tôi quen ở lầu hai. Tên anh ta là Fischer và có lần anh ta cho tôi xem khẩu súng sáu của anh ấy. Anh vẫn giữ nó vì nó giúp anh chịu đựng cuộc sống nhẹ nhàng hơn. Khả năng kết liễu cuộc đời một tên tị nạn khốn khổ như anh bất cứ lúc nào anh thích tạo cho anh cái ảo tưởng rằng anh còn được trọn quyền tự quyết.

Fischer đi vắng, song phòng anh không khóa. Anh chẳng có gì phải giấu giếm. Tôi bước vào phòng chờ anh. Tôi không có dự định rõ rệt, nhưng biết là cần phải mượn khẩu súng ấy. Giết Georg ngay tại phòng ngủ là điều vô lý, với tôi điều đó quá rõ ràng bởi sẽ nguy hiểm đến Helen và chính bản thân tôi cùng những người tị nạn khác cũng sống tại đó. Tôi ngồi vào ghế và cố giữ bình tĩnh. Nhưng không tài nào được. Tôi chỉ ngồi thừ ra đó, nhìn vào khoảng trống không.

Có tiếng chim bạch yến hót. Chim trong chiếc lồng đan treo giữa hai cửa sổ. Trước đó tôi không thấy nó nên giật thót mình như có ai va phải người tôi. Sau Helen bước vào.

“Anh làm gì ở đây?” Nàng hỏi.

“Chẳng làm gì cả. Georg đâu rồi?”

“Y đi rồi.”

Tôi không ý thức tôi ở trong phòng của Fischer bao lâu. Không lâu lắm, hình như vậy.

“Chừng nào y trở lại?” Tôi hỏi.

“Em không rõ. Y bướng bỉnh lắm. Sao anh bỏ đi? để bọn em nói chuyện riêng hả?”

“Không phải thế đâu.” Tôi đáp, “Có điều là anh không chịu đựng hắn lâu hơn được nữa.”

Nàng đứng ở thềm cửa nhìn tôi.

“Anh thù ghét em không?”

“Ghét em?” Tôi hỏi nàng trong nỗi bàng hoàng sâu sắc, “Mà tại sao?”

“Ý nghĩ ấy đến với em sau khi Georg ra đi. Nếu anh không lấy em những chuyện này đâu xảy đến cho anh.”

“Chuyện ấy cũng có thể xảy ra chứ. Hay còn tệ hơn nữa. Có thể nhờ có em mà Georg đã tỏ ra dễ dãi nhẹ tay hơn đối với anh. Chúng không dắt anh vào bên trong hàng rào kẽm gai chạy điện, chúng không treo anh lên vào cái móc thịt… Anh thù ghét em? Sao em lại có thể hỏi anh câu kỳ lại thế?”

Bỗng nhiên tôi thấy trời mùa hạ qua cửa sổ phòng Fischer. Căn phòng thụt ra phía sau: trong sân cỏ vườn cây hạt dẻ và nắng xuyên qua kẽ lá. Cơn khích động tan dần như dư vị chua chát lúc chiều tàn. Tôi trở về với cái tôi cố hữu. Tôi biết hôm nay là ngày thứ mấy trong tuần. Tôi biết ngoài kia là mùa hạ rằng tôi đang sống tại Paris, rằng là không bị giết như đàn thỏ.

“Anh nghĩ em thù ghét anh mới phải chứ.” Tôi nói, “Hay ít ra cũng là khinh miệt anh.”

“Khinh miệt anh?”

“Phải. Vì anh không ngăn được anh của em đến gần. Vì anh…”

Nói xong, tôi im lặng. Những phút giây vừa qua đã qua hẳn, xa hẳn mất rồi.

“Chúng mình làm gì ở đây?” Tôi hỏi, “Trong phòng này.”

Chúng tôi lên cầu thang.

“Những điều Georg nói đều đúng cả đấy em ạ.” Tôi nói, “Em nên biết như vậy. Nếu chiến tranh nổ ra, chúng ta thành ngoại kiều thù địch, em còn nặng tội hơn anh nữa đó.”

Helen mở toang cửa sổ, cửa lớn.

“Phòng nặc mùi giày bốt lính và mùi khủng bố.” Nàng nói, “Hãy để mùa hạ tuôn vào. Ta cứ để cửa sổ mở rồi ra phố đi anh. Chưa đến giờ ăn trưa sao anh?”

“Đến rồi đấy. Và cũng tới lúc rời khỏi Paris.”

“Tại sao?”

“Georg sẽ tìm cách gây rắc rối cho anh qua tay cảnh sát.”

“Y không biết anh có giấy hộ chiếu giả.”

“Y sẽ nghĩ ra điều đó. Và y sẽ trở lại.”

“Có thể là như thế. Song em sẽ tống khứ hắn. Nào ta đi, anh.”

Chúng tôi đến một tiệm ăn đằng sau tòa nhà Pháp đình và dùng bữa trên bàn ngoài hàng hiên. Thực đơn gồm có món chả đặc biệt, thịt bò nhận mỡ nấu với cà rốt, hành tây, xà lách, và phó mát Camembert[*]. Chúng tôi dùng rượu vang trắng Vouvray[*] và kết thúc bữa ăn bằng cà phê. Tôi nhớ rõ từng chi tiết, nhớ đến cả vỏ bánh mì màu vàng rượm và những tách cà phê bị xây xát. Tôi mệt đừ nhưng đồng thời cảm thấy biết ơn, không phải với riêng một người nào mà chung chung. Tôi có cảm giác như vừa thoát ra khỏi một cái hào bẩn thỉu tối tăm mà chẳng dám nhìn lại phía sau vì chúng tôi vô tình cũng đã là một thành phần trong đống rác rưởi ấy. Nhưng bây giờ tôi thoát khỏi rồi, và đang ngồi vào bàn có khăn bàn kẻ ô vuông trắng đỏ, thân mình cảm thấy sạch sẽ và an toàn. Qua ly rượu ánh nắng long lanh màu vàng, đàn chim sẻ ríu rít tranh ăn trên đống phân ngựa, chú mèo của chủ tiệm ngồi điềm nhiên nhìn chúng rất là dửng dưng, một thoáng gió nhẹ thổi qua công viên im vắng, và cuộc sống đẹp như chỉ đẹp được trong mơ.

Lát sau, chúng tôi đi vào. Buổi chiều Paris óng ánh vàng như mật và dừng bước bên ngoài tủ kính của một cửa hiệu may mặc nhỏ. Chúng tôi thường nghỉ chân tại đó.

“Em cũng nên sắm cái áo mới, em ạ.” Tôi nói.

“Bây giờ à?” Helen hỏi lại, “Với chiến tranh sắp sửa bùng nổ? Thế không ngông sao anh?”

“Ngông thật đấy, em ạ,” Tôi đáp. “Chính vì vậy mà ta nên mua.”

Nàng hôn tôi.

“Được rồi, anh ạ.”

Tôi ngồi lặng yên trong chiếc ghế bành cạnh cửa thông ra phòng sau. Cô thợ may lần lượt mang ra hết áo này đến áo khác và không mấy chốc Helen mải mê mặc thử chúng nên quên hẳn tôi đi. Tôi nghe tiếng mấy phụ nữ đi lui đi tới và thấy tà áo bay lất phất qua khung cửa và đôi lúc thoáng thấy cái lưng trần sạm nắng của Helen. Lòng tôi bỗng tràn ngập nỗi mệt mỏi nhẹ nhàng, một thứ chết không đau đớn mà chẳng nghĩ đến cái chết là gì. Tôi hơi xấu hổ về chính mình khi tôi ý thức tại sao tôi muốn Helen mua áo. Đó là cách phản kháng lại cái ngày hôm ấy, chống lại Georg, chống lại hoàn cảnh vô vọng của tôi, một cố gắng rất trẻ con để tự biện giải cho mình. Tôi choàng tỉnh dậy khỏi tình trạng hôn mê ấy lúc Helen đứng trước mặt tôi, mặc chiếc váy rất rộng màu sáng rực rỡ và một chiếc áo chẽn màu đen, ngắn, rất vừa vặn.

“Tuyệt quá, em ạ.” Tôi nói, “Mua ngay đi, em.”

“Nhưng mà đắt quá!” Helen nói.

Người chủ hiệu bảo đảm chúng tôi là kiểu lấy ở một cửa hiệu may mặc lớn, một cách nói dối thật dễ thương, song chúng tôi chẳng màng.

Nàng hôn tôi.

“Được rồi, anh ạ.”

Tôi ngồi lặng yên trong chiếc ghế bành cạnh cửa thông ra phòng sau. Cô thợ may lần lượt mang ra hết áo này đến áo khác và không mấy chốc Helen mải mê mặc thử chúng nên quên hẳn tôi đi. Tôi nghe tiếng mấy phụ nữ đi lui đi tới và thấy tà áo bay lất phất qua khung cửa và đôi lúc thoáng thấy cái lưng trần sạm nắng của Helen. Lòng tôi bỗng tràn ngập nỗi mệt mỏi nhẹ nhàng, một thứ chết không đau đớn mà chẳng nghĩ đến cái chết là gì. Tôi hơi xấu hổ về chính mình khi tôi ý thức tại sao tôi muốn Helen mua áo. Đó là cách phản kháng lại cái ngày hôm ấy, chống lại Georg, chống lại hoàn cảnh vô vọng của tôi, một cố gắng rất trẻ con để tự biện giải cho mình. Tôi choàng tỉnh dậy khỏi tình trạng hôn mê ấy lúc Helen đứng trước mặt tôi, mặc chiếc váy rất rộng màu sáng rực rỡ và một chiếc áo chẽn màu đen, ngắn, rất vừa vặn.

“Tuyệt quá, em ạ.” Tôi nói, “Mua ngay đi, em.”

“Nhưng mà đắt quá!” Helen nói.

Người chủ hiệu bảo đảm chúng tôi là kiểu lấy ở một cửa hiệu may mặc lớn, một cách nói dối thật dễ thương, song chúng tôi chẳng màng. Chúng tôi hớn hở bước ra khỏi cửa hiệu, tay ôm mấy gói hàng. Mua một thứ mà ta không điều kiện để mua là một điều tốt. Tôi nghĩ thế. Tính phù phiếm của món hàng đánh tan cái bóng ám ảnh của Georg. Helen mặc bộ đồ ngay tối hôm ấy, và còn mặc lại lần nữa khi chúng tôi thức giấc nửa đêm nhìn qua cửa sổ xuống thành phố ngập ánh trăng, lòng luôn luôn khao khát không lấp đầy được, ngủ cũng phải bớt đi vì ý thức đầy đủ rằng chẳng còn bao nhiêu thời gian nữa.