Chương 13
Có một gã sen đầm đứng gần ga. - Schwarz kể tiếp, - Tôi quay lui. Tôi không ngại sự mất tích của tôi được thông báo nhanh như vậy, nhưng dẫu sao lúc bấy giờ cũng nên tránh xa đường xe lửa. Chừng nào một tên tù được giam giữ an toàn đằng sau hàng kẽm gai thì chẳng ai bận tâm đến hắn. Nhưng một khi hắn trốn thoát được hắn lại trở nên cực kỳ quan trọng. Trong trại, một mẩu bánh mì đã là quá tốt cho hắn. Nhưng muốn bắt hắn lại khi đã cao chạy xa bay người ta chẳng ngại việc tốn kém. Người ta huy động hàng đại đội lính để truy lùng hắn.
Tôi được quá giang trên một chiếc xe tải. Ông lái xe nguyền rủa lung tung: chiến tranh, bọn Đức, chính phủ Pháp, chính phủ Hoa Kỳ và cả Chúa nữa. Nhưng ông ta chia cho tôi bữa ăn trưa trước khi để tôi bước xuống xe. Tôi đi quanh quẩn trong một tiếng đồng hồ rồi sau cùng đến nhà ga gần đó. Tôi biết cách không gây sự ngờ vực bằng cách giữ mình thật kín đáo. Tôi bước ngay vào mua một vé hạng nhất đi đến ga kế cận. Người bán vé do dự. Sợ bị hỏi giấy tờ, tôi quát tháo ầm ĩ là y quá chậm chạp. Bối rối vì giọng điệu thị uy của tôi, y đành đưa tôi tấm vé. Tôi đến một quán cà phê đợi tàu. Tàu trễ một tiếng đồng hồ, nhưng cuối cùng nó cũng đến.
Phải ba ngày sau tôi mới đến được trại nhốt Helen. Có một lần, một tên sen đầm chặn tôi lại, tôi vừa nói lớn với y bằng tiếng Đức vừa khua khua tấm hộ chiếu của Schwarz. Y cứng đơ người vì sợ hãi và mừng rỡ khi thấy tôi lại đi ngay. Nước Áo là một phần của nước Đức; nên tấm giấy hộ chiếu của Áo cũng hiệu lực bằng tấm danh thiếp của sở mật vụ Gestapo. Thật là kỳ diệu, một tấm hộ chiếu của người đã chết, một mẩu giấy với ít chữ in trên đó, có khả năng thực hiện bao nhiêu việc. Hơn cả bất cứ người nào.
Muốn đến trại giam Helen, phải vượt qua một ngọn núi. Trước tiên là một bãi đất hoang mọc đầy thạnh nam, kim tước và hương thảo, rồi đến một khu rừng. Lúc tôi đến đó chiều cũng gần tan. Trại có hàng rào kẽm gai như lệ thường, nhưng trông không đến nỗi thảm hại như ở trại Le Vernet, có lẽ vì đây là trại giam phụ nữ. Từ khu rừng tôi có thể nhìn vào trại và thấy đám phụ nữ mặc áo sặc sỡ, đầu chít khăn màu sáng sủa. Không khí có vẻ lỏng lẻo, thoải mái. Điều này làm tôi ngỡ ngàng. Tôi cứ tưởng phải là một nơi hoàn toàn u uất mà tôi sẽ đột nhập vào như Don Quixote hay Thánh George[*]. Cứ như thế này thì hình như chẳng cần đến tay tôi. Nếu Helen được ở vào một nơi tốt lành như thế này, chắc nàng đã quên tôi từ lâu.
Tôi vẫn nấp để tìm cách nhận định địa thế của vùng. Đến chiều tối có một phụ nữ bước đến gần hàng rào. Nhiều người khác bước theo. Chẳng mấy chốc có cả một đám đứng đó rồi. Họ đứng lặng yên, hầu như chẳng nói năng gì với nhau. Họ nhìn qua hàng kẽm gai bằng cặp mắt chẳng trông thấy gì. Cái họ muốn trông thấy lại không có đó: tự do. Bầu trời đổi màu tím thẫm, từng mảng bóng tối từ dưới thung lũng bò lên, đó đây người ta thấy được những bóng điện có màn chắn. Đám phụ nữ biến thành những khoảng bóng mất cả màu sắc và mất cả hình dạng. Những khuôn mặt mơ hồ nhạt nhòa lơ lửng thành một dãy nhấp nhô bên trên những mảnh bóng đen đục phẳng phiu phía sau hàng rào. Rồi hàng ngũ thưa dần, đám phụ nữ từng người lần lượt trở vào trại. Giờ khắc tuyệt vọng đã trôi qua. Đó đúng là cái tên họ dùng để gọi nó, như sau này tôi tìm hiểu ra được.
Chỉ còn lại một người vẫn đứng cạnh hàng rào. Tôi thận trọng bước lại gần.
“Đừng sợ.” Tôi nói bằng tiếng Pháp.
“Sợ?” Một lát sau người phụ nữ mới hỏi lại. “Sợ gì mới được chứ?”
“Tôi muốn nhờ cô giúp cho một việc.”
“Khỏi phải tốn hơi vô ích, đồ lợn. Trong mớ xương mục của anh chẳng có gì khác nữa sao?”
Tôi há hốc miệng ra nhìn nàng ta.
“Ý cô muốn nói gì?”
“Thôi đi, đừng giả vờ điếc nữa. Bọn các anh chỉ là một lũ lợn. Trong làng xóm chẳng còn phụ nữ sao? Tại sao cứ la cà quanh đây mãi thế?”
Sau tôi mới hiểu ra.
“Cô hiểu lầm tôi rồi.” Tôi giải thích. “Tôi cần nói chuyện với một phụ nữ cũng ở trong trại này.”
“À, anh bạn muốn thế hả? Tại sao lại một? Tại sao lại không là hai? Hay cả đám luôn?”
“Này, hãy nghe tôi chút.” Tôi nói. “Vợ tôi bị nhốt ở đây. Tôi cần nói chuyện với cô ấy.”
“Anh cũng thế à?” Người phụ nữ bật cười. Trông nàng ta chẳng có vẻ giận dữ, chỉ mệt mỏi chán chường. “Lại thêm một mánh khóe mới. Tuần nào bọn các anh cũng nghĩ ra được một kiểu mới.”
“Từ trước đến giờ tôi chưa hề đến đây.”
“Thế thì anh tiếp thu nhanh đấy. Thôi, xéo đi cho rảnh.”
“Cô không chịu nghe tôi sao?” Tôi hỏi bằng tiếng Đức. “Tôi chỉ muốn nhờ cô nhắn lại với một người trong này là tôi có ở đây. Tôi là người Đức. Bản thân tôi cũng ở trại. Trại Le Vernet ấy mà.”
“Trại ngon lành đấy.” Cô ta điềm tĩnh nói. “Hắn cũng biết tiếng Đức đấy! Tên dân Alsace[*] đáng nguyền rủa! Cầu cho hết thảy bọn anh chết vì bệnh giang mai. Anh và lũ bạn khốn nạn của anh đêm nào cũng xếp hàng ở đây cùng với món hàng trao đổi. Mong sao bọn anh mang theo ung thư trong món hàng ấy. Các anh chẳng còn chút tình cảm nào hay sao, đồ lũ lợn khốn kiếp? Anh có biết anh đang làm gì đó không? Thôi, hãy để cho tôi yên. Để cho chúng tôi yên đi.”
Về sau giọng cô biến thành tiếng hét. Tôi thấy những người khác đổ xô đến nhưng rồi lại giật lùi xa hàng rào.
Tôi ngủ qua đêm trong rừng. Tôi chẳng biết đi đâu. Tôi nằm dài giữa mấy lùm cây. Ánh nắng nhạt dần và vầng trăng nhô lên trên cảnh quê mờ ảo nhuốm màu vàng bạch, quyện sương thu chớm lạnh. Sáng ra tôi trở lại bên kia núi và xoay xở đổi bộ đồ tôi đang mặc lấy một bộ đồ thợ máy.
Tôi trở lại trại giam. Ở trạm gác tôi bảo tôi đến kiểm tra hệ thống dây điện. Vốn tiếng Pháp của tôi giúp tôi qua được kỳ sát hạch. Họ để tôi vào chẳng hỏi han gì cả. Có ai muốn bước vào trại giam đâu.
Tôi thăm dò đường sá trong trại một cách cẩn thận. Nhà trại trông giống những cái thùng bằng nẹp đan to lớn, cách nhau bằng những tấm màn. Có một hành lang ở giữa, hai đầu có màn chắn. Phần lớn mấy bức màn được vén lên. Ta có thể nhìn vào trong và thấy được những nơi ấm cúng ấy trần thiết ra sao. Phần lớn chỉ có những vật dụng tối cần thiết, trơ trụi làm sao, nhưng cũng có người tạo ra được một sắc điệu riêng tư đến cảm động bằng một mẩu vải, một tấm ảnh, hoặc vài tấm bưu thiếp. Tôi lang thang qua những dãy trại tối mờ mờ. Phụ nữ ngưng làm việc, nhìn tôi.
“Có tin tức gì không?” Một người trong đám hỏi.
“Có, cho một người tên Helen. Helen Baumann.”
Người đàn bà suy nghĩ. Một người khác bước tới.
“Có phải cái con chó cái Quốc xã làm trong cửa hàng ấy không? Cái con lúc nào cũng quấn quýt ve vãn lão bác sĩ ấy mà!”
“Cô ấy không phải là đảng viên Quốc xã.” Tôi nói.
“Thế thì cô trong cửa hàng cũng không.” Người đàn bà thứ nhất nói. “Tên cô ấy là Helen, tôi biết mà.”
“Trong này có đảng viên Quốc xã sao?” Tôi hỏi.
“Dĩ nhiên. Trong này lẫn lộn tùm lum. Nhưng người Đức giờ đang đi đến đâu?”
“Tôi chẳng gặp ai cả.”
“Người ta đồn có một phái đoàn quân sự đang trên đường đến đây. Anh có nghe gì không?”
“Không.”
“Người ta bảo họ đến để thả những người Quốc xã. Nhưng tôi còn nghe nói là Gestapo cũng đến cùng. Anh có biết gì không?”
“Không.”
“Họ còn bảo người Đức sẽ không rầy rà gì đến khu phi quân sự.”
“Nghe sao kiểu cách giống hệt chúng thế.”
“Anh chẳng nghe gì cả sao?”
“Chỉ là lời đồn đại thôi.”
“Ai nhắn tin cho Helen Baumann đây?”
Tôi do dự một hồi:
“Chồng cô ấy. Anh ấy được tự do rồi.”
Người đàn bà thứ hai bật cười.
“Thế là anh ta có một món quà ngạc nhiên cho anh ta đấy.”
“Tôi có thể đến cửa hàng không?” Tôi hỏi.
“Sao lại không? Anh là người Pháp, phải không?”
“Dân Alsace.”
“Chị sợ à?” Người đàn bà thứ hai hỏi. “Tại sao? Chị có gì giấu giếm?”
“Thời buổi này ai lại chẳng có chút gì cần giấu giếm?”
“Chị cứ nói lại lần nữa đi.” Người phụ nữ thứ nhất nói.
Người thứ hai chẳng nói gì, chỉ nhìn tôi như tôi là tên gián điệp vậy. Ở cô ta toát ra mùi thơm ngào ngạt của đóa hoa huệ trong thung lũng.
“Cảm ơn.” Tôi nói. “Cửa hàng trại ở lối nào?”
Người phụ nữ thứ nhất chỉ đường cho tôi. Tôi đi qua dãy nhà trại tối âm u giữa hàng trăm cặp mắt dò xét rình rập. Tưởng như tôi rơi nhằm vào giữa đám phụ nữ Amazon[*]. Sau đó, tôi lại bước ra đường, đi trong ánh nắng chan hòa và cái mùi tù tội chán ngán nó bao trùm khu trại như một vòm kính xám ngắt.
Tưởng như tôi bị mù. Không bao giờ tôi bận tâm đến việc Helen có chung thủy hay không chung thủy với tôi. Điều này nằm ngoài vấn đề, vô nghĩa. Bao nhiêu chuyện đã xảy đến rồi; điều còn lại duy nhất đang nói là phải sống còn. Dẫu có suy nghĩ nào như thế đến với tôi lúc còn ở trại Le Vernet, nó chắc phải là một ý nghĩ trừu tượng do chính tôi bày đặt ra, xóa tan đi để rồi nghiền nó lại.
Nhưng giờ đây tôi đang đứng trong đám bạn bè của nàng. Đêm hôm trước tôi trông thấy họ qua hàng rào, và bây giờ tôi lại trông thấy họ, những phụ nữ đói khổ đã phải sống đơn độc từ bao nhiêu tháng nay. Dù bị giam cầm họ vẫn là đàn bà; nói đúng hơn nữa, cảnh ngộ này khiến họ càng ý thức sâu sắc hơn về nữ tính của họ.
Tôi đến cửa hàng. Một phụ nữ tóc đỏ hoe, mặt tái xanh đứng ở quầy, mải bán chỗ thực phẩm còn lại cho một nhóm nữ tù.
“Anh cần gì?” Cô ta hỏi.
Tôi nhắm mắt lại và chập choạng bước tới. Rồi tôi bước sang một bên. Cô ta vội vã tính tiền với khách mua.
“Năm phút nữa là tôi xong ngay.” Cô bảo nhỏ. “Lành hay dữ?”
Tôi hiểu cô muốn hỏi tin lành hay dữ.
“Lành.” Tôi nhún vai đáp rồi bước ra ngoài.
Một lát sau người đàn bà đi ra về phía tôi.
“Ta cần phải cẩn thận đấy.” Cô bảo. “Anh định nhắn tin cho ai?”
“Cho Helen Baumann. Cô ấy có đây không?”
“Tại sao?”
Tôi chẳng nói chẳng rằng. Mũi cô đầy nốt tàn nhang và đôi mắt ưu tư.
“Cô ấy làm tại cửa hàng chứ?” Tôi hỏi.
“Anh cần gì?” Người phụ nữ hỏi ngược lại. “Lấy tin hả? Cho ai? Anh là thợ điện đấy chứ?”
“Chồng cô ta nhắn.”
“Cách đây không lâu,” Cô nói giọng cay đắng, “Có một gã đàn ông hỏi cũng câu hỏi ấy về một phụ nữ trong này. Ba ngày sau, có người đến tìm người phụ nữ ấy. Cô ta ra đi và có hứa cho chúng tôi rõ tình hình ngoài ấy ra sao. Rồi chúng tôi chẳng bao giờ nghe nói đến cô ta nữa. Thôi đủ rồi. Anh chẳng phải thợ điện đâu.”
“Tôi là chồng cô ấy.”
“Còn tôi là Greta Garbo[*].”
“Thế thì tôi còn hỏi han gì về nàng nữa?”
“Rất nhiều người đến đây hỏi thăm về Helen Baumann.” Người phụ nữ nói. “Toàn là những người kỳ quặc, khó hiểu. Anh muốn biết sự thật hả? Helen chết rồi. Cô ấy đã chết và chôn cách đây hai tuần. Đây là sự thật. Tôi cứ nghĩ anh có tin tức từ bên ngoài chứ.”
“Nàng chết rồi sao?”
“Phải. Và bây giờ hãy để tôi yên.”
“Nàng không chết đâu.” Tôi cãi lại. “Trong trại giam họ không bảo thế.”
“Họ nói toàn chuyện tầm bậy tầm bạ.”
Tôi nhìn lại người đàn bà có mái tóc đỏ.
“Phiền cô trao lại cho nàng bức thư, được chứ ạ? Tôi đi ngay bây giờ, song tôi muốn để lại cô ấy bức thư.”
“Để làm gì mới được chứ?”
“Tại sao lại không? Bức thư có làm hại ai đâu?”
“Không à?” Người phụ nữ hỏi lại. “Chắc anh mới sinh ra hôm qua hay hôm kia gì đó?”
“Tôi không nhớ rõ. Tôi lớn lên thất thường lắm, ngày được ngày chăng. Cô có thể bán cho tôi cái gì để viết thư được chăng?”
“Anh có giấy và bút chì trên bàn kia kìa.” Cô ta nói. “Nhưng viết thư cho một người đàn bà đã chết, có ích gì nữa đâu?”
“Thời trang mới nhất đấy.”
Tôi lấy tờ giấy viết: “Helen, anh đến đây. Bên ngoài, cạnh hàng rào. Đêm nay. Anh chờ em.” Tôi không dán lá thư.
“Phiền cô trao lại cho nàng?” Tôi hỏi người phụ nữ.
“Thời buổi này có lắm kẻ điên khùng thật.”
“Được hay không?”
Tôi cầm lá thư đưa cho cô ta và cô ta đọc lại.
“Được hay không?” Tôi nhắc lại.
“Không.” Cô ta đáp.
Tôi để lá thư trên bàn.
“Ít ra cũng đừng hủy nó đi.” Tôi nói.
Cô ta chẳng trả lời.
“Tôi sẽ trở lại giết cô nếu cô ngăn cản không cho lá thư này đến tay vợ tôi.”
“Có thế thôi ư?” Người phụ nữ hỏi và nhìn tôi bằng đôi mắt xanh buồn bã trên một khuôn mặt tiều tụy.
Tôi lắc đầu đi ra phía cửa.
“Nàng không có ở đây?” Tôi quay người lại hỏi.
Người đàn bà nhìn lên song, chẳng nói gì.
“Tôi sẽ vào trại giam khoảng mười phút.” Tôi nói. “Tôi sẽ trở lại và hỏi lại lần nữa.”
Tôi đi xuống theo con đường trong trại. Tôi không tin lời cô ta. Tôi quyết định chờ một lúc rồi trở lại cửa hàng để xem kỹ lại lần nữa. Nhưng bỗng nhiêu tôi cảm thấy cái lốt vỏ hình bảo vệ tôi bay đi đâu mất. Đột nhiên tôi trở nên to lớn cồng kềnh và đâm ra có vẻ khả nghi. Tôi phải trốn đi.
Tôi bước đại vào một cái cửa.
“Anh muốn gì?” Một người đàn bà hỏi.
“Người ta phái tôi đến kiểm tra dây điện.” Có ai đó bên cạnh tôi nhưng chính thực là tôi, đáp lại. “Có gì hư hỏng không?”
“Chẳng có gì hư hỏng hơn thường lệ.” Người đàn bà mặc áo bờ lu trắng trả lời.
“Đây là bệnh viện?” Tôi hỏi.
“Phải. Đúng là nơi anh muốn đến chứ gì?”
“Chủ tôi dưới phố đưa tôi lên đây. Để kiểm tra các mạch điện.”
“Cứ việc kiểm tra tự nhiên.” Người đàn bà bảo.
Một người đàn ông mặc quân phục bước vào.
“Chuyện gì thế?”
Người phụ nữ mặc bờ lu trắng giải thích. Tôi nhìn người đàn ông. Hình như tôi đã gặp hắn ta ở đâu đó.
“Điện hả?” Hắn hỏi. “Thuốc men và sinh tố còn ích hơn nhiều!”
Hẳn quẳng cái mũ lên bàn rồi rời khỏi phòng.
“Ở đây chẳng có gì hư hỏng cả.” Tôi bảo với người đàn bà mặc đồ trắng. “Lúc nãy là ai thế?”
“Bác sĩ đó, tất nhiên. Chúng chẳng có thuốc men gì mà cho cả, mẹ kiếp.”
“Cô có nhiều bệnh nhân không?”
“Nhiều lắm.”
“Người chết?”
Cô ta nhìn tôi.
“Tại sao ông hỏi thế?”
“Ồ, hỏi chỉ để hỏi thôi.” Tôi đáp lại. “Sao ở đây ai cũng có vẻ ngờ vực thế nhỉ?”
“Thì cũng thế thôi.” Người đàn bà nhắc lại. “Chỉ là tính bốc đồng đấy thôi, hỡi chàng thiên thần ngây thơ có được một mái nhà và một tấm hộ chiếu! đã bốn tuần nay không có ai chết cả. Nhưng trước đó có khá nhiều.”
Bốn tuần trước đây tôi có nhận được thư của Helen. Như thế chắc nàng phải còn ở đấy.
“Cảm ơn.” Tôi nói.
“Đừng cảm ơn tôi.” Người đàn bà trả lời. “Anh hãy cảm ơn Chúa vì cha mẹ đã cho anh một quê hương để yêu dấu tuy có phải trải qua những lúc khó khăn, tuy nó sát hại kẻ bất hạnh rồi giao cho bầy sói dữ, cũng chính những đàn sói này phải chịu trách nhiệm về tất cả nỗi khổ sở của anh. Thôi, bây giờ hãy đi đi. Đi mà tìm ánh sáng. Nếu anh còn tìm được đôi chút ánh sáng trong đầu một số người nào đó!”
“Có phái đoàn Đức nào đến đây không?” Tôi vội vàng hỏi.
“Tại sao anh muốn biết điều đó?”
“Tôi nghe nói người ta đang trông đợi phái đoàn ấy.”
“Chắc anh cho rằng một cái tin như thế là đặc biệt thu hút?”
“Không. Nhưng tôi cần phải báo trước cho một người.”
“Cho ai thế?” Người đàn bà hỏi, vẻ đề phòng ra mặt.
“Cho Helen Baumann.” Tôi đáp.
Người đàn bà nhìn tôi.
“Cho cô ấy biết về cái gì?” Bà ta hỏi.
“Cô biết nàng?”
“Tại sao?”
Lại vấp phải bức tường ngờ vực, mãi về sau này tôi mới được giải thích.
“Tôi là chồng nàng.” Tôi nói.
“Anh chứng minh điều đó được không?”
“Không. Giấy tờ tôi mang tên khác. Nhưng cô tin tôi ngay nếu tôi cho cô hay tôi không phải là người Pháp.”
Tôi rút thẻ hộ chiếu của Schwarz ra.
“Một thẻ hộ chiếu Quốc xã!” Người đàn bà nói. “Đúng như điều tôi đoán. Tại sao anh lại làm chuyện này?”
Tôi mất kiên nhẫn.
“Để gặp lại vợ tôi. Nàng ở đây. Chính nàng viết cho tôi biết như thế mà.”
“Anh có cái thư đấy chứ?”
“Không. Tôi hủy nó ngay khi tôi trốn khỏi trại Le Vernet. Tại sao ai cũng ra vẻ bí mật thế này nhỉ?”
“Đó là điều tôi muốn anh giải thích cho tôi đấy.”
Viên bác sĩ trở lại.
“Cô có bận gì ở đây không?” Y hỏi.
“Không.”
“Thế thì theo tôi. Xong chưa?” Y hỏi tôi.
“Chưa ạ. Sáng mai tôi sẽ trở lại.”
Tôi trở lại cửa hàng. Người đàn bà tóc đỏ đứng sau quầy đang bán đồ lót. Có hai khách mua. Tôi đợi. Tôi lại có cái cảm giác vận may của tôi đã tuột mất rồi. Tốt hơn tôi nên bỏ đi, nếu không có thể tôi sẽ gặp rắc rồi ở cổng. Lính gác đổi phiên và tôi lại phải giải thích mọi sự từ đầu. Tôi chẳng thấy tăm hơi của Helen. Người đàn bà tránh cái nhìn của tôi. Rõ ràng là cô ta cố tình kéo dài việc mua bán. Sau đó lại có thêm khách mua đến, và tôi thấy có một sĩ quan đi qua bên ngoài cửa sổ. Tôi rời khu nhà ngay.
Lính gác không đổi phiên. Họ còn nhớ tôi và để tôi đi qua. Tôi lại có cảm giác như ở trại Le Vernet. Họ có thể bò lên phía sau tôi và bắt giữ tôi. Người tôi toát mồ hôi hột.
Một chiếc xe tải cũ kỹ chạy về hướng tôi. Chẳng có chỗ nào để trốn. Tôi cứ rảo bước, mắt nhìn xuống đất. Chiếc xe qua sát bên tôi rồi ngừng lại. Tôi tự kiềm chế để đừng chạy. Đường rộng đủ để chiếc xe quay ngược đầu lại mà tôi thì chẳng có chút cơ may nào. Tôi nghe tiếng chân bước nhanh đằng sau.
Có người gọi lớn:
“Ê, thợ máy.”
Tôi quay lại. Một người đàn ông trung niên mặc quân phục bước đến.
“Anh có biết gì về mô tơ không?”
“Không, tôi là thợ điện.”
“Có lẽ hỏng ở bộ phận đánh lửa. Xem giúp tí.”
“Vâng, nhờ anh xem qua tí.” Người lái xe nói.
Tôi ngước mắt nhìn lên. Đúng là Helen. Nàng đứng sau người lính nhìn tôi và để ngón tay lên môi ra hiệu. Nàng mặc quần dài và chiếc áo thun; người thật gầy.
“Vâng, anh làm ơn xem qua tí,” Nàng nhắc lại, “Và giúp cho chúng tôi đi được. Cẩn thận đấy!” Nàng thì thầm, “Cứ giả vờ như anh biết việc anh làm. Chẳng có gì hỏng đâu.”
Người lính thả bộ sau lưng chúng tôi.
“Anh từ đâu đến vậy?” Nàng hỏi khẽ.
Tôi mở ca pô xe đánh ầm một cái.
“Trốn trại. Ta có thể gặp nhau bằng cách nào?”
Nàng đứng cạnh tôi nhìn vào mô tơ.
“Em đi mua sắm cho cửa hàng. Ngày kia. Cứ ở trong làng. Quán cà phê đầu tiên vào bên trái khi anh đến. Chín giờ sáng.”
“Còn từ bây giờ đến lúc đó?”
“Còn lâu không?” Người lính hỏi.
Helen lấy gói thuốc trong túi quần ra đưa cho y.
“Chỉ vài phút thôi. Chẳng có gì hỏng nặng.”
Người lính đốt thuốc rồi ngồi xuống bên lề đường. Tôi sửa chữa qua quít còn Helen thì canh chừng.
“Ở đâu?” Tôi hỏi nàng. “Trong rừng? Cạnh hàng rào? Hôm qua anh có đến đây. Đêm nay anh đến được không?”
Nàng phân vân một hồi.
“Được. Đêm nay. Nhưng không trước mười giờ được đâu nhé.”
“Sao lại không?”
“Vì đến lúc đó những người khác đi cả rồi. Nếu mười giờ em không đến được. Tức là ngày mai. Cẩn thận nghe anh.”
“Bọn sen đầm ở đây thế nào?”
Người lính lại gần.
“Không tệ lắm.” Helen nói bằng tiếng Pháp. “Một phút là xong ngay.”
“Xe cũ quá.” Tôi nói.
Người lính cười:
“Bọn Đức thì có xe mới. Và các vị bộ trưởng nữa. Xong chưa?”
“Vâng, xong rồi.” Helen đáp.
“May mà chúng tôi gặp được anh.” Người lính nói. “Tất cả những điều tôi biết về xe cộ là chúng cần ét xăng.”
Y bước lên xe. Helen theo sau. Nàng vào số. Có lẽ lúc nãy nàng chỉ vặn tắt khóa công tắc thôi. Máy nổ.
“Cảm ơn.” Nàng nói, người nghiêng ra phía tôi. Đôi môi nàng mấp máy thành câu không ai nghe được.
“Anh là tay thợ máy hạng nhất đấy.” Nàng nói thêm rồi xe lăn bánh chạy đi.
Tôi đứng lại đó vài giây giữa đám khói dầu xanh lét. Tôi cảm thấy như đi từ cái nóng cùng cực qua cái lạnh cùng cực; nghĩa là chẳng cảm thấy gì cả. Tôi chỉ rảo bước như một cái máy. Rồi dần dần tôi bắt đầu suy nghĩ, và cùng với suy nghĩ tôi đâm lo lắng và nhớ lại những điều tôi đã nghe được, tâm tư bị mối ngờ vực lôi kéo, xói mòn, ray rứt.
Tôi nằm trong rừng chờ đợi. Bức tường than thở, từ Helen dùng để gọi lớp những phụ nữ đứng nhìn xa xôi vào cảnh hoàng hôn thưa dần. Không bao lâu số đông lướt nhẹ vào trong trại. Trời mỗi lúc tối hơn. Tôi nhìn vào mấy trụ rào. Rồi họ biến thành những tảng bóng, và giữa những tảng bóng ấy một chiếc bóng khác thẫm hơn xuất hiện.
“Anh ở đâu?” Helen hỏi.
“Đây này.”
Tôi mò mẫm tìm lối đến nàng.
“Em có thể ra được không?” Tôi hỏi.
“Chốc nữa, khi họ tản ra hết đã. Anh cứ đợi đấy.”
Tôi lom khom trở vào rừng, vừa đủ xa để khỏi bị phát hiện nếu có người hướng đèn bấm vào phía rừng. Tôi nằm ngay trên mặt đất, thở mùi lá mục hăng hăng. Một thoáng gió nhẹ nổi lên; bốn bề quanh tôi có tiếng sột soạt lao xao như cả ngàn tên rình mò đang bò về phía tôi. Mắt tôi đã quen với bóng tối. Tôi thấy bóng dáng Helen và bên trên đó thấp thoáng mơ hồ là khuôn mặt nàng. Tôi không thể nhận rõ từng đường nét, nàng bám vào dây kẽm gai như một cành cây đen đúa với một đóa hoa trắng ngần. Rồi sau đó trông nàng lại như một hình ảnh không tên tuổi nổi lên từ vùng quá khứ mịt mùng. Khuôn mặt nàng, bởi vì tôi không nhận rõ được đường nét, trở thành khuôn mặt của tất cả những người đang đau khổ trên trần gian. Xa hơn chút nữa tôi lại nhận ra người đàn bà thứ hai với dáng đứng y như Helen, rồi người thứ ba và thứ tư, họ đứng đấy giống như một hàng cột tượng đàn bà gánh chịu mái vòm sầu khổ và hy vọng.
Cảnh tượng trông thật đến hết chịu nổi, tôi quay mặt đi. Lúc tôi nhìn trở lại, ba người kia đã lặng lẽ biến mất, và tôi thấy Helen khom người xuống kéo mạnh sợi kẽm gai.
“Tách nó ra đi anh.” Nàng nói.
Tôi đạp lên đường dây thấp nhất và nâng dây kế lên.
“Anh chờ chút.” Helen khẽ bảo.
“Những người khác đâu rồi?” Tôi hỏi.
“Họ trở vào rồi. Một người trong đám ấy là một tên Quốc xã; vì thế nên em không thể ra sớm được. Cô ta có thể tố cáo em lắm. Đó là người lúc nãy sụt sùi khóc đấy.”
Helen cởi áo bờ lu và váy đưa cho tôi qua dây kẽm.
“Em phải giữ không được làm rách.” Nàng giải thích. “Em chỉ có bấy nhiêu đó thôi.”
Tôi chợt nhớ lại một gia đình nghèo tôi quen biết. Đám con cái có sướt da đầu gối cũng không sao chừng nào chúng không làm rách váy của chúng, vì vết thương thì có thể thành sẹo, còn váy thì phải mua lại.
Tôi sờ vào y trang của nàng trong tay mình. Helen cúi người xuống và bò cẩn thận giữa hai đường dây kẽm gai. Nàng bị trầy ở vai. Máu chảy thành con rắn đen nhỏ trên da nàng. Nàng đứng dậy.
“Em có nghĩ ta trốn được không?” Tôi hỏi.
“Trốn đi đâu?”
“Anh cũng không rõ. Đi Tây Ban Nha.” Tôi nói. “Đi châu Phi.”
“Đến đây anh.” Helen nói. “Đến đây rồi ta bàn tới chuyện đó. Không thể ra khỏi đây mà không có giấy tờ. Chính vì thế mà chúng không canh phòng cẩn mật lắm.”
Nàng dẫn tôi vào rừng. Nàng gần như trần truồng, đầy bí ẩn và rất đẹp, chỉ thoang thoảng dáng dấp của Helen một thuở từng là vợ tôi ở Paris, vừa đủ cho tôi nhận được ra nàng, một sự nhận diện vừa nhức nhối vừa ngọt ngào khiến làn da tôi rạo rực đợi chờ. Người đàn bà vừa bước ra khỏi chân hàng cột tượng trông sao mà xa lạ, vẫn còn chìm đắm trong chín tháng của một cuộc sống lạ lùng, quãng thời gian nặng nề còn hơn cả hai mươi năm cuộc sống bình thường.