Chương 12
Một ngày nào đó, có lẽ thế. - Schwarz nói. - Thời đại chúng ta sẽ được nhắc nhở đến như là một thời đại của mai mỉa, trớ trêu. Chẳng phải sự mỉa mai dí dỏm của thế kỷ mười tám, mà là cái mỉa mai ngu xuẩn hiểm độc của kỷ nguyên thô bạo với tiến bộ kỹ thuật và suy thoái văn hóa. Hitler cứ mãi gào lên rằng hắn ta là sứ đồ của hòa bình và chính các nước khác áp đặt chiến tranh cho hắn. Điều đó chẳng những hắn nói cho cả thế giới đều biết, mà bản thân hắn cũng tin như vậy. Năm mươi triệu người Đức cùng với hắn đều tin như vậy. Sự thật là chỉ có mình chúng tái vũ trang trong bao năm nay, trong khi chẳng có nước nào khác chuẩn bị cho chiến tranh, sự kiện này chẳng mảy may tác động đến dư luận của chúng. Lại còn điều mỉa mai này nữa là những ai trong bọn chúng ta mà thoát ra khỏi trại tập trung của Đức thì lại đáp vào các trại của Pháp. Bạn cũng không thể phẫn nộ quá mức về điều đó. Một nước đang chiến đấu cho sự sống còn của họ có nhiều việc cần phải lo hơn là một sự công bằng hoàn hảo cho người tị nạn. Chúng ta không bị tra tấn, giết bằng hơi độc, bị bắn mà chỉ bị giam giữ thôi: còn mong muốn gì hơn nữa?
— Ông gặp lại bà nhà vào lúc nào? - Tôi hỏi.
— Không phải đợi lâu. Ông có ở trại Le Vernet không
— Không. Nhưng tôi biết đó là một trong những trại thê thảm nhất Pháp.
Schwarz mỉm cười chua chát:
— Đó chỉ là vấn đề mức độ. Ông có biết câu chuyện nói về mấy con cua bị ném vào nồi nước lạnh để nấu chín không? Khi nhiệt độ nước lên 120 độ[*], bầy cua la hét rằng chịu không nổi rồi rên lên ư ử vì gặp lúc sung sướng khi nhiệt độ chỉ là 100. Khi lên đến 140 độ, chúng lại than vãn hối tiếc lúc nhiệt độ chỉ là 120. Đến lúc nó lên đến 160 độ, chúng lại rên rỉ nuối tiếc cho cái lúc nhiệt độ ở mức 140, và cứ thế mà tiếp. Trại Le Vernet còn một ngàn lần khá hơn trại tập trung nhân đạo của Đức. Chỉ duy trại tập trung không có phòng hơi ngạt cũng khá hơn trại tập trung có phòng hơi ngạt.
Tôi gật đầu:
— Chuyện gì đã xảy ra cho ông?
— Chẳng bao lâu tiết đông đến. Dĩ nhiên chúng tôi không có đủ chăn mà cũng không có than đốt. Chuyện quản lý tồi tệ như thường lệ ấy mà. Có điều khi ta bị tê cóng thì chịu đựng nỗi bất hạnh khó hơn. Tôi không muốn làm nhàm tai ông với cảnh mô tả mùa đông trong trại. Giữ thái độ châm biếm thì quá dễ. Nếu chúng tôi thừa nhận là đảng viên Quốc xã, chúng tôi được đưa đến trại đặc biệt. Ngược lại trong khi đó chúng tôi phải chịu đói khát, rét lạnh, lại còn khổ sở vì chứng bệnh tháo dạ. Tôi có được xem ảnh trong báo chí chụp những tù nhân người Đức không phải là dân tị nạn. Ăn, họ có dao nĩa, bàn ghế; ngủ họ có giường chăn, lại còn có cả hội quán riêng. Báo chí rất tự hào nói lên cách nước Pháp đối xử với những ngoại kiều thuộc nước thù địch. Với chúng tôi là kẻ tị nạn thì cần gì phải đối xử nhẹ nhàng, bằng đôi găng tay bằng da dê non? Chúng tôi đâu có gì nguy hiểm? Nhưng rồi tôi cũng thích ứng được với hoàn cảnh. Tôi nghe theo lời khuyên của Helen và dứt khoát với cái ý niệm công lý. Buổi tối sau giờ lao động, tôi ngồi trên chiếc giường ngủ, một ổ nệm rơm đấy thôi, rộng ba phút, dài sáu phút, và suy ngẫm về hiện tình. Tôi có luyện tập để coi thời kỳ này như là giai đoạn chuyển tiếp chẳng dính dáng gì đến cái bản ngã riêng của mình. Có những sự việc xảy ra chung quanh tôi và tôi tập phản ứng lại như một sinh vật thông minh. Nỗi đau buồn quặn thắt giết ta cũng dễ như bệnh kiết lỵ, và công lý chỉ là một thứ xa xỉ thời bình.
— Ông thật tình tin vào điều đó sao? - Tôi hỏi.
— Không. - Schwarz đáp. - Tôi đã phải nhét mãi nó vào đầu đấy chứ. Chính những cái bất công nho nhỏ, chẳng hạn như một miếng bánh mì nhỏ hơn chút, một công việc nặng hơn chút, nó mới khó chịu đựng nhất. Ta phải biết bỏ qua những nỗi bực mình hằng ngày như thế nếu không thì sự phẫn uất vì những chuyện nhỏ khiến ta quên mất chuyện lớn.
— Thế là ông sống như một con thú thông minh?
— Vâng, cho đến lúc tôi nhận được lá thư đầu của Helen. Mãi hai tháng sau. Nó được gửi đến qua địa chỉ của khách sạn ở Paris. Tôi tưởng như có một cửa sổ được mở ra trong căn phòng tối tăm ngột ngạt. Bên ngoài cuộc sống vẫn lặng lẽ, nhưng ít ra nó vẫn còn đó. Thư từ của nàng đến thất thường, có khi cả mấy tuần không được lấy một cái. Thật lạ là những bức thư ấy biến đổi và tô đậm nét hình ảnh Helen trong tôi. Nàng cho biết nàng vẫn khỏe, rằng sau cùng nàng được đưa đến trại và nàng làm việc lúc đầu là ở trong nhà bếp rồi sau ở cửa hàng trong trại. Đã hai lần nàng kiếm cách gửi cho tôi một gói thực phẩm, bằng những mẹo vặt hay bằng hối lộ nào, tôi cũng không nghĩ ra được. Qua những lá thư của nàng tôi bắt đầy thấy thoáng hiện lên một khuôn mặt mới. Vì xa cách mà có, do khát vọng mà ra hay chỉ là tưởng tượng vẽ vời? Tôi chẳng rõ. Mọi cái đều khoác lấy những kích thước hầu như là siêu nhiên khi ta bị rơi vào cảnh đơn chiếc, rồi thu gọn vào mấy lá thư; hẳn ông biết điều đó. Một lời nói vô tình buột miệng thốt lên, nếu được viết lên bằng giấy trắng mực đen trong những trường hợp khác thì chẳng có ý nghĩa gì, nhưng đây lại có thể là tiếng sét đánh vỡ nát cuộc đời ta. Lại một câu nói khác, cũng vô nghĩa như câu trước, có thể mang lại cho ta hơi ấm trong bao nhiêu tuần lễ. Ta ngẫm nghĩ cả tháng về những điều người viết thư đã quên trước khi dán thư lại. Chợt nhận được tấm ảnh: Helen đứng bên ngoài trại tập chụp chung với một phụ nữ và người đàn ông. Hai người này là nhân viên trong ban chỉ huy trại, trong thư nàng cho biết như thế.
Schwarz ngước mắt nhìn lên:
— Tôi xem xét khuôn mặt người đàn ông trong ảnh thật kỹ. Tôi mượn được cặp kính rất tốt của người thợ đồng hồ cùng cảnh ngộ. Tôi thật không nghĩ ra vì sao Helen gửi cho tôi bức ảnh đó. Có lẽ nàng chẳng nghĩ ngợi gì khi gửi nó cho tôi. Hay là nàng có suy nghĩ? Biết đâu được? Có bao giờ ông cảm thấy như thế không?
— Ai cũng thế mà. - Tôi đáp. - Chứng thần kinh, chung cho mọi người tù ấy mà! Chẳng có gì đặc biệt lạ lùng đâu.
Chủ tiệm rượu mang phiếu tính tiền ra cho chúng tôi. Chúng tôi là khách sau cùng.
— Ta còn đi đâu được nữa không? - Schwarz hỏi.
Chủ tiệm mách ngay cho chúng tôi một chỗ khác.
— Ở đấy có gái. - Hắn nói. - Xinh đẹp phốp pháp lắm. Lại không đắt.
— Chẳng còn nơi nào khác sao?
— Vào giờ giấc khuya khoắt như thế này thôi chẳng còn biết nơi nào khác nữa. - Hắn khoác áo ngoài vào. - Tôi sẽ đưa ông đến đó nếu ông muốn. Tôi thì chẳng có việc gì làm cả. Gái ở đây khá là ma mãnh. Tôi sẽ trông chừng để ông khỏi bị gạt gẫm.
— Ta có thể tìm chỗ nào khác không có gái không?
— Không gái? - Hắn lộ vẻ sửng sốt. Rồi một nụ cười toe toét bao trùm cả mặt hắn. - Không có gái? À, tôi hiểu rồi. Vâng, chắc chắn. Dĩ nhiên. Nhưng họ chỉ có thế thôi. Chỉ gái thôi.
Hắn quay nhìn ra sau lưng khi chúng tôi bước ra đường phố. Một buổi bình minh tuyệt vời. Mặt trời chưa lên, song mùi nước mặn trở nên đậm đà hơn. Xe cộ bò dọc theo đường phố. Mùi cà phê và ngái ngủ thoang thoảng đưa qua hàng cửa sổ mở. Đèn tắt cả rồi. Đâu đây nghe có tiếng xe ngựa rập rình cách vài con phố. Thuyền ngư phủ chợt hiện ra như những đóa sen vàng đỏ bồng bềnh trên sông Tagus nhộn nhịp, và bên dưới xa kia, là con tàu, con thuyền cứu nạn, niềm hy vọng cuối cùng, nằm yên mờ mờ không ánh đèn nhân tạo. Chúng tôi xuống đồi về hướng nó.
Nhà chứa trông đến là ảm đạm, tối tăm. Bốn năm phụ nữ mập béo luộm thuộm ngồi hút thuốc, đánh cờ. Sau một hồi cố gắng hời hợt để gây cảm hứng cho chúng tôi nhưng không kết quả, họ để chúng tôi yên. Tôi nhìn đồng hồ.
— Không còn bao lâu nữa đâu. - Schwarz nói. - Mà mãi đến chín giờ sáng mới mở cửa.
Tôi cũng biết thế, như hắn vậy. Có điều dường như hắn không biết rằng nói và nghe là hai điều khác nhau xa.
— Một năm mà tưởng như bất tận. - Schwarz nói. - Thế rồi dường như chẳng lâu lắc gì. Đến tháng giêng tôi tìm cách trốn nhân lúc chúng tôi lao động ngoài trại. Hai ngày sau tôi bị bắt. Tay trung úy khét tiếng G. dùng roi da quất ngựa đánh tôi nát mặt. Rồi tôi bị nhốt xà lim ba tuần, chỉ có bánh mì và nước lã. Đến lần thứ hai tôi bị bắt ngay. Tôi bỏ cuộc. Vì không thể đi một bước mà không có thẻ thực phẩm và các thứ giấy tờ khác. Bất cứ tên sen đầm nào cũng có thể lượm ta ngay. Mà đến được trại Helen thì đường còn xa lắm. Sau đó hoàn cảnh chúng tôi có thay đổi. Đến tháng năm chiến tranh thật sự bắt đầu và kết thúc bốn tuần lễ sau. Chúng tôi rơi vào cùng phi quân sự nhưng người ta kháo nhau là sẽ có phái đoàn của quân đội, lại có cả bọn Gestapo đến thanh tra trại chúng tôi. Tôi nghĩ chắc ông còn nhớ lại cơn hoảng loạn đang tràn lan?
— Vâng. - Tôi đáp. - Nỗi kinh hoàng, dịch tự sát, những kiến nghị thả chúng tôi ra trước, cái hệ thống quan liêu bất lực lại đôi khi cản trở việc này. Không phải lúc nào cũng thế. Thỉnh thoảng gặp được một chỉ huy trại thông minh chịu đứng nhận trách nhiệm thả tù tị nạn ra. Một số trong những người ấy, điều này có thật, sau này bị bắt lại tại Marseille hoặc tại biên giới.
— Tại Marseille! Lúc đó thì Helen và tôi đã có thuốc độc trong người rồi. - Schwarz vụt kêu lớn. - Đó là những viên thuốc nhộng nhỏ thôi. Một tay dược sĩ trong trại bán cho chúng tôi. Hai viên. Tôi không biết chính xác nó là cái gì, song tôi tin lời y khi y bảo nếu uống một viên là ta chết ngay gần như không đau đớn gì. Y còn dặn liều thuốc độc đủ dùng cho hai người. Y bán lại cho chúng tôi vì sợ đến một đêm nào đó chính y dùng đến nó, vào giờ tuyệt vọng, ngay trước lúc rạng đông. Chúng tôi được xếp thành hàng như những chim bồ câu bằng đất sét. Thất trận quá nhanh. Không ai ngờ nó đến sớm như vậy. Chúng tôi chưa được tin là nước Anh không chịu hòa. Chúng tôi chỉ thấy tất cả đã mất rồi.
Schwarz phác một cử chỉ mệt mỏi, chán ngán:
— Ấy thế mà đến bây giờ ta vẫn không chắc là còn hay mất. Chúng tôi bị đẩy lùi ra bờ biển. Trước mặt chỉ là biển cả.
Biển cả, tôi sực nghĩ đến. Tàu bè vẫn còn qua lại trên đó.
Trên thềm cửa xuất hiện người chủ tiệm rượu mà chúng tôi mới bỏ đi. Y nhe răng chào chúng tôi, kèm theo cái chào theo lối nhà lính đầy chế giễu. Rồi y thì thầm điều gì đó với bầy gái điếm béo phị. Một cô trong bọn, một phụ nữ với bộ ngực đồ sộ bước lại chỗ chúng tôi.
— Này, nói cho bọn này biết làm sao các anh làm chuyện ấy được?
— Cái gì?
— Chắc là đau đớn lắm.
— Cái gì? - Schwarz hỏi giọng xa vắng.
— Cách các thủy thủ làm chuyện ấy ngoài biển khơi ấy mà! - Người chủ tiệm rượu hét lớn từ thềm cửa, cười to đến nỗi tôi cứ tưởng y khạc bộ răng của y ra ngoài.
— Ông giáo sư chơi khăm cô đấy. - Tôi nói với cô có bộ ngực vĩ đại ấy, người tỏa ra mùi lành khỏe của dẫu ô liu, tỏi, hành, mồ hôi và sức sống. - Chúng tôi đâu phải là tiên là thánh gì. Chúng tôi có tham dự trận chiến tranh Ethiopia và dân bản địa đã hoạn chúng tôi.
— Các anh là người Ý?
— Trước kia là như thế đấy. - Tôi đáp. - Những người hoạn không có quốc tịch. Chúng tôi là những kẻ giang hồ tứ xứ.
Cô ta suy nghĩ câu nói hồi lâu.
— Anh đến là buồn cười. - Sau đó cô nghiêm nghị nói, rồi ngoe nguẩy bộ mông đi trở về cửa, cô chủ tiệm đón ngay.
— Nghĩ cũng lạ lùng cho cái cảnh ngộ vô vọng thật. - Schwarz nói. - Cái tôi của ta biến mất. Ta không còn biết ta là ai nữa. Ấy thế mà bên trong ta vẫn còn chút gì đó đòi được sống. Mà sao nó bám vào cuộc sống trần truồng mong manh một cách vững chắc, bướng bỉnh đến thế! đôi khi ta cảm thấy một sự yên tĩnh hoàn toàn như cái yên tĩnh đầy chết chóc mà các thủy thủ thường kể lại khi rơi vào trung tâm cơn bão. Ta bỏ cuộc, giống như con rệp giả vờ chết, song ta không chết. Ta chỉ buông thả mọi cố gắng để tập trung trọn vẹn vào sự tồn tại đơn thuần. Ta rất tỉnh táo nhưng hoàn toàn bị động. Ta không còn sức lực để phung phí. Bão táp đang hoành hành quanh ta, song ta đứng yên. Sợ hãi và tuyệt vọng biến đi rồi, chúng thành những thứ xa xỉ ta không có lại được nữa. Vì nghị lực đã hao mòn qua cuộc phấn đấu chống chọi với sợ hãi và tuyệt vọng nên ý chí sống còn cũng bị tiêu hao, rốt cuộc ta đành buông xuôi. Toàn tâm toàn trí sẵn sàng, vô tư và thụ động. Bỗng nhiên ta thấy sáng suốt kỳ lạ, một sự sáng suốt thanh thản tràn khắp. Dạo ấy đôi lúc tôi như người du già vứt bỏ mọi cái gì còn dính dáng đến ý thức tư ngã, để…
Schwarz ấp úng.
— Để tìm Thượng đế? - Tôi hỏi giọng hơi giễu cợt.
Schwarz lắc đầu:
— Để tìm Thượng đế. Ta luôn luôn tìm kiếm Thượng đế như thể ta cố gắng bơi lội mà cứ để nguyên bộ áo quần trên người với bao quân trang dã chiến trên vai. Trong khi đúng ra là ta phải trần truồng. Trần truồng như cái đêm lúc tôi rời bỏ một vùng đất nước xa lạ an toàn để trở về quê hương đầy nguy hiểm của tôi, và vượt sông Rhin như thể nó là dòng định mệnh, một dải cuộc đời nhỏ hẹp tràn ngập ánh trăng. Trong trại đôi khi tôi còn nhớ lại cái đêm hôm đó. Kỷ niệm ấy không làm tâm lực tôi kiệt quệ, tôi còn nghĩ đến nó được, nó khiến tôi thêm sức mạnh. Tôi đã làm những gì cuộc đời đòi hỏi ở tôi. Tôi đã không thiếu sót, tôi có thêm một cuộc sống thứ hai, đến từ thiên đàng cùng với Helen; ấy thế nhưng thảng hoặc niềm tuyệt vọng vẫn chập chờn, cái cảnh tuyệt vọng đã đến với tôi trước kia và đôi khi còn ám ảnh tôi trong giấc ngủ, vì còn có những cái khác: Paris Helen và cái cảm giác mơ hồ là không còn cô độc nữa. Đâu đây Helen vẫn còn sống, có lẽ nàng sống với ai đó, nhưng nàng còn sống là quý rồi. Thật khủng khiếp khi nghĩ rằng điều này có ý nghĩa quan trọng trọng biết bao vào những lúc như thế này, lúc con người còn kém hơn cả con gián dưới chiếc giày bốt.
Schwarz lại im lặng.
— Ông có tìm thấy Thượng đế không? - Tôi hỏi. Câu hỏi nghe cộc lốc, nhưng bỗng nhiên tôi nóng lòng muốn biết.
— Một khuôn mặt trong tấm gương soi. - Schwarz trả lời.
— Khuôn mặt ai?
— Vẫn khuôn mặt ấy thôi. Ông đã biết qua khuôn mặt của mình chưa? Khuôn mặt ông có trước khi sinh ra ấy?
Tôi kinh ngạc nhìn hắn. Hắn dùng lại những từ như trước.
— Khuôn mặt trong tấm gương soi, - Hắn lặp lại. - Cái khuôn mặt ấy nhìn ông qua vai, và một cái nữa đằng sau vai ông. Nhưng rồi đột nhiên chính ông cũng là tấm gương soi với một chuỗi phản ảnh vô cùng tận. Không, tôi không gặp được Thượng đế. Mà nếu có tìm gặp được Người, ta sẽ làm gì với Người? Lúc đó chúng ta không còn làm người nữa. Chỉ để tìm kiếm Người, đó lại là chuyện khác nữa rồi.
Hắn mỉm cười.
— Rồi sau đó tôi cũng chẳng có đủ thì giờ và sức lực để làm việc đó. Tôi chậm chạp quá. Tôi chỉ có thể nghĩ đến những gì tôi yêu mến. Nhờ đó mà tôi còn sống. Tôi không còn nghĩ đến Thượng đế. Cũng không nghĩ đến Công lý nữa. Vòng tròn đã khép lại rồi. Cũng cùng một cảnh ngộ như dạo tôi ở trên bờ sông. Lặp lại thôi. Một lần nữa tôi lại trở về với cái tôi. Trong cảnh ngộ này, ta chẳng còn làm được gì nhiều. Suy nghĩ cũng không được nữa rồi. Vả lại cũng không cần thiết. Suy nghĩ chỉ tỏ làm cho ta bối rối thêm mà thôi. Những sự việc tự chúng sẽ xảy đến. Từ hoàn cảnh cô lập buồn cười của con người ta quay về với cái thế giới của những sự cố không gọi được bằng tên. Điều duy nhất ta cần là phải sẵn sàng. Sẵn sàng để đi khi có bàn tay vô hình vỗ nhẹ lên vai; ta chỉ việc đi theo; chừng nào mà ta chẳng hỏi han thắc mắc gì thì ta được yên lòng. Có lẽ ông cho tôi là đang nói đến thứ vô nghĩa thần nhiệm?
Tôi lắc đầu:
— Tôi cũng biết qua cái cảm giác ấy. Người ta đôi khi gặp cái cảm giác ấy vào những lúc nguy hiểm lớn lao. Những người lính có nói cho tôi nghe về nó. Chẳng có lý do gì cả, có cái gì đó khiến ta đứng dậy bước ra khỏi hầm trú ẩn là nơi bề ngoài trông thật là bảo đảm; rồi một lát sau đó một phát đạn trực tiếp biến nó thành nấm mồ tập thể.
— Điều sau cùng tôi làm, - Schwarz kể tiếp, - Là hoàn toàn không thể được. Song nó có vẻ là việc tự nhiên nhất trên đời. Tôi gói gọn đồ đạc tư trang của mình lại. Rồi vào một buổi sáng, tôi bước ra khỏi trại. Thường thì những mưu toan vượt trại được thực hiện về đêm. Tôi lại đi qua cổng chính giữa ban ngày ban mặt và bảo lính gác là tôi được thả. Có hai lính gác ở đó. Tôi ve vẩy tấm hộ chiếu trước mặt họ. Đồng thời tôi thọc tay vào túi lấy ít tiền biếu họ, bảo họ đi uống chúc sức khỏe tôi. Họ không buồn hỏi tôi giấy phóng thích nữa. Đối với hai nông dân mặc quân phục kia, làm sao có chuyện một người có đủ bản lĩnh ung dung ra đi bằng cổng chính nếu không được quyền như thế?
Tôi chậm rãi đi xuống dọc con đường trắng xóa. Bước được dăm bước tôi có cảm tưởng như cổng trại biến thành con rồng đang lén theo phía sau tôi. Song tôi không chạy. Tôi bình tĩnh giấu kỹ tấm hộ chiếu của Schwarz đi và cứ thế tiếp tục bước đi. Gió thoảng đưa mùi hương thảo và cỏ xạ hương, hương của tự do đây. Đi được một lúc tôi giả vờ như dây giày tôi tuột ra. Tôi cúi người xuống nhìn ra sau. Chẳng có ai theo tôi. Tôi bắt đầu bước nhanh hơn. Tôi chẳng có lấy mảnh giấy nào trong số các giấy tờ người ta có thể hỏi đến vào những ngày ấy. Vốn tiếng Pháp của tôi tạm dùng được. Tôi mong thiên hạ sẽ lầm nó với một thứ thổ ngữ nào đó. Toàn bộ đất nước đang chuyển động. Các thành phố đông nghẹt những người tản cư từ vùng bị chiếm, đường sá lúc nhúc xe cộ đủ loại, phần lớn đầy nhóc chăn giường, đồ dùng trong nhà và lính tráng bỏ ngũ.
Tôi bước vào một quán trọ nhỏ. Bên hông nhà, người ta đặt dăm ba cái bàn, chung quanh là mảnh vườn rau và một luống hoa nhỏ. Phòng rượu được lát bằng gạch vuông và thơm mùi rượu bị vung vãi, mùi bánh mì mới và mùi cà phê. Cô hầu bàn đi chân trần. Cô trải khăn bàn, đặt lên đó một bình cà phê, cái tách, cái đĩa lớn, bánh mì và mật. Xa hoa sang trọng quá! Kể từ lúc sống ở Paris đến nay tôi chưa được thấy như vậy.
Bên ngoài, đằng sau hàng rào bụi bặm, thế giới đổ nát đang chuyển động, ở đây trong cái xó xỉnh ưu đãi này, bên dưới vòm cây, là hòa bình, là tiếng ong vo ve, là ánh vàng lung linh của những ngày cuối hạ. Tôi uống cạn như lạc đà trữ nước cho những dặm đường cháy bỏng qua sa mạc. Tôi nhắm mắt, ngả người sưởi nắng và uống rượu.