← Quay lại trang sách

Chương 11 -

Giờ còn lại gì đâu, - Schwarz nói, - Màu sắc đã bắt đầu phai nhạt, chuỗi thời gian đã mờ nhòa, cảnh quan đã mất đường nét. Chỉ còn lại hình ảnh vô vị dưới chùm ánh sáng đổi thay. Cũng không có được lấy một bức tranh hoàn chỉnh mạch lạc; đúng ra chỉ là những hình ảnh rời rạc hiện lên từ dòng ký ức âm u. Khung cửa sổ phòng khách sạn, một cái vai để trần, những câu thì thầm to nhỏ vất vưởng trong không như bóng ma, dải ánh sáng thước tha trên những mái nhà rêu xanh, mùi nước sông dâng lên về đêm, vầng trăng soi trên lớp đá xám nhà thờ Notre Dame, khuôn mặt nàng chan chứa yêu thương dâng hiến, lại một khuôn mặt khác nữa ở vùng Provence[*] và rặng núi Pyrénées[*], rồi cuối cùng là khuôn mặt khô cứng trước kia tôi chưa từng thấy cố ùa ra tưởng như tất cả những thứ khác là một sai lầm.

Hắn ngẩng đầu lên. Trên khuôn mặt hắn vẫn đau khổ dằn vặt tuy hắn cố nặn ép nên một nụ cười.

— Tất cả những gì còn lại là ở đây. - Hắn vừa nói, vừa chỉ lên đầu, - Nhưng ngay trong đầu nó cũng không được an toàn hơn chiếc áo treo trong tủ đầy bọ nhậy. Đấy là lý do vì sao tôi nói chuyện với ông về điều ấy. Ông có thể giữ nó an toàn, với ông chẳng có gì nguy hiểm. Ký ức của ông sẽ không xóa nhòa nó để cứu vớt ông như nó phải làm để cứu vớt tôi. Tôi không đủ sức giữ cho dĩ vãng được vững bền; cho đến bây giờ, cái khuôn mặt khô cứng kia cứ nhô lên khỏi những khuôn mặt khác như mọt ung thư, - Giọng hắn cao hơn lên, - Nhưng những khuôn mặt khác ấy lại là hiện thực, chúng là cuộc sống của chúng tôi, chứ không xa lạ, khủng khiếp, sau cùng…

— Ông vẫn tiếp tục ở lại Paris? - Tôi hỏi.

— Georg có trở lại một lần. - Schwarz cho biết, - Hắn tìm đủ mọi cách, bằng tình cảm, bằng hăm dọa. Khi hắn đến tôi đi vắng. Mãi đến lúc hắn rời khách sạn tôi mới gặp hắn. Hắn chặn tôi lại.

“Tên vô liêm sỉ kia!” Hắn nguyền rủa qua hơi thở, “Mày đang làm hại em ta. Nhưng cứ chờ đấy, rồi xem. Ta sẽ theo kịp mày mà. Trong hai tuần nữa thôi ta sẽ tóm được cả hai. Và đến lúc đó, anh bạn ơi, đích thân ta sẽ chăm nom đến mày. Mày sẽ quỳ gối xuống trước mặt ta và cầu khẩn ta kết liễu đời mày cho xong, nếu mày còn nói được.”

“Tôi tưởng tượng ra điều đó cũng dễ dàng thôi.” Tôi nói.

“Mày không tưởng tượng được gì đâu. Nếu được, mày đã đi ở nơi khác rồi. Này, ta cho mày thêm một dịp may nữa. Trong ba ngày nữa nếu em gái ta có mặt trở lại tại Osnabruck, thì ta vui lòng quên đi một phần khoản nợ này. Ba ngày, nhớ đấy. Ta nói thế là rõ ràng chưa?”

“Trước đây anh chẳng bao giờ tế nhị thế này.”

“A, thế đấy. Thế thì chớ quên, em ta phải trở về đấy. Bản thân mày cũng biết điều đó, đồ lợn. Cô ấy ốm. Đừng giả vờ là không biết. Chớ lấy vải thưa mà che mắt thánh.”

Tôi nhìn hắn. Tôi không biết là hắn bịa đặt ra câu chuyện, hay hắn nói thật, hay hắn chỉ lặp lại những gì Helen đã nói với hắn lúc trước kia khi nàng ngỏ ý muốn đi Thụy Sĩ.

“Không.” Tôi đáp,” Tôi chẳng biết chuyện gì như thế cả.”

“Không hả? Thế cũng tiện thôi. Đồ láo toét. Cô ấy cần một bác sĩ. Và gấp. Cứ viết thư hỏi Martens mà xem. Hắn biết đấy.”

Có hai người đàn ông, hình dáng tối sẫm nổi bật giữa ánh sáng ban ngày bước qua cánh cửa mở ở hành lang.

“Trong ba ngày.” Georg nhắc lại, “Nếu không mày sẽ phải trút cái linh hồn khốn kiếp của mày từng chút một đấy. Nay mai ta trở lại. Mà trong bộ quân phục đấy.”

Hai người đàn ông đã đi vào hành lang. Hắn len giữa họ rồi đi khuất. Hai người đàn ông vòng quanh tôi rồi bước lên cầu thang. Tôi bước theo họ. Helen đang đứng ở cửa sổ phòng nàng.

“Anh có gặp hắn không?” Nàng hỏi.

“Có. Y bảo em phải về vì em ốm.”

Nàng lắc đầu.

“Còn điều gì mà không nghĩ ra được nữa nhỉ?”

“Mà em có ốm không?”

“Vô lý.” Nàng đáp, “Em chỉ bịa ra thế để lấy giấy hộ chiếu thôi.”

“Hắn bảo Martens cũng biết chuyện đó.”

Helen cười lớn.

“Tất nhiên anh ấy biết chứ. Anh không nhớ sao? Anh ấy có viết thư cho em lúc mình ở Ascona ấy mà. Em thu xếp toàn bộ câu chuyện với anh ấy.”

“Thế nghĩa là em không ốm, phải thế không, Helen?”

“Em có vẻ ốm sao?”

“Không, nhưng điều ấy chẳng chứng minh được gì cả. Em thực tình không ốm đấy chứ?”

“Không.” Nàng cáu kỉnh đáp, “Georg còn nói gì nữa không?”

“Thì cũng những câu hăm dọa thường lệ thôi. Nhưng mà hắn muốn gì hở em?”

“Thì cũng bấy nhiêu chuyện thôi. Em không tin anh ấy trở lại.”

“Trước hết hắn đến đây nhằm mục đích gì?”

Helen cười một cách khó hiểu.

“Georg cứ coi em như là của anh ấy. Anh ấy muốn em phải làm mọi thứ anh ấy bảo. Georg luôn luôn vẫn thế. Ngay cả từ khi bọn em còn bé. Anh em trai thường như thế cả. Georg cứ cho mình hành động như vậy là vì lợi ích gia đình. Em căm ghét anh ấy.”

“Vì thế à?”

“Em căm ghét Georg. Thế đủ rồi. Em cũng đã bảo anh ấy như thế. Nhưng sắp sửa có chiến tranh. Anh ấy tin chắc lắm.”

Chúng tôi lại im lặng. Tiếng xe cộ trên bến Grands Augustins dường như mỗi lúc náo nhiệt hơn. Đằng sau tòa Pháp đình, nóc chuông hình xoắn ốc, trên nhà thờ Sainte Chapelie vươn lên trên bầu trời trong xanh. Tiếng rao của trẻ em bán báo nổi hẳn lên khỏi lòng âm thanh hỗn độn của xe cộ như tiếng chim hải âu lanh lảnh trên nền tiếng rì rầm của đại dương.

“Anh không đủ sức bảo vệ em.” Tôi nói.

“Vâng, em biết.”

“Em sẽ bị giam giữ.”

“Còn anh thì sao?”

Tôi nhún vai:

“Có lẽ họ cũng sẽ nhốt anh. Chúng ta sẽ bị ngăn cách.”

Nàng gật đầu.

“Nhà giam của Pháp không phải là những nơi nghỉ mát đâu.”

“Thế nhà tù của Đức?”

“Ở Đức em sẽ không bị giam giữ.”

“Em cứ ở đây.” Helen sốt ruột nói, “Anh đã làm xong nghĩa vụ của anh. Anh đã báo trước cho em biết. Giờ thì anh hãy quên chuyện đó đi. Em ở lại. Chẳng có gì liên can đến anh đâu. Em không muốn về. Thế thôi.”

Tôi nhìn nàng.

“Mặc kệ sự an toàn bản thân!” Nàng kêu lớn, “Cảnh giác đề phòng mãi em phát ngấy rồi. Từ lâu ăn mãi thứ ấy ngán quá rồi.”

Tôi vòng tay quanh vai nàng.

“Nói thì dễ đấy, Helen ạ.”

Nàng đẩy tôi ra xa.

“Thế thì hãy để cho em yên!” Nàng hét lên, “Đi đi, anh chẳng có trách nhiệm gì đâu. Để em yên. Cứ để em. Em có thể xoay trở một mình được.”

Nàng nhìn tôi như thể tôi là Georg vậy.

“Thôi đi! Làm gì mà cứ như là gà mẹ trông con thế? Anh chẳng hiểu gì hết. Thôi, đừng làm em chết ngạt với những lo âu và sự sợ trách nhiệm của anh nữa. Em ra đi đâu phải vì anh. Anh phải hiểu ra điều đó chứ. Đâu phải vì anh. Em ra đi vì lợi ích của riêng em mà.”

“Anh biết mà.”

Nàng bước lại gần tôi.

“Anh phải tin em mới được.” Nàng dịu dàng nói, “Dẫu sự thể bên ngoài như thế nào đi nữa, em cũng phải ra đi. Việc anh trở về chỉ là một ngẫu nhiên. Anh cần hiểu giùm cho em. An toàn bản thân không phải là lý do duy nhất.”

“Đúng thế thật.” Tôi nói. “Nhưng em muốn an toàn bản thân cho người khác khi em yêu thương họ.”

“Chẳng có an toàn bản thân nào cả. Anh đừng trái ý em. Em biết! Em biết rõ hơn anh nhiều. Em đã suy nghĩ về vấn đề này rất kỹ. Anh không biết được em suy nghĩ nhiều đến thế nào đâu. Thôi, ta chớ nên tranh cãi về chuyện đó nữa anh yêu. Buổi tối đang chờ đợi chúng mình đấy. Tại Paris này sẽ không còn nhiều buổi tối dành cho chúng mình nữa đâu.”

“Nếu em không chịu về Đức, thì về Thụy Sĩ được không?”

“Georg cho biết bọn Quốc xã sắp sửa tràn qua Thụy Sĩ y hệt kiểu vua Đức đã ùa qua nước Bỉ thời đệ nhất thế chiến vậy.”

“Đâu phải chuyện gì Georg cũng biết.”

“Hiện giờ thì ta hãy cứ ở đây. Có thế toàn bộ câu chuyện chỉ là một sự dối trá. Làm sao mà biết chính xác cái gì sắp xảy ra? Cũng như cuộc chiến tranh trước đây ấy thôi. Tại sao lại không thể có một thỏa ước Munich thứ hai?”

Tôi không rõ nàng có thực bụng tin điều nàng nói không, hay là nàng chỉ tìm cách trấn an tôi. Tin vào những điều trùng hợp với điều ta đang mong ước thì thật là dễ. Mà tối hôm ấy tôi tin như thế đấy. Làm sao nước Pháp có thể tham chiến? Chẳng chuẩn bị gì cả. Chắc là phải đầu hàng thôi. Tại sao họ lại tham chiến vì người Ba Lan? Trong vụ Tiệp Khắc bị xâm lăng, nào họ có chịu nhúc nhích lấy ngón tay.

Mười ngày sau đó, biên giới đóng cửa. Chiến tranh đã mở màn.

— Ông có bị bắt giữ ngay không, ông Schwarz? - Tôi hỏi.

— Chúng tôi được thêm một tuần nữa. Người ta cấm chúng tôi rời khỏi thành phố. Kể cũng buồn cười. Trong năm năm suốt họ cứ tìm cách tống khứ tôi ra, thế rồi thình lình họ lại không chịu để tôi đi. Lúc bấy giờ ông ở đâu?

— Ở Paris. - Tôi đáp.

— Ông cũng bị nhốt tại trường đua ngựa chứ?

— Tất nhiên.

— Thế mà tôi không nhớ ra ông.

— Có cả hàng trăm người tị nạn ở trường đua ngựa, ông Schwarz ạ.

— Ông còn nhớ mấy ngày sau cùng trước khi chiến tranh được tuyên bố, lúc Paris có lệnh tắt đèn?

— Vâng, dĩ nhiên còn nhớ. Lúc bấy giờ cả thế giới như rơi vào cõi tối tăm.

— Những ngọn đèn xanh nhỏ ở ngã tư đường. - Schwarz nói, - Chúng làm tôi nhớ lại những ngọn đèn trong bệnh viện. Trong cái bóng tối xanh lờ mờ và lạnh lẽo ấy, tưởng như cả thế giới bị ốm. Từng đợt sóng run rẩy chạy khắp châu thân. Tôi nghĩ chúng tôi nên có một ít tiền mặt, nên đem bán một trong số những bức tranh ông Schwarz trước kia để lại. Gặp phải lúc khó khăn. Tay mua bán tranh mà tôi đến gặp đề xuất một giá rẻ mạt. Tôi không thuận và mang bức tranh về nhà. Sau cùng tôi bán cho một dân tị nạn giàu có trước đây có liên hệ gần xa với ngành điện ảnh tại Đức. Anh ta mất tin tưởng vào tiền giấy nên mua bất cứ thứ gì lọt đến tay. Tôi gửi lại bức tranh cuối cùng cho chủ khách sạn giữ hộ cho chắc. Sau đó cảnh sát đến kiếm tôi. Hôm ấy là vào buổi chiều. Họ có hai người. Họ bảo tôi nói đôi lời từ giã với Helen. Nàng đứng đó, mặt xanh như tàu lá, đôi mắt rực lửa.

“Có thể như thế này được sao?” Nàng nói.

“Phải, em ạ.” Tôi nói, “Chuyện này rất có thể, em ạ. Sau này họ cũng sẽ đến kiếm em thôi. Tốt hơn ta không nên quăng thẻ hộ chiếu của ta đi. Em cũng thế, giữ cái của em lại.”

“Đúng vậy.” Một trong hai viên cảnh sát nói bằng tiếng Đức rất chuẩn, “Tốt hơn nên giữ nó theo người.”

“Cảm ơn.” Tôi đáp, “Các ông có thể để chúng tôi một mình cho chúng tôi từ giã nhau không?”

Viên cảnh sát nhìn ra phía cửa.

“Nếu tôi có ý chạy trốn, tôi đã làm thế cách đây nhiều ngày rồi.” Tôi nói.

Y gật đầu đồng ý. Tôi cùng Helen đi về phòng nàng.

“Khi nó thực sự xảy đến,” Tôi nói, “Nó không như lúc ta chỉ đề cập đến nó thôi.”

Nói xong tôi ôm nàng trong vòng tay. Nàng gỡ tay tôi ra.

“Em liên lạc với anh bằng cách nào đây?”

Như thường lệ, chúng tôi có một cuộc bàn thảo vào giây phút cuối. Chúng tôi có hai địa chỉ, địa chỉ của khách sạn và của một người bạn. Người cảnh sát gõ cửa. Tôi ra mở.

“Nhớ mang theo cái mền.” Y dặn dò, “Chỉ là vài ngày thôi, nhưng dẫu sao cũng nên mang theo mền và cái gì để ăn.”

“Tôi không có mền.”

“Em sẽ mang cho anh một cái.” Helen nói.

Nàng nhanh tay thu gói tất cả những gì ăn được mà chúng tôi có sẵn.

“Có thật là chỉ một hai ngày thôi không, các ông?” Nàng hỏi.

“Chậm nhất là thế.” Viên cảnh sát đáp, “Chỉ kiểm tra lại căn cước và các thứ ấy. Chiến tranh mà, thưa bà.”

“Chúng tôi cũng đã thường nghe nói như thế ạ.”

Schwarz lấy điếu thuốc trong túi ra châm lửa:

— Ông cũng biết như thế nào rồi. Cảnh chờ đợi ở đồn cảnh sát, những đợt tị nạn khác ào đổ đến, bị vây quanh cứ như họ là những tên quốc xã nguy hiểm, chuyến đi trên xe chở thóc đến Sở cảnh sát, buổi chờ đợi vô cùng tận ở đấy. Ông có đến Phòng Lépine rồi chứ?

Tôi gật đầu. Phòng Lépine là một phòng rộng rãi trong sở cảnh sát, kiểu rạp chiếu phim, nơi thường chiếu những phim huấn luyện cho cảnh sát. Có máy chiếu và vài trăm ghế.

— Tôi sống ở đó hai ngày. - Tôi trả lời. - Ban đêm họ đưa chúng tôi xuống hầm chứa than ngủ trên ghế dài. Qua sáng hôm sau thức dậy trông chúng tôi chẳng khác gì người cạo ống khỏi.

— Chúng tôi đã phải ngồi trên ghế ấy không biết bao nhiêu ngày. - Schwarz kể lại. - Người ngợm chúng tôi dơ dáy bẩn thỉu. Chẳng bao lâu chúng tôi trông hệt những tên tội phạm mà chính họ cũng nghĩ thế. Georg đã trả thù tôi được rồi, dù lúc đầu y biết được địa chỉ của chúng tôi. Có kẻ tra cứu hồ sơ giùm hắn. Hắn chẳng giấu diếm gì về việc hắn có chân trong đảng. Việc này đã hai năm rõ mười. Người ta nghi tôi là gián điệp. Ngày ngày tôi bị thẩm vấn bốn lần về quan hệ với Georg và về đảng Quốc xã. Mới đầu tôi còn cười: chuyện quá vô lý. Nhưng sao đó tôi thấy rằng những cái vô lý có thể trở nên rất nguy hiểm. Điển hình là đảng Quốc xã tại Đức, và giờ đây, dưới tác động mạnh mẽ của bộ máy quan liêu và chiến tranh, ngay cả nước Pháp vốn là quê hương của lý trí, dường như cũng phát điên luôn. Vô tình, Georg để lại sau hắn một quả bom nổ chậm. Thời chiến mà bị xem là gián điệp quả thật không phải là chuyện đùa.

Ngày ngày người ta liên tiếp đưa vào những đợt người bị bắt, nét mặt kinh hoàng. Chẳng có ai bị giết ngoài mặt trận. Đây đúng là một cuộc chiến tranh kỳ quái, nói theo lối những người biết chuyện, nhưng một bầu không khí chiến tranh bao trùm lên đất nước như nạn dịch. Mạng sống và phúc lợi cá nhân chẳng nghĩa lý gì. Người ta không còn là con người nữa, họ được phân loại theo các tiêu chuẩn quân sự, thành binh sĩ tập hợp với nghĩa vụ quân sự, mạng sống thích hợp cho nghĩa vụ quân sự, và kẻ thù.

Bước qua ngày thứ ba trong Phòng Lépine, tôi kiệt sức hẳn. Một số trong bọn chúng tôi được đưa đi nơi khác. Số còn lại chụm đầu nhau lại nói chuyện thì thầm, hoặc ngủ, hoặc ăn. Cuộc sống bị giảm xuống mức những nhu cầu tối thiểu. Tuy nhiên, chúng tôi không đến nỗi quá chán nản. So với trại tập trung của Đức, thì đây chẳng thấm tháp gì. Tệ lắm thì bạn có thể bị đá vào mông hoặc bị xô đẩy đôi chút nếu bạn chấp hành mệnh lệnh chậm. Nhưng quyền lực là quyền lực, cảnh sát là cảnh sát, khắp nơi trên thế giới đều như thế cả.

Sau những lần điều tra thẩm vấn người tôi quá mệt mỏi. Trên cái bục đặt dưới màn ảnh, toàn lính canh chúng tôi ngồi thành hàng, chân duỗi thẳng. Căn phòng sáng lờ mờ, tấm màn vải trần trụi cáu bẩn, và chúng tôi ở bên dưới, một hình ảnh buồn thảm như là biểu tượng cho bản thân cuộc sống vậy. Bạn luôn luôn là tên tù hoặc tên gác tù, chỉ được tự do quyết định muốn xem loại phim nào, phim giáo dục, phim hài hước hay phim bi kịch. Cuối cùng chẳng có gì cả, chỉ có cái màn trống trơn, một con tim đói khát, và những tên đại biểu ngu xuẩn của quyền lực cứ làm như thể chúng là bất tử và lúc nào cũng có lý, tuy những màn ảnh bao năm nay vẫn trống trơn. Luôn luôn sẽ như vậy, tôi nghĩ thế, và chẳng có gì thay đổi. Đến một ngày nào đó tôi sẽ tan biến đi và chẳng ai khôn ngoan từng trải hơn ai. Ông đã sống qua những giờ khắc ấy rồi, ‘lúc niềm hy vọng lịm chết’, ông cũng qua câu ấy rồi.

Tôi gật đầu. Giờ khắc của sự tự sát lặng lẽ. Sức đề kháng của ta đã cạn. Ta bước một bước cuối cùng không suy nghĩ đắn đo, gần như là ngẫu nhiên vậy.

— Cửa mở. - Schwarz kể tiếp, - Và cùng với luồng ánh điện vàng từ hành lang, Helen bước vào. Tay nàng xách cái giỏ và cặp mền, chiếc áo da beo vắt trên cánh tay. Tôi nhận ra nàng qua dáng đi và cách nàng ngẩng cao đầu. Nàng đứng lặng yên trong một lúc. Rồi nàng đi qua mấy hàng tủ, đảo mắt kiếm. Nàng đi sát bên tôi mà không hay. Gần giống như dạo ở nhà thờ Osnabruck.

“Helen.” Tôi cất tiếng gọi.

Nàng đảo quanh. Tôi đứng dậy. Nàng nhìn tôi.

“Họ đã làm gì anh thế này?” Nàng giận dữ hỏi.

“Chẳng có gì đâu. Bọn anh ngủ trong hầm than, nên nước da không được tốt, thế thôi. Em đến đây bằng cách nào?”

“Em bị bắt.” Nàng nói giọng có chút tự hào, “Y như anh và sớm hơn mấy phụ nữ khác nhiều. Em đang mong gặp anh ở đây.”

“Tại sao họ bắt em?”

“Thế tại sao họ bắt anh?”

“Vì họ nghĩ anh là gián điệp.”

“Em cũng thế. Vì giấy hộ chiếu của em hợp lệ.”

“Làm sao em biết?”

“Em vừa bị thẩm vấn và họ cho biết như vậy. Em thuộc loại tị nạn không đáng tin cậy. Họ chưa bắt đến phụ nữ. Một người đàn ông nhỏ con, tóc bôi mỡ bảo em thế. Có phải y là người đã hỏi cung anh không? Y hôi mùi ốc.”

“Anh chẳng rõ. Cái gì ở đây cũng hôi mùi ốc. Cảm ơn chúa, em có đem chăn vào.”

“Mang được thứ gì là em mang.”

Helen mở giỏ ra. Hai chai va vào nhau.

“Cognac,” Nàng nói. “Không có rượu vang. Còn thức ăn thế nào?”

“Gần như em đã nghĩ. Họ cho ta gửi ra ngoài mua sandwich.”

Helen khom người xuống xem xét tôi rất kỹ.

“Anh giống nô lệ trên chiếc tàu chở nô lệ châu Phi thuở nào. Anh không được tắm rửa sao?”

“Cho đến bây giờ thì chưa. Nhưng không phải vì họ bủn xỉn đâu. Chỉ vì lộn xộn chưa tổ chức được đó thôi.”

Nàng lấy chai cognac ra.

“Nắp chai đã mở rồi.” Nàng bảo, “Người quản lý khách sạn làm giúp em. Ông ấy thật tử tế. Ông ấy bảo ở đây em không kiếm được đồ mở chai đâu. Nào, anh uống chút đi.”

Tôi uống một ngụm rõ lớn rồi chuyền cái chai lại cho nàng.

“Em cũng phải uống một ly chứ.” Nàng nói. “Đây cũng là cách em tỏ lòng kính trọng đối với nền văn minh. Ta hãy giữ vững truyền thống ấy chừng nào còn có thể được.”

Nàng rót đầy ly và uống cạn.

“Em thơm mùi nắng hạ và tự do.” Tôi nói. “Bên ngoài ra sao hở em?”

“Như thời bình thôi. Các quán nước đông nghẹt khách. Trời vẫn xanh.”

Nàng nhìn lên dãy cảnh sát ngồi trên bục rồi cười nói:

“Nó làm em nghĩ đến gian hàng chơi trò bắn súng. Nếu ta bắn vào hình nộm trên kia, và nếu con nộm đổ nghiêng, ta lãnh được chai rượu hoặc cái gạt tàn thuốc.”

“Ở đây hình nộm lại có súng.”

Helen móc trong giỏ ra khoanh pa tê.

“Quà biếu của ông chủ đấy.” Nàng nói. “Ông ấy có nhắn thêm: ‘Xin có lời chào hỏi nồng nhiệt nhất’ và ‘Mẹ bố nó chiến tranh’. Em có mang nĩa và dao đây. Và cho em nói lại: Nền văn minh muôn năm.

Bỗng nhiên tôi cảm thấy vui vui. Helen còn đây, chẳng có gì mất mát cả. Vẫn chưa có đánh nhau, và biết đâu đúng là chúng tôi sẽ được phóng thích sớm.

Qua chiều hôm sau nghe có tin chúng tôi sắp sửa bị cách ly. Tôi sẽ được đưa đến trại chuyển tiếp ở Colombes còn Helen đến nhà giam La Petite Roquette. Dẫu họ có tin chúng tôi là vợ chồng, điều ấy cũng không giúp gì được. Những cặp vợ chồng khác cũng phải bị cách ly.

Chúng tôi ngồi suốt đêm dưới hầm than với sự cho phép của người lính già tốt bụng. Có người mang xuống ít đèn cầy. Một số trong chúng tôi đã được di chuyển tới nơi khác; còn lại độ trăm người. Kể cũng nực cười cho cái cảnh của những người chống phát xít một cách kỹ lưỡng đến như thế. Nó khiến ta nghĩ đến nước Đức.

“Tại sao họ muốn cách ly chúng ta?” Helen hỏi.

“Anh không biết. Không phải vì họ tàn bạo, mà chỉ vì ngu xuẩn đấy thôi.”

“Nếu họ nhốt đàn ông, đàn bà chung trong một trại,” Một lão người Tây Ban Nha nhỏ người lên tiếng giải thích, “Thì chỉ có ghen tuông đánh đấm thôi. Đấy, vì sao các bạn phải bị cách ly. Chiến tranh mà!”

Helen ngủ cạnh tôi, người cuộn trong chiếc áo da beo. Có ít chiếc ghế dài bọc nệm để riêng dành cho phụ nữ lớn tuổi. Có bà nhường chiếc ghế của mình cho Helen ngủ từ ba tới năm giờ, song nàng từ chối.

“Sau này tôi sẽ có đủ thì giờ ngủ một mình bằng thích.” Nàng nói.

Đêm ấy là một đêm kỳ dị. Tiếng nói chuyện dần dần tắt lịm. Bà lão thôi khóc thút thít. Thỉnh thoảng một bà thức giấc sụt sùi khóc rồi lại trôi vào giấc ngủ như được bao phủ trong lớp len đen. Đèn cầy tắt từng cây một. Helen tựa vai tôi ngủ. Trong giấc ngủ nàng quyện tròn tôi trong vòng tay; đến lúc thức giấc nàng lại thì thầm với tôi. Có lúc giọng nàng thỏ thẻ như đứa bé, có lúc như người phụ nữ đang yêu bằng những lời ta không thường nói vào ban ngày, hay kể cả ban đêm trong những trường hợp bình thường, những ngôn từ thống khổ chia ly, những ngôn từ của thân xác nổi lên chống đối cảnh phân ly, những ngôn từ của da thịt máu mủ, những ngôn từ oán trách, lời oán xưa nhất trên đời: tại sao ta không được sống bên nhau, tại sao lúc nào ta cũng phải đi trước, tại sao cái chết cứ mãi mãi nắm tay kéo lôi ta, khiến ta phải bước tới, dẫu người ta mệt nhoài, dẫu trong một giờ khắc ngắn ngủi ta cố giữ chặt cái ảo ảnh về chốn vĩnh cửu? Lát sau đầu nàng tụt từ vai tôi xuống đầu gối. Tôi giữ lấy đầu nàng trong tay và thấy nhịp thở nàng qua ánh nến sau cùng. Có tiếng đàn ông thức dậy mò mẫm giữa mấy đống than tìm nơi đi giải. Ánh đèn yếu ớt lung linh, những chiếc bóng khổng lồ nhảy múa quanh hầm. Rồi ánh đèn sau cùng cũng phụt tắt, chỉ còn lại bóng đêm mịt mờ mê sảng. Có một lần nàng giật mình thét một tiếng chát chúa.

“Anh đây mà, em.” Tôi bảo thầm. “Đừng sợ. Mọi sự đều tốt đẹp mà.”

Nàng nằm xuống lại và hôn tay tôi.

“Vâng, anh đây rồi.” Nàng nói khẽ. “Cứ ở với em mãi, nghe anh.”

“Thì anh lúc nào cũng ở với em kia mà,” Tôi thì thầm, “Cho dẫu chúng mình có bị chia cách trong chốc lát. Anh luôn luôn sẽ tìm ra em.”

“Anh sẽ tìm ra em?” Nàng hỏi nhỏ, rồi lại ngủ thiếp đi.

“Anh luôn luôn sẽ tìm ra em. Luôn luôn! Dẫu em ở mãi tận đâu. Y như dạo vừa rồi anh đã tìm gặp em đó.”

“Tốt rồi, anh ạ.” Nàng thở dài nói rồi úp mặt vào lòng bàn tay tôi.

Tôi không ngủ. Thỉnh thoảng tôi cảm thấy môi nàng lướt nhẹ trên mấy ngón tay tôi, và có một lần tôi nghe nước mắt nàng nhỏ giọt lên đó, song tôi vẫn lặng thinh. Tôi rất yêu nàng, và dường như tôi chưa bao giờ, kể cả lúc chiếm nàng, chưa bao giờ yêu nàng hơn vào cái đêm nhớp nháp này đầy tiếng ngáy lẫn tiếng nước tiểu rớt xuống đống than nghe thành tiếng huýt lạ lùng. Tôi ngồi thật yên tĩnh, tâm hồn tan loãng trong yêu thương. Rồi buổi sáng đến, một màu xám sớm sủa nhạt nhòa xóa lấp mọi màu sắc khác và để lộ ra thân xác gầy guộc dưới làn da. Thình lình tôi tưởng như Helen đang hấp hối và tôi phải đánh thức nàng dậy để giữ cho nàng sống. Nàng tỉnh giấc, hé mắt nhìn tôi.

“Anh nghĩ ta có thể kiếm chút cà phê và vài bánh mì sừng trâu không?” Nàng hỏi.

Tôi tràn ngập hạnh phúc.

“Để anh thử tìm cách mua lại của người lính gác xem sao.” Tôi nói.

Helen mở to đôi mắt khi nhìn tôi.

“Chuyện gì thế?” Nàng hỏi. “Trông anh như vừa trúng số độc đắc vậy. Ta sắp được phóng thích sao?”

“Không đâu. Anh tự phóng thích anh đó.”

Nàng vùi đầu vào tay tôi, dáng còn ngái ngủ.

“Anh không tự tạo cho mình chút yên nghỉ được sao?”

“Được chứ.” Tôi nói. “Mà thật ra, anh phải thế mới được. Trong khoảng thời gian khá lâu, anh e rằng phải như vậy. Anh sẽ ít được dịp tự quyết định lấy một mình. Nếu em nhìn vào sự thể bằng cách đó thì rất dở cho anh.”

“Cái gì cũng là nguồn an ủi cả, anh ạ.” Helen vừa ngáp vừa nói. “Chừng nào ta còn sống, cái gì cũng an ủi được ta. Anh chẳng biết thế sao? Anh có nghĩ họ sẽ đem ta ra bắn vì tội gián điệp không?”

“Không, họ sẽ nhốt ta lại thôi.”

“Vậy là những dân tị nạn không bị xem là gián điệp họ sẽ chỉ nhốt thôi sao?”

“Đúng thế đấy. Họ bắt giữ bất luận ai rơi vào tay họ. Họ đã bắt giữ đàn ông rồi đó.”

Helen choàng người dậy.

“Thế thì có khác gì?”

“Có lẽ những người khác sẽ được ra sớm hơn.”

“Biết sao nói trước được. Có lẽ chúng mình sẽ được đối xử tốt hơn chính vì họ xem mình là gián điệp.”

“Vô lý, Helen ạ.”

Nàng lắc đầu.

“Không vô lý đâu anh. Kinh nghiệm đấy. Anh không biết rằng ở vào