Chương 14
Người chủ tiệm rượu bước lại chỗ chúng tôi và cho chúng tôi biết một cách trịnh trọng:
— Cô béo thật là tuyệt. Người Pháp đấy. Biết đủ mọi trò. Tôi xin trân trọng giới thiệu với quý vị. Đám chị em của chúng tôi thì bốc lửa đấy, nhưng chúng cũng nóng nảy lắm đấy. - Hắn chép miệng nói tiếp, - Tôi đi đây. Muốn lọc máu thì chẳng ai tốt hơn là gái Pháp. Chúng hiểu biết cuộc sống. Các vị khỏi cần nói dối lăng nhăng với chúng như với cánh phụ nữ của chúng tôi. Chúc các vị về nhà bình yên. Đừng chọn Lolita hoặc Juana. Hai người ấy chẳng ai được cả. Đặc biệt là Lolita sẽ giở trò chôm chỉa nếu các vị không để mắt cho.
Nói xong hắn bỏ đi. Cửa vừa mở, buổi sáng lùa vào với luồng âm thanh và ánh sáng.
— Tốt hơn ta cũng nên đi thôi. - Tôi nói.
— Tôi cũng sắp xong rồi đây. - Schwarz nói. - Mà ta vẫn còn ít rượu vang đây.
Hắn gọi rượu vang và cà phê cho ba cô, để họ để chúng tôi yên.
— Đêm ấy chúng tôi chẳng nói chuyện gì nhiều. - Hắn nói tiếp. - Tôi trải áo khoác lên đất, và đến lúc trời trở lạnh hơn, chúng tôi đắp bằng cái váy, cái bờ lu của Helen và cái áo ấm của tôi. Helen ngủ thiếp đi rồi lại thức giấc; có một lần lúc tôi đang mơ màng, hình như tôi nghe nàng khóc. Một lát sau nàng tỏ ra âu yếm đến độ cuồng nhiệt. Qua cách nàng vuốt ve, mơn trớn tôi, nghe có chút gì mới mẻ, lạ lùng. Tôi chẳng hỏi han gì nàng và cũng chẳng nhắc lại những điều tôi đã nghe được trong trại. Tôi rất yêu nàng, song lại thấy cách biệt nàng một cách kỳ lạ, khó hiểu. Lòng trìu mến của tôi pha lẫn cuồng si khiến nó mãnh liệt hơn lên. Chúng tôi bám vào nhau trên bờ vực của một thế giới khác. Không có cách nào quay lui, chẳng rõ nơi đến, chỉ biết là bay, cùng bay với nhau, và cùng thất vọng, một nỗi thất vọng trầm lặng, dan díu với kiếp sau, nó uống cạn những giọt nước mắt hạnh phúc của chúng tôi cùng bóng dáng những dòng lệ nghẹn ngào vì biết rằng chỉ cứ phải đi, không đường trở lại mà cũng chẳng có nơi nào để đến.
“Ta không trốn đi được sao?” Tôi hỏi lại lần nữa trước khi nàng chui trở lại hàng kẽm gai.
Đến lúc qua bên kia hàng rào nàng mới trả lời.
“Em không thể.” Nàng thì thào. “Em không bỏ trốn được đâu. Bạn bè sẽ bị trừng trị thay em. Thôi anh về đi. Đêm mai hãy trở lại. Đêm mai anh trở lại được không?”
“Nếu trước đó anh không bị bắt.”
Nàng nhìn tôi.
“Cuộc đời ta đã ra sao rồi nhỉ?” Nàng nói. “Ta đã làm gì mà cuộc đời ta đến phải như thế này?”
Tôi đưa cho nàng cái bờ lu và cái váy.
“Đây là mớ tư trang khá nhất của em chứ gì?” Tôi hỏi.
Nàng gật đầu.
“Cảm ơn em đã mặc nó lên người. Anh cố gắng thu xếp cho đêm mai. Chắc chắn mà. Anh sẽ trốn trong rừng.”
“Anh cần phải ăn chút đỉnh. Anh có mang gì theo để ăn không?”
“Có, tất nhiên. Cũng có thể anh kiếm được ít quả, hạt hoặc nấm trong rừng.”
“Anh có thể chịu đựng đến đêm mai không? Em sẽ mang cho anh ít thức ăn.”
“Tất nhiên là được rồi. Bây giờ cũng gần sáng rồi.”
“Chớ ăn nấm nghe anh. Anh có rành về nấm đâu. Em sẽ mang thật nhiều thức ăn.”
Nàng mặc váy vào. Chiếc váy rộng màu xanh nhạt, điểm hoa trắng. Nàng quấn váy, cài cúc cung cách như nai nịt gọn gàng để đi đánh trận.
“Em yêu anh.” Nàng nói giọng tuyệt vọng. “Em yêu anh nhiều hơn như chưa bao giờ anh nghĩ đến. Xin anh đừng quên điều đó. Đừng bao giờ.”
Hầu như cứ mỗi lần từ giã tôi nàng đều nói câu đó. Vào những tháng ngày ấy, chúng tôi là trò chơi của mọi người. Bọn sen đầm Pháp thì dồn chúng tôi vào đường cùng vì một lý tưởng sai lầm về trật tự và luật pháp. Bọn Gestapo thì tìm cách dí mũi vào các trại mặc dầu có tin đồn rằng đã có thỏa thuận ngược lại với chính phủ Pétain[*]. Thành thử ta không biết ai có thể bắt ta và sáng sáng ta chào từ giã nhau như thể là lần cuối cùng vậy.
Helen mang cho tôi bánh mì, trái cây và một mẩu xúc xích hoặc phó mát nếu kiếm được. Tôi sợ ở lại trong làng. Cách trại không xa, tôi đặt chỗ nấu nướng trong một tu viện cổ hoang phế. Ban ngày tôi ngủ hoặc đọc sách báo Helen đem ra, hoặc ngồi trong bụi cây nơi không ai phát hiện được để nhìn ra ngoài đường. Helen cũng đem đến cho tôi tin tức cả những lời đồn đại: Bọn Đức đến đều đặn hơn, dày hơn và cứ tiến hành hoạt động của chúng mà không chịu để bất cứ một thỏa thuận nào xen vào.
Cuộc sống là như vậy đó nhưng vẫn thấy thơ mộng. Thảng hoặc nỗi sợ hãi len lén đến khiến tâm hồn tôi se thắt lại, nhưng thói quen sống từng giờ rồi cũng giúp tôi qua được. Thời tiết thật đẹp; về đêm trời đầy sao. Helen có đem ra tấm vải lều. Chúng tôi trải nó giữa chốn hoang tàn của tu viện rồi lấy lá vàng lót dày lên.
“Bằng cách nào mà em ra được thế?” Có lần tôi hỏi nàng. “Mà lại thường như thế?”
“Em có công tác đặc biệt.” Một lúc sau nàng mới nói. “Và có đôi chút thần thế. Họ còn cho em ra làng nữa cơ đấy. Hôm nọ anh gặp em là lúc em ở làng về đó.”
“Em kiếm thực phẩm cho anh ở đó chứ gì?”
“Không đâu. Ở cửa hàng đấy. Bọn em có thể mua sắm nếu có tiền, song thật ra cũng chẳng có gì mua được.”
“Em có sợ bị phát hiện ở đây và báo cáo không?”
Nàng mỉm cười.
“Chỉ lo cho anh thôi. Em thì khỏi. Còn gì có thể xảy đến cho em nữa? Em đã là tù rồi mà.”
Qua đêm sau không thấy nàng ra. Bức tường than thở tan rã rồi. Tôi bò lên phía hàng rào, dãy nhà trại nằm im lìm đen đủi trong ánh đèn nhờ nhờ. Tôi chờ, nhưng nàng không đến. Suốt đêm tôi nghe tiếng phụ nữ ra nhà vệ sinh. Tôi nghe tiếng thở dài rền rĩ rồi thình lình tôi thấy có ánh đèn ô tô trên đường cái. Suốt ngày hôm đó tôi ở lại trong rừng. Tôi đâm ra lo lắng băng khoăn; chắc có chuyện gì đó đã xảy ra. Trong một lúc tôi nhớ lại những điều đã nghe trong trại, nhưng do sự đảo ngược kỳ lạ nó lại là nguồn an ủi cho tôi. Bất cứ chuyện gì xảy đến cũng tốt hơn là Helen phải đau ốm, chuyển đi nơi khác hoặc chết. Cuộc sống chúng tôi lâm vào cảnh quá tuyệt vọng, chỉ còn mỗi một điều quan trọng là: cùng sống bên nhau và khi gặp thời cơ tìm cách đào thoát đến một hải cảng bình yên. Có lẽ một ngày nào đó chúng tôi sẽ quên đi hết mọi gian truân ưu phiền này.
— Nhưng không được, ông ạ. - Schwarz nói. - Dẫu với tất cả yêu thương, trắc ẩn, ân cần, trìu mến trên đời này. Tôi biết thế, song tôi chẳng màng. Tôi nằm trong rừng nhìn lên khóm lá vàng, đỏ, nâu từ trên cành rơi rụng xuống, và tôi chỉ có một suy nghĩ độc nhất. Xin hãy để nàng sống! Xin hãy để nàng sống, lạy Chúa, và tôi sẽ không bao giờ cầu xin cho nàng bất cứ một điều gì khác. Cuộc sống con người vẫn đáng quý hơn tất cả những cảnh ngộ mà nó có thể vướng mắc vào trong đó. Xin để cho nàng sống, chỉ sống thôi, không có tôi, nếu cần, nhưng hãy để nàng sống.
Qua đêm sau Helen cũng không đến. Nhưng tôi trông thấy có hai chiếc xe trên đường vào trại. Tôi nhận ra những bộ quân phục. Quân phục SS hay của quân đội tôi không phân biệt được, song dứt khoát là của Đức. Đêm ấy là một đêm hấp hối. Xe đến khoảng chín giờ tối và mãi tới sau một giờ sáng mới đi. Chắc là xe của bọn Gestapo rồi, tôi nghĩ thế, nếu không chúng đã không đến vào ban đêm. Khi chúng đi rồi, tôi cũng không thấy rõ có ai bị đưa đi khỏi trại không. Tôi lang thang suốt đêm dọc theo hàng rào và trên đường cái. Buổi sáng tôi sực nghĩ nên đóng lại vai anh thợ điện nhưng chợt thấy ở cổng có lính gác đôi và cạnh đó có một người mặc thường phục ngồi với một bảng danh sách trong tay.
Ngày dài như bất tận. Khi tôi vượt qua hàng rào kẽm gai có đến lần thứ một trăm, tôi bắt gặp một gói bọc trong giấy báo cách hàng rào vài bước cạnh tôi. Tôi lượm lên. Trong gói có mẩu bánh mì, hai quả táo và một mẩu giấy không ghi tên nhắn lại: “Đêm nay”. Chắc Helen đã ném nó ra giữa lúc tôi đi lòng vòng quanh đó. Mệt, đói quá nên tôi ăn ngay. Rồi tôi trở về nơi ẩn nấp và ngủ. Lúc tôi dậy thì đã chiều rồi. Hôm ấy là một ngày trong sáng; ánh nắng vàng trông như rượu vang. Màu lá cây thẫm sâu xuống. Trong tia nắng chiều ấm áp rơi vào khoảng rừng thưa nơi tôi lẩn trốn, những cây sồi cây đoạn sừng sững ra đấy dưới lớp áo màu vàng màu nâu, như thể có một họa sĩ vô hình trong khi tôi ngủ đã biến chúng thành những ngọn đuốc bất động trong vùng ánh sáng bất động. Không một chiếc lá lung lay.
Bỗng nhiên Schwarz ngừng lại.
— Xin ông đừng sốt ruột nếu thấy tôi mô tả dông dài không cần thiết về những cảnh thiên nhiên. Trong suốt thời gian ấy thiên nhiên đối với tôi cũng quan trọng như đối với loài vật vậy. Thiên nhiên chưa bao giờ ngoảnh mặt với chúng tôi. Nó không đòi hỏi giấy thông hành hoặc giấy chứng minh nguồn gốc Aryan. Thiên nhiên cho ra và nhận lại, song nó vẫn vô tư và điều đó như một làn hương thơm an ủi. Chiều hôm ấy tôi nằm yên trong hồi lâu, ngại rằng mình có thể trào ra như cái bình đầy ắp nước. Rồi, trong cảnh tĩnh mịch hoàn toàn đó, hàng trăm chiếc lá vàng tách mình khỏi cành bay lượn xuống đất, như để đáp lại một mệnh lệnh bí mật nào đó. Chúng thong thả nhẹ lướt qua bầu không khí trong sáng, và có chiếc rơi trên người tôi. Đến lúc đó tôi hiểu rõ ý nghĩa của tự do, nguồn an ủi khôn cùng của cái chết. Tôi không quyết định gì, nhưng biết tôi có đủ nghị lực để kết liễu đời mình nếu chẳng may Helen phải chết, rằng tôi không phải còn lại trong cảnh đơn độc. Và tôi rõ cái năng lực ấy, cái sức mạnh ấy là một đặc ân, một bù trừ cho những kẻ yêu nhau, mà tình yêu vượt lên trên mức bình thường của con người. Tôi nhận thức tất cả những điều này mà không cần suy nghĩ, và khi nhận thức được rồi, tôi thấy, bằng một cách mơ hồ xa xôi nào đó, rằng không còn hoàn toàn cần thiết là tôi phải chết nữa.
Helen không có mặt ở bức tường than thở. Nàng chỉ xuất hiện sau khi mọi người khác đã đi. Nàng mặc quần soóc và áo bờ lu. Nàng chuyển cho tôi chai rượu vang và một gói qua kẽm gai. Trong lối trang phục mới lạ này, trông nàng trẻ ra.
“Đã mở nút chai rồi.” Nàng nói. “Em có cái tách đây.”
Nàng chui qua thật gọn gàng giữa hai hàng dây kẽm
“Chắc anh phải đói lả ra rồi. Trong cửa hàng em tìm gặp cái em chưa từng thấy từ lúc rời Paris.”
“Nước hoa Cologne chứ gì?” Tôi nói. Người nàng thơm ngát nước hoa, tươi mát giữa cảnh trời đêm tươi mát ấy.
Nàng lắc đầu. Tôi thấy tóc nàng đã được cắt ngắn hơn trước.
“Trời đất! Chuyện gì thế này hả em?” Tôi hỏi, đột nhiên nổi tức. “Anh cứ tưởng chúng nó đã đưa em đi nơi khác hoặc em đang hấp hối, thế mà em đến đây cứ như là vừa mới ở mỹ viện ra. Em cũng có sửa móng tay nữa chắc?”
“Việc đó em tự làm.” Nàng đưa tay tôi xem rồi cười. “Nào, ta uống vang đi thôi.”
“Có chuyện gì thế, em? Bọn Gestapo có đến không?”
“Không. Chỉ có phái đoàn quân đội. Nhưng có hai nhân viên Gestapo đi cùng.”
“Có bắt ai đi không?”
“Không.” Nàng đáp. “Cho em uống với.”
Tôi cảm thấy tâm trí nàng đang rối bời. Bàn tay nàng hâm hấp nóng và da nàng khô tưởng như sắp nứt ra.
“Chúng có đến.” Nàng nói. “Để lên danh sách những người Quốc xã có mặt trong trại. Những người này sẽ được đưa về Đức.”
“Có nhiều không?”
“Nhiều lắm. Bọn em không nghĩ là có nhiều như vậy. Một số không chấp nhận. Có một người em biết rõ, người ấy đột nhiên bước lên tới trước nói chị ta là đảng viên, chị đã thu lượm nhiều tin quan trọng, rằng chị muốn về quê hương, rằng ở đây chị đã bị đối xử tàn tệ, chúng đưa chị về ngay được không? Em biết chị ta rất rõ. Quá rõ là đàng khác, chị ta biết…”
Helen uống vội vã rồi trao tách cho tôi.
“Chị ta biết gì?”
“Em không nhớ rõ nữa. Qua nhiều đêm, rất nhiều đêm chúng em nói chuyện với nhau. Chị ta biết em là ai…”
Nàng ngẩng đầu lên, nói tiếp:
“Không bao giờ em trở về. Không bao giờ. Em sẽ tự tử nếu chúng tìm cách bắt em.”
“Em sẽ không tự tử đâu.” Tôi nói. “Và chúng không bắt em về đâu. Có trời mà biết hiện giờ Georg ở đâu. Có phải chuyện gì hắn cũng rành đâu? Mà tại sao người đàn bà ấy muốn kể rõ về em chứ? Có lợi gì cho chị ấy đâu?”
“Hãy hứa với em là anh sẽ không để chúng bắt em về đi.”
“Anh hứa.” Tôi nói.
Nàng cuồng sảng đến độ tôi không cầm lòng được. Tất nhiên tôi chẳng làm gì được, song tôi phải nói với nàng bằng giọng của đấng Thượng đế toàn năng.
“Em yêu anh.” Nàng nói bằng giọng khản đặc và xúc động. “Em yêu anh, và dẫu xảy ra gì chăng nữa, anh cũng phải tin em như thế.”
“Anh tin em.” Tôi nói, trong lòng nửa tin nửa ngờ.
Nàng ngả người về phía sau, mệt lả.
“Ta phải ra khỏi nơi đây.” Tôi nói. “Ngay đêm nay.”
“Đi đâu? Anh có hộ chiếu không?”
“Có. Có người làm việc tại văn phòng giữ giấy tờ của tù nhân kiếm ra cho anh lại. Ai giữ hộ chiếu của em?”
Nàng không trả lời. Nàng nhìn vào khoảng không một lúc rồi nói:
“Trong này có một gia đình Do Thái, chồng, vợ và đứa con. Họ vừa vào trại cách đây mấy ngày. Đứa bé bị bệnh. Họ bước tới trước mặt bọn Quốc xã. Họ muốn trở về Đức. Họ chẳng phải Do Thái đó sao? Tên đại úy hỏi họ. Người chồng trả lời bảo họ là người Đức và muốn trở về quê hương. Tên đại úy còn muốn nói gì thêm đó nữa, nhưng bọn Gestapo đã đến. ‘Các người thực tình muốn về hả?’ Hắn nhắc lại câu hỏi. ‘Thế thì ghi tên họ vào danh sách đi, đại úy.’ Một tên trong bọn Gestapo vừa nói vừa cười to. ‘Nếu các người quả thật nhớ quê hương, bọn này sẽ giúp các người ngay thôi.’ Tên tuổi được ghi ngay. Có nói với họ cũng chẳng ích gì. Họ bảo không thể tiếp tục chịu đựng được nữa, đứa bé ốm nặng, rằng ở đây mọi người Do Thái dẫu sao cũng đã bị giam hãm tứ bề rồi, thà cứ tới luôn cho nhẹ nợ. Họ bảo ở đây chúng tôi bị săn đuổi, thà họ tình nguyện đi còn hơn. Họ hành động y như một bầy lừa chết dở. Anh nói với họ được không?
“Anh ấy à? Anh biết nói gì đây?”
“Ở đây anh đã nếm mùi trại. Anh cũng đã ở trại tập trung của Đức. Anh trở về. Rồi anh lại trốn đi.”
“Anh có thể nói chuyện với họ ở đâu?”
“Ngay đây. Em đưa người chồng ra. Em biết người ấy ở đâu. Em trở ra ngay thôi. Em có nói với anh ta về anh. Chúng ta còn có thể cứu họ.”
Vài phút sau nàng trở ra cùng với một người đàn ông vẻ bệnh hoạn, không chịu bò qua kẽm gai. Anh ta đứng cách tôi, phía trong trại, nghe tôi nói. Một lát sau vợ anh ta đi ra. Mặt mày chị tái xanh và chẳng nói được lời nào. Hai vợ chồng bị bắt trước đó mười ngày. Họ bị giam vào những trại khác nhau; rồi vượt trại. Nhờ một phép mầu họ lại gặp nhau được. Họ viết tên họ trên tường, trên các lối đi, bất cứ nơi nào mà họ đặt chân đến.
Schwarz nhìn tôi:
— Ông có nghe nói đến “Con đường đau khổ” không?
— Ai mà chẳng nghe đến nó? Nó chạy từ nước Bỉ đến tận dãy Pyrénées.
— “Con đường đau khổ” có từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh. Nhưng cuộc di tản chỉ bắt đầu sau khi quân Đức tràn qua Bỉ và chọc thủng phòng tuyến Maginot[*]. Trước là những đoàn xe ô tô chất ngổn ngang nồi niêu xoong chảo, chăn giường, sau đến các xe đủ loại, xe ngựa, xe tay, xe trẻ con, và ngày nọ tiếp ngày kia từng dòng người đi bộ dài bất tận, tất cả đều hướng về phía nam giữa thời tiết mùa hạ dễ chịu, bị máy bay săn đuổi theo sau. Và dân tị nạn gia nhập vào cuộc di tản chung. Người trong gia đình bị thất lạc phải dùng đến lối viết tên và nhắn tin bằng than, phấn, sơn hoặc bất cứ thứ gì gặp được ghi lên tường, hiên nhà, bảng hiệu giao thông. Lâu dần trông chẳng khác gì tờ báo bên đường. Ấy là chưa kể đến những người tị nạn bỏ chạy từ nhiều năm nay và vẫn còn trốn tránh cảnh sát. Họ phát triển một loại hệ thống thông tin chui, một mạng lưới những địa chỉ căng rộng từ Nice đến Naples và từ Paris đến Zurich: đó là bạn bè tin cậy có thể cung cấp cho họ tin tức, chỉ dẫn, khuyên nhủ, và có thể cho họ tá túc một vài đêm nếu cần. Nhờ tờ báo bên đường ấy và mạng lưới bí mật này, anh Do Thái đã tìm gặp được vợ và con, nếu không thì đã bị thất lạc như cây kim trong đống rơm.
— Họ sợ rằng, - Schwarz nói tiếp, - Nếu ở lại trại họ lại bị chia cách nữa. Đó là trại giam phụ nữ mà họ được nhập chung lại song nghe báo rằng người chồng sẽ phải đưa qua trại đàn ông. “Chúng tôi không chịu được điều đó,” anh ta nói. Anh ta đã cân nhắc mọi bề chín chắn và tin rằng không thể làm gì khác hơn. Trốn đi thì không tài nào được rồi; họ đã thử và suýt chết đói. Giờ thì đứa bé lại ốm còn người mẹ kiệt sức rồi. Chính anh ta cũng đã cạn sức. “Đám các anh, anh ta nói, chẳng hơn gì đàn bò trong sân lò sát sinh. Chúng sẽ đến bắt các anh đi bất cứ lúc nào chúng cảm thấy thích. Tại sao, sau cùng anh ta hỏi, tại sao người Pháp không để chúng ta đi khi còn đủ thời giờ?” Anh ta có dáng người mảnh khảnh, khuôn mặt gầy gò khả ái điểm chùm râu cằm đen nhỏ.
Chẳng ai trả lời được câu hỏi kia. Họ không cần đến chúng ta nhưng lại không chịu để chúng ta đi. Nhưng ai có thể băn khoăn thắc mắc về một điều có ít nhiều vô lý trong khi cả một đất nước đổ nát tơi bời? Dẫu sao những ai có khả năng làm được gì để cứu vãn thì chẳng bao giờ nghĩ đến điều đó.
Chiều hôm sau có hai xe tải chạy ngược lên đường cái. Cùng lúc đó tôi thấy hàng kẽm gai như sống trở lại. Khoảng mười lăm phụ nữ giúp nhau bò qua và chạy biến vào rừng. Tôi vẫn ẩn mình cho đến lúc trông thấy Helen.
“Bọn em có được sở cảnh sát báo trước.” Nàng cho biết. “Bọn Đức đến đón những ai muốn trở về. Chính quyền Pháp không biết sau đó bọn Đức sẽ còn giở trò gì nữa, nên họ cho phép chúng em vào trốn trong rừng đợi lúc bọn Đức ra về.”
Đây là lần đầu tiên tôi gặp nàng giữa ban ngày ban mặt, không kể dạo gặp nhau trên đường. Đôi chân và khuôn mặt nàng sạm nắng, song nàng vẫn gầy. Đôi mắt nàng quá lớn và quá sáng, sắc diện phờ phạc.
“Em nhường chỗ thức ăn cho anh còn em lại nhịn đói.” Tôi nói.
“Em có khối thức ăn ra đấy.” Nàng nói, “Đấy là chỗ dành dụm ấy mà. Đây anh xem!” Nàng cho tay vào túi, “Có cả một thanh chocolate nữa đấy. Hôm qua bọn em mua được ít pa tê gan béo và cá mòi. Nhưng không có bánh mì.”
“Người đàn ông anh nói chuyện hôm trước có đi không?” Tôi hỏi.
Bỗng nhiên cả khuôn mặt Helen run lên.
“Em không bao giờ trở về.” Nàng nói, “Không bao giờ. Anh đã hứa mà. Em không muốn để chúng bắt em.”
“Chúng không bắt em đâu.”
Tiếng đồng hồ sau đoàn xe rời trại. Phụ nữ trên xe ca hát và tiếng hát vang vọng đến chúng tôi theo cánh gió: “Nước Đức, Nước Đức, trên tất cả.”[*]
Đêm hôm ấy, tôi chia cho Helen nửa viên thuốc độc tôi đã mua lúc còn ở trại Le Vernet. Qua ngày sau nàng hay tin Georg đã tìm ra nơi nàng ở.
“Ai bảo cho hắn?” Tôi hỏi.
“Có người nào đó biết.”
“Ai?”
“Bác sĩ của trại.”
“Sao y biết?”
“Do tên chỉ huy trại. Chúng có điều tra.”
“Bác sĩ có bảo em làm gì không?”
“Y bảo có thể giấu em vài ngày trong bệnh viện trại. Nhưng không quá lâu.”
“Thế thì em phải trốn đi thôi. Ai đã báo cho những người bị đe dọa để họ trốn vào rừng?”
“Quận trưởng cảnh sát.”
“Tốt,” Tôi nói, “Lấy lại hộ chiếu của em đi và cố xoay xở kiếm ra tấm giấy phóng thích. Có lẽ bác sĩ của trại có thể giúp em được đấy. Nếu không, ta chỉ trốn thôi. Nhớ đừng hở môi. Bất luận là với ai. Anh sẽ tìm cách nói chuyện với quận trưởng. Y có vẻ vẫn còn nhân đạo.”
“Đừng làm thế. Cẩn thận chứ anh. Trời đất! Anh phải cẩn thận chứ.”
Tôi giặt bộ đồ công nhân thật sạch, mặc vào rồi ra khỏi rừng vào lúc sáng sớm. Tôi chắc mẩm thế nào cũng đụng đầu các toán tuần tiễu Đức hoặc hiến binh Pháp, song từ nay trở đi tôi phải dự kiến đến tình huống đó.
Tôi kiếm cách gặp được quận trưởng cảnh sát. Tôi bịp được gã hiến binh và viên thư ký bằng cách đội lốt làm nhân viên kỹ thuật người Đức đến nghiên cứu việc thiết trí đường dây điện cho yêu cầu quân sự. Qua kinh nghiệm tôi biết đôi khi chịu mặt dạn mày dày lại có kết quả. Nếu gã hiến binh nghĩ tôi là dân tị nạn, y bắt tôi ngay tại chỗ. Thay vào đó, tôi lớn giọng chào hỏi y. Và y đáp lại tôi cũng bằng cách ấy, nếu không phải là hơn nữa.
Lúc đến gặp quận trưởng, tôi nói hết sự thật để ông ta rõ. Phản ứng đầu tiên là ông muốn ném tôi ra ngoài. Sau ông cũng thấy vui vui vì cung cách trơ tráo của tôi. Ông mời tôi điếu thuốc rồi bảo tôi cút xéo đi: ông chẳng thấy gì, chẳng nghe gì. Mười phút sau, ông bảo tôi ông chẳng làm gì được để giúp tôi, vì bọn Đức có lẽ đã nắm các danh sách và xem ông là người chịu trách nhiệm nếu có thiếu ai. Ông không muốn để cuộc đời mình tàn trong trại tập trung của Đức.
“Thưa ông quận trưởng.” Tôi nói. “Tôi biết ông đã bảo vệ tù nhân. Và tôi cũng biết ông phải chấp hành mệnh lệnh. Nhưng ông và tôi cũng biết hiện nay nước Pháp ở trong tình trạng hỗn độn và những mệnh lệnh hôm nay, ngày mai có thể biến thành điều ô nhục, và nếu tình trạng xáo trộn này dẫn đến sự tàn bạo vô nghĩa lý, thì mai sau thật khó lòng mà tìm cách biện minh chống chế. Tại sao ông lại phải trái ý muốn của chính mình, bắt nhốt những người vô tội trong những chuồng bọc kẽm gai để rồi đưa họ đi đến phòng hơi ngạt và trại tra tấn? Trong khi nước Pháp còn phải tự vệ thì nhất thiết phải bắt ngoại kiều trong trại giam, điều đó còn có lý do, còn có thể hiểu được, không kể là họ theo hoặc chống kẻ thù của nước Pháp. Nhưng chiến tranh kết thúc rồi mà. Cách đây vài hôm, kẻ thắng trận đã đưa đồng bào họ về. Những người ông còn để trong trại nay chỉ là nạn nhân sống trong nỗi kinh hoàng phải kéo lê thân đến cõi chết. Đáng lẽ ra tôi phải thỉnh cầu ông can thiệp giùm cho tất cả những người này, nhưng tôi đến đây để chỉ cầu xin ông đặc ân này cho một người mà thôi. Nếu ông ngại đã lên danh sách, xin ông hãy gạt tên vợ tôi ra ngoài lấy cớ đã đào tẩu, hoặc chết, hoặc với lý do gì đó cũng được. Ông cứ bảo là nàng đã tự tử, nếu ông thích, như thế ông sẽ phủi sạch được trách nhiệm.
Ông ta nhìn tôi một hồi rất lâu rồi nói:
“Ngày mai anh trở lại đi.”
Tôi chưa chịu lép.
“Đến ngày mai người ta tới bắt tôi thì sao,” Tôi nói, “Xin ông làm ngay ngày hôm nay cho.”
“Thế thì hai tiếng nữa anh trở lại.”
“Tôi chờ ngoài cửa phòng của ông. Đó là nơi an toàn nhất mà tôi có thể nghĩ ra.”
Bỗng nhiên ông nở nụ cười.
“Chà, câu chuyện tình đẹp thật!”[*] Ông buột miệng nói, “Anh có vợ, ấy thế mà anh lại phải sống như chưa có vợ. Thường thì phải khác kia chứ.”
Tôi thở ra, người nhẹ nhõm. Khoảng một giờ sau ông gọi tôi vào.
“Tôi có gọi lên chỉ huy trưởng trại.” Ông nói, “Đúng là đã có tiến hành điều tra về vợ anh. Tôi sẽ nghe theo gợi ý của anh và báo cáo cô ấy đã chết. Như thế anh cũng yên tâm, mà chúng tôi cũng vậy.”
Tôi gật đầu. Rồi liền sau đó, một nỗi sợ hãi tê lạnh đến lạ lùng xâm chiếm cả người tôi, chút mê tín còn sót lại đó thôi. Tôi đang đùa giỡn với định mệnh. Nhưng nghĩ cho kỹ thì bản thân tôi đã chẳng chết rồi đó sao? Chẳng phải tôi đang sống với giấy tờ của người chết đó sao?
“Ngày mai ta sẽ quyết định dứt khoát.” Ông quận trưởng nói.
“Xin ông làm ngay cho ngày hôm nay.” Tôi đáp, “Tôi phải sống hai năm trong trại vì quyết định bỏ trốn trễ chỉ có một ngày.”
Tôi kiệt sức, chắc ông ta cũng nhận ra điều đó. Mặt tôi đổi màu xám tro, sắp ngất xỉu. Ông gọi người đem rượu cognac đến.
“Cho tôi cà phê thôi.” Tôi nói, rồi thả người xuống ghế.
Gian phòng quay cuồng thành những tảng bóng xám và tím. Tôi không được quyền gục ngã, tôi tự nhủ, và tai tôi bắt đầu ù. Helen được tự do rồi. Chúng tôi phải tìm cách ra khỏi nơi đây.
Trong cái bay bổng nhẹ nhàng và tiếng u u bên tai tôi cảm thấy có một khuôn mặt và một giọng nói chập chờn trong đó. Giọng ấy gào thét, lúc đầu không rõ rệt, rồi trở thành to lên và rõ ràng hơn. Tôi cố theo dõi khuôn mặt và giọng nói, rồi tôi nghe:
“Các anh tưởng tôi vui lắm đấy phỏng? Cứt hết. Thế này là cái quái gì? Tôi đâu phải là tên cai ngục? Tôi là một người đàng hoàng, có lòng từ thiện mà. Đồ chết tiệt? Bảo chúng nó xéo cả đi cho rảnh mắt!”
Sau đó tôi lạc mất đâu giọng nói, và tôi cũng không chắc có thật nó gào thét lên như thế hay nó chỉ rung lên âm vang trong tai tôi thôi. Cà phê được mang ra. Tôi lảo đảo bước ra ngồi trên chiếc ghế dài. Một lát sau viên thư ký ra bảo tôi chờ thêm ít phút nữa.
“Tôi không có ý định bỏ đi đâu mà, khỏi lo.”
Ông quận trưởng ra bảo tôi mọi sự đã thu xếp xong. Cơn ngất vừa rồi của tôi, tôi thấy như thế, có tác dụng còn hơn bao nhiêu lời cầu khẩn của tôi.
“Sao, thấy khá chưa?” Viên quận trưởng hỏi, “Việc gì mà phải sợ tôi? Tôi chỉ là một anh quận trưởng cảnh sát người Pháp nhỏ bé ở tỉnh lẻ thôi mà.”
“Thế mà còn hơn Chúa nhiều.” Tôi mừng rỡ nói, “Chúa chỉ cho tôi cái giấy phép cư trú chung chung trên quả đất này, song nó hoàn toàn vô dụng. Cái mà tôi thực sự cần là cái giấy phép cư trú tại quận này, và không ai ngoài ông ra có thể cấp cho tôi được, thưa ông quận trưởng.”
Ông ta bật cười.
“Nhưng nếu chúng tìm anh, thì đây là nơi anh dễ bị nguy hiểm nhất.”
“Nếu chúng kiếm tôi, thì cảng Marseille còn tệ hơn ở đây. Đó là nơi chúng nghĩ là tìm ra tôi, chứ không phải ở đây. Xin ông cấp cho chúng tôi cái giấy phép cư trú một tuần lễ thôi. Khoảng thời gian đó chúng tôi đã vượt qua Biển đỏ[*] rồi.”
“Biển đỏ?”
“Đó là cách nói của dân tị nạn. Chúng tôi như dân Do Thái trên đường chạy ra khỏi nước Ai Cập ngày xưa. Sau lưng chúng tôi là quân đội Đức và bọn Gestapo, hai bên là biển cảnh sát Pháp và Tây Ban Nha, trước mặt chúng tôi là vùng đất hứa của nước Bồ Đào Nha với cảng Lisbon, cái cổng đi đến một vùng đất hứa khác là Hoa Kỳ.”
“Anh đã có dấu nhập cảnh Hoa Kỳ chưa?”
“Chúng tôi sẽ xin.”
“Anh có vẻ tin vào phép màu.”
“Tôi chẳng có quyền chọn lựa. Mà ngay hôm nay một phép màu đã chẳng vừa xuất hiện đó sao?”
Schwarz mỉm cười với tôi:
— Kể cũng lạ thật, trong nỗi tuyệt vọng ta lại tính toán được đến như thế. Tôi ý thức rõ rằng tại sao tôi nói ra những câu nói sau cùng kia và tại sao tôi tâng bốc viên quận trưởng bằng cách sánh ông ta với Chúa. Tôi phải xin cho được ở ông ta một giấy phép cư trú ngắn hạn. Khi ta lệ thuộc hoàn toàn vào người khác, ta cần phải là nhà tâm lý lành nghề, dẫu rằng lúc bấy giờ ta đang run sợ đến đứt hơi thở, mà cũng có lẽ chính vì lý do ấy. Sợ hãi và thận trọng là hai chức năng riêng biệt, cái nọ không xen vào cái kia. Nỗi sợ hãi của bạn là đích thực, cảnh ngộ khốn cùng của bạn cũng đích thực, và óc tính toán của bạn cũng thế.
Tất cả đều nhắm vào cùng một mục đích: sự cứu nạn. Schwarz tỏ vẻ điềm tĩnh hơn.
— Xin ông kiên nhẫn cho chút, tôi sẽ xong ngay thôi. - Hắn nói. - Quả thật là chúng tôi được giấy phép cư trú trong một tuần lễ. Tôi đứng chờ Helen nơi cổng trại. Lúc ấy chiều cũng sắp tàn. Có cơn mưa nhỏ. Bác sĩ cùng ở đấy với nàng; nàng nói chuyện với ông ta một hồi trước khi trông thấy tôi. Câu chuyện có vẻ sôi nổi, trên khuôn mặt nàng hiện rõ nét cảm xúc hơn thường lệ. Tôi có cảm giác tôi là người khách qua đường không ai trông thấy, đi ngoài phố nhìn lén vào phòng thiên hạ. Rồi nàng trông thấy tôi.
“Vợ anh đau nặng lắm đấy.” Bác sĩ cho tôi biết.
“Đúng đấy.” Helen bật cười, nói, “Em được phóng thích nên em có thể vào bệnh viện để chết. Đã nhất trí về điều đó rồi.”
“Tôi nói nghiêm chỉnh đấy.” Giọng bác sĩ hơi gay gắt, “Quả thật vợ anh nên vào nhà thương.”
“Thế tại sao cách đây đã lâu người ta không đưa nàng vào?” Tôi hỏi.
“Chuyện gì thế này?” Helen nói, “Tôi chẳng đau ốm gì đâu và cũng không vào bệnh viện nào cả.”
“Bác sĩ có thể đưa nàng vào một bệnh viện nào nơi nàng được an toàn không?” Tôi hỏi bác sĩ.
“Không.” Ông đáp sau một lúc suy nghĩ.
Helen lại cười lớn:
“Dĩ nhiên là không. Cuộc thảo luận thật là vô nghĩa. Thôi, vĩnh biệt Jean.”
Nàng đi xuống dọc theo con đường trước tôi. Tôi muốn hỏi bác sĩ nàng có bệnh gì, nhưng không kịp. Ông nhìn tôi rồi vội vã quay lưng đi trở về trại. Tôi đành bước theo Helen.
“Em lấy hộ chiếu chưa?” Tôi hỏi.
Nàng gật đầu.
“Đưa túi xách của em cho anh.” Tôi bảo.
“Có gì trong ấy đâu.”
“Thì cứ đưa cho anh.”
“Em vẫn còn giữ chiếc áo dạ hội anh mua cho em ở Paris đấy.”
Chúng tôi bước nặng nhọc.
“Em ốm phải không?” Tôi hỏi nàng.
“Nếu thật là em bệnh, em đã nằm liệt giường rồi, phải thế không? Em phải sốt chứ. Em chẳng đau ốm gì cả. Ông ấy nói dối. Ông ấy muốn em ở lại đấy thôi. Anh nhìn em đi! Trông em có gì là bệnh không?”
Nàng đứng lặng yên.
“Có đấy.” Tôi đáp.
“Đừng buồn, anh ạ.” Nàng bảo.
“Anh có buồn đâu.”
Giờ thì tôi biết nàng ốm, và tôi cũng biết nàng sẽ không bao giờ chấp nhận chuyện ấy.
“Nếu vào bệnh viện thì em có đỡ phần nào không?” Tôi hỏi.
“Không.” Nàng đáp, “Chẳng đỡ hơn chút nào đâu. Anh nên tin em. Nếu em ốm mà bệnh viện có thể giúp em được, em đã kiếm cách vào đấy rồi. Tin em đi.”
“Anh tin em.”
“Anh có thể làm gì được?”
Bỗng nhiên tôi cảm thấy chán nản đến tuyệt vọng.
“Có lẽ em ở lại trong trại mà tốt hơn đấy.” Sau cùng tôi nói.
“Nếu anh không đến thì em đã tự tử rồi.”
Chúng tôi tiếp tục đi. Mưa nặng hạt hơn. Quanh chúng tôi bụi mưa dệt thành một bức màn xám buồn bã.
“Ta sẽ tìm cách đến Marseille.” Tôi nói, “Rồi từ đó đến Lisbon và Hoa Kỳ.”
Ở Hoa Kỳ có nhiều y sĩ giỏi, tôi nghĩ thế. Và có những bệnh viện nơi đây không ai đến bắt chúng tôi. Và có lẽ họ sẽ để chúng tôi có công ăn việc làm.
“Chúng ta sẽ quên châu Âu như quên đi một giấc mơ buồn.
Helen không trả lời.