Chương 15
Cuộc phiêu lưu của chúng tôi bắt đầu như thế đấy. - Schwarz nói, - Cuộc hành trình qua hoang mạc và Biển đỏ. Tôi nghĩ chắc ông biết câu chuyện ấy rồi.
Tôi gật đầu.
— Thành phố cảng Bordeaux. Rồi núi Pyrénées. Thăm dò đường biên giới ở các ngã tư. Lại rút về Marseille. Cuộc chiến đấu để kích động những tâm hồn uể oải trước làn sóng kẻ thù man rợ tràn đến mỗi lúc một gần hơn. Qua đó hệ thống quan liêu điên rồ đâm ra lúng túng. Không cấp giấy phép cư trú, nhưng cũng không cấp giấy phép xuất cảnh. Họ không cho bạn ở lại mà cũng không chịu để bạn ra đi. Sau cùng bạn xin được giấy phép xuất cảnh, nhưng trong lúc chờ đợi thì hộ chiếu quá cảnh do Tây Ban Nha cấp lại hết hạn. Bạn không thể xin lại một hộ chiếu khác nếu bạn không có hộ chiếu của Bồ Đào Nha, và cái đó lại còn tùy thuộc vào cái khác nữa. Như thế có nghĩa bạn phải bắt đầu tất cả lại từ đầu, “chờ đợi ngày này qua ngày khác ngoài cổng các tòa lãnh sự, những tiền sảnh của thiên đường và địa ngục. Thật là cái vòng luẩn quẩn khiến phát điên lên được.
— Thoạt tiên chúng tôi đi vào một vùng yên tĩnh, - Schwarz kể tiếp, - Tối hôm ấy Helen được một bữa khóc thoải mái. Tôi kiếm được một phòng tại một khách sạn hẻo lánh. Lần đầu tiên trong bao tháng nay chúng tôi mới sống hệt là cặp vợ chồng với gian phòng riêng, sống chung với nhau chẳng ai quấy rầy. Vì thế mà Helen đã phải òa lên khóc vì sung sướng. Sau đó chúng tôi ngồi lặng yên trong khu vườn nhỏ. Tiết trời rất lạnh, song chúng tôi không thấy buồn ngủ. Chúng tôi uống rượu nho và ngắm con đường dẫn đến trại. Trong tôi nổi lên một tình cảm biết ơn sâu sắc và mãnh liệt đến gần như nhức nhối. Đêm nay tình cảm đó lấn át mọi thứ cảm giác khác, cả đến nỗi lo sợ cho sức khỏe của Helen cũng lu mờ đi. Vơi được buồn tủi sướng vui qua dòng nước mắt, nàng tỏ vẻ dửng dưng và rất điềm tĩnh, như cảnh đất trời sau cơn mưa, trông duyên dáng như khuôn mặt khắc trên đá chạm trổ xưa. Tôi chắc chắn ông hiểu. - Schwarz nói. - Trong cuộc sống như của chúng tôi, bệnh hoạn có nghĩa khác hẳn. Nó có nghĩa là ta phải thôi chạy.
— Tôi biết. - Tôi cay đắng đáp lại.
— Tối hôm sau chúng tôi thấy ánh đèn bịt của chiếc ô tô bò lên đường tới trại. Helen lại thấy khó chịu. Suốt ngày hầu như chúng tôi không ra khỏi phòng. Có riêng một cái giường và một căn phòng là một điều tuyệt vời quá, chúng tôi không muốn bỏ phí dẫu chỉ là một phút. Cả hai chúng tôi đều thấy thân xác mệt mỏi quá chừng, và thật là diễm phúc cho tôi nếu khỏi phải nhúc nhích khỏi khách sạn trong mấy tuần luôn. Nhưng Helen muốn đi. Nàng không chịu nổi cảnh con đường đưa đến trại. Nàng sợ bọn Gestapo vẫn còn sục sạo kiếm nàng.
Chúng tôi thu xếp chút đỉnh đồ đạc hành trang. Khởi hành trong lúc giấy phép cư trú trong quận còn giá trị là điều hợp lý, tôi nghĩ thế. Trên đường đi, nếu chúng tôi có bị bắt tại một nơi nào đó, thì điều tệ lắm là đuổi chúng tôi trở lui; chúng không thể nhốt chúng tôi được, hay ít ra tôi mong như thế.
Tôi định đi về phía Bordeaux; nhưng trên đường đi chúng tôi được biết là quá trễ rồi. Một chiếc xe hơi Citroen bốn chỗ ngồi cho chúng tôi quá giang và người lái xe có khuyên chúng tôi nên trốn vào một nơi nào đó. Anh ta mách có một lâu đài nhỏ cách nơi anh ấy sắp đến không xa. Anh ta biết không có người ở trong ấy; có lẽ chúng tôi qua đêm ở đó được.
Chúng tôi chẳng có gì phải chọn lựa. Đến chạng vạng tối người lái xe cho chúng tôi xuống. Trước mặt chúng tôi, tòa lâu đài nằm im ắng trong khoảng ánh sáng xám buổi hoàng hôn, trông giống như một nông trang thì đúng hơn. Cửa sổ tối om, không màn. Tôi bước lên bậc tam cấp bằng đá và mở thử cửa. Cửa không khóa. Ổ khóa như đã có ai phá. Bước chân tôi âm vang trong phòng tiền sảnh mờ mờ. Tôi cất tiếng gọi lớn, chỉ có tiếng vọng vỡ nát trả lời tôi. Mấy căn phòng trống trơn. Những gì tháo gỡ được đã bị tháo gỡ đi rồi. Nhưng bên trong vẫn còn dáng dấp một nội sảnh xinh xắn của thế kỷ mười tám, tường lát ván ô, khung cửa sổ đều đặn cao sang, trần nhà trang hoàng đẹp, cầu thang xinh xắn.
Chúng tôi chậm rãi đi khắp ngôi nhà. Chẳng ai đáp lại tiếng chúng tôi gọi lớn. Tôi tìm công tắc: Chẳng có. Không có điện. Tòa lâu đài vẫn như từ thuở nó mới được xây cất. Phòng ăn nhỏ bé màu trắng biên mạ vàng. Phòng ngủ đầu tiên chúng tôi vào biên cũng mạ vàng màu xanh nhạt. Chẳng có lấy một món bàn ghế nào. Gia chủ chắc đã đem cất nơi khác.
Trên gác thượng chúng tôi tìm thấy một cái rương đựng mặt nạ, một ít bộ quần áo lòe loẹt rẻ tiền chắc được để lại đó sau một bữa tiệc, và vài hộp nến. Vẫn còn khá là chúng tôi tìm gặp một khung giường bằng sắt và tấm nệm. Trong bếp chúng tôi bắt gặp một ít bánh mì, vài hộp cá trích, một bó tỏi, nửa hũ mật, và trong hầm kho vài cân khoai tây, dăm ba chai rượu vang, và một đống củi. Nói tóm lại, cả một xứ thần tiên.
Mỗi phòng đều có lò sưởi. Chúng tôi chọn một phòng ngủ để ở và lấy ít quần áo treo lên cửa sổ làm màn. Tôi trở ra gặp một khu vườn, một luống rau và vài cây ăn quả. Trên cây vẫn còn một ít táo và lê. Tôi hái đem vào.
Đợi đến lúc trời thật tối, từ xa không còn thấy khói được nữa tôi mới đốt lò sưởi và ngồi vào ăn. Bầu không khí ma quái, huyền ảo. Ánh lửa trong lò sưởi bừng sáng chiếu lên lớp gỗ lát tường xinh đẹp, và bóng hai chúng tôi lung linh chập chờn trên vách như những hồn ma từ cõi an lạc trở về.
Mái nhà ấm lại. Helen cởi áo quần ra hong. Nàng lấy chiếc áo dạ hội mua ở Paris ra mặc. Tôi khui chai rượu. Không có ly chúng tôi đành uống ngay vào miệng chai. Lát sau Helen lại thay áo. Nàng lấy trong rương chiếc áo domino[*] và mặt nạ che mắt mặc vào rồi tha thướt lên xuống chiếc cầu thang âm u. Từ trên rồi từ dưới chiếc cầu thang nàng lên tiếng gọi, âm thanh vang vọng lại từ mọi phía. Tôi không trông thấy nàng, chỉ nghe được bước chân nàng đi. Thoắt cái nàng đứng sau lưng tôi trong bóng tối và tôi nghe hơi thở nàng tỏa lên cổ mình.
“Anh cứ tưởng đã mất em rồi.” Tôi nói, và ôm siết lấy nàng.
“Anh không bao giờ mất em đâu.” Nàng thì thầm qua khe hở của chiếc mặt nạ, “Và anh biết tại sao không? Vì anh không bao giờ tìm cách giữ em lại như người nông dân bám vào mảnh đất của mình. Người đàn ông lôi cuốn nhất cũng chỉ làm ta chán ngấy nếu thiếu đi tính chất ấy.”
“Anh biết anh chẳng lôi cuốn chút nào.” Tôi ngạc nhiên nói.
Chúng tôi đứng ở đầu cầu thang. Cửa phòng ngủ khép hờ và từ lò sưởi, dải ánh sáng chập chờn rơi trên hình chạm trổ ở thành cầu thang và lên miệng, lên vai Helen.
“Làm sao anh biết được anh là gì?” Nàng hỏi nhỏ. Đằng sau chiếc mặt nạ mắt nàng nhìn chăm chăm, rực lửa không còn tròng trắng nữa, như cặp mắt rắn. “Nhưng nếu anh hiểu được những tên Don Juan[*] tâm địa xấu xa như thế nào! Như chiếc áo ta chỉ mặc được một lần. Còn anh, thì khác chứ: anh là con tim của em cơ mà!”
Có lẽ do bộ áo quần cải trang nên chúng tôi mới nói chuyện bằng giọng điệu đó. Mặc dù không thích gì mấy song tôi cũng mặc chiếc áo domino vào để phơi bộ đồ công nhân cạnh lò sưởi. Ánh lửa bập bùng, những bộ y trang lạ lùng, dư ảnh của thời vàng son phảng phất chung quanh khiến chúng tôi thốt nên những lời lẽ khác thường. Những từ quen thuộc đổi hẳn ý nghĩa. Chẳng hạn như “chung thủy” và “bạc tình” mất hẳn trọng lượng và tính cứng nhắc của giai cấp trung lưu, và trở thành song nghĩa có thể dùng thay cho nhau được. Các từ mang quá nhiều sắc thái và được hiểu ở nhiều mức độ.
“Chúng ta đều chết cả rồi,” Helen thì thầm. “Cả hai ta. Không có luật pháp dành cho kẻ chết. Anh thì chết với tấm thông hành chết của anh, còn em hôm nay chết trong bệnh viện. Hãy nhìn lại quần áo của chúng mình. Chúng mình giống những cánh dơi lòe loẹt chờn vờn giữa thế kỷ chết. Nó là một thế kỷ đẹp thật đấy, với điệu vũ minuet[*] với vẻ mỹ miều và với cõi thiên đường kiểu rococo[*]. Nhưng bao nhiêu liên hoan hội hè ấy kết thúc trên máy chém, sáng loáng và tàn nhẫn trong buổi sáng lạnh lùng. Em tự hỏi không biết máy chém dành cho chúng ta đặt ở nơi đâu.”
“Helen, em đừng nói thế.” Tôi bảo.
“Nó chẳng ở đâu cả.” Nàng nói khẽ. “Không có máy chém cho kẻ đã chết. Chúng không thể chặt đầu ta được; ta đâu có thể chặt đầu ánh sáng và bóng tối. Ôm em đi anh, giữa bóng tối vàng son huyền ảo này, và có lẽ sẽ còn lại chút gì cho chúng ta để thắp sáng cho cái giây phút thảm thương mà ta thở hơi cuối cùng.”
Người tôi khẽ run lên.
“Helen, em đừng nói năng như thế.” Tôi nài nỉ.
“Anh hãy nhớ mãi đến em như em ngày hôm nay.” Nàng thì thầm, “Ai biết được ta sẽ ra sao?”
“Chúng ta sẽ qua Hoa Kỳ.” Tôi bảo, “Và rồi cũng có ngày chiến tranh chấm dứt.”
“Em không than thân trách phận đâu.” Nàng nói, áp sát mặt vào tôi. “Việc gì ta phải than trách? Nếu khác đi, thì ta đã ra sao rồi? Một cặp vợ chồng tầm thường, tăm tối, sống một cuộc đời tầm thường, tăm tối tại Osnabruck, với những cảm xúc cũng tầm thường, tăm tối và một ít tuần nghỉ mát mùa hè.”
Tôi không nhịn được cười.
“Đó cũng là một cách nhìn vào sự việc.”
Đêm ấy nàng rất vui thích. Tay cầm cây nến, nàng chạy xuống cầu thang chân mang đôi dép vàng xinh xắn mua ở Paris dạo nọ mà nàng đã cất giấu qua bao nhiêu thăng trầm, và mang một chai rượu mới từ hầm rượu lên. Tôi đang chờ nàng ở đầu cầu thang thì nàng nhô ra khỏi bóng tối, cuốn theo sau những mảng bóng tối, mặt ngước lên nhìn tôi trong ánh nến. Tôi tràn ngập hạnh phúc, nếu từ này có thể dùng cho tấm kính phản ánh lại một dung nhan yêu dấu, trong sáng và hoàn hảo giữa muôn vàn chiếc bóng u uất.
Lửa tàn dần. Nàng ngủ thiếp dưới chồng y trang. Thật là một đêm kỳ lạ. Lát sau tôi nghe tiếng máy bay gầm, và những tấm kính rococo bắt đầu rung nhẹ.
Chúng tôi ở lại đó bốn ngày. Sau đó tôi ra ngôi làng gần nhất kiếm mua thực phẩm và nghe nói có hai chiếc tàu sắp rời Bordeaux.
— Quân Đức chưa chiếm sao? - Tôi hỏi.
— Rồi và chưa. Cái đó còn tùy theo anh là ai. Tôi đem chuyện ấy ra bàn với Helen. Thật là ngạc nhiên, nàng không quan tâm cho lắm.
“Có tàu, Helen ạ,” Tôi nói, không dằn được nỗi phấn khởi. “Có lẽ ta có thể thoát ra khỏi đây được. Rồi sang châu Phi. Đến Lisbon. Hay bất cứ đâu.”
“Tại sao không ở lại đây?” Nàng nói, “Trong vườn có hoa quả rau rá. Em có thể nấu nướng chừng nào còn củi đốt. Bánh mì ta có thể mua ngoài làng. Còn tiền không anh?”
“Còn một ít. Và anh còn một bức tranh có thể bán tại Bordeaux để lấy tiền xe.”
“Thời buổi này ai mua tranh?”
“Những ai có tiền để đầu tư.”
Nàng cười.
“Thế thì anh bán đi, và ta sẽ ở lại đây.”
“Anh cũng mong như thế.”
Nàng đâm ra mê thích ngôi nhà rồi. Cách xa bên hông nhà có một công viên nhỏ. Mặt sau là vườn cây ăn quả và một miếng đất nhỏ trồng rau. Lại có cả ao cá và đồng hồ mặt trời. Helen yêu thích ngôi nhà và dường như nó cũng yêu thích nàng. Khung cảnh thích hợp với nàng. Ít ra cũng thay đổi được cái cảnh sống trong khách sạn và nhà trại. Cuộc sống có y phục đầy đủ tươm tất tại nơi trú ngụ đầy quá khứ thanh bình này dấy lên trong tôi một niềm hy vọng diễm ảo và đôi khi tôi lại còn tin rằng có một cuộc sống khác sau khi ta chết đi, như thể đây là cuộc trình diễn y phục của chúng tôi. Chính tôi cũng cảm thấy vui thích nếu cứ tiếp tục sống như thế này trong cả trăm năm nữa.
Tuy nhiên tôi vẫn cứ nghĩ mãi tới Bordeaux. Tôi bồn chồn vô cùng vì không lẽ tàu bè ra khơi được nếu thành phố đã bị chiếm đóng một phần, song thật ra dạo ấy còn là chiến tranh nửa vời. Nước Pháp đã có hiệp định đình chiến, nhưng hòa ước thì chưa được ký; thế nên người ta coi như có một vùng tạm chiếm và một vùng tự do. Nhưng nước Pháp bất lực nên không thể bắt đối phương cùng đi đến một thỏa ước nào. Ngoài ra quân Đức được đại diện qua quân đội và sở Gestapo, mà hai bộ phận này không phải lúc nào cũng thống nhất hành động.
“Anh phải tìm cho ra mới được. Em cứ ở đây đi, anh sẽ kiếm cách mò xuống Bordeaux xem sao.”
Helen lắc đầu.
“Em không ở lại đây một mình đâu. Em đi với anh.”
Đây không phải là chuyện vô lý. Lúc bấy giờ không còn khu vực nào rõ rệt là an toàn hay nguy hiểm. Ta có thể thoát khỏi bàn tay của bộ chỉ huy quân địch để rồi lại bị bọn Gestapo bắt lại tại một đảo xa xôi nào đó: chẳng có nguyên tắc nào để trông mong, để hy vọng.
Chúng tôi đến Bordeaux một cách thật tình cờ. Tôi chắc ông đã từng quen với cái lối đi đứng như thế rồi. Sau này khi ngồi nghĩ lại, ta không hiểu. Làm sao có thể như thế được. Đi bộ, đi bằng xe. Trên một phần đường chúng tôi lại còn cưỡi nhờ hai con ngựa lưng rộng, hiền lành do một nông dân đánh ra chợ để bán.
Quân đội đã đến Bordeaux rồi. Thành phố chưa bị chiếm đóng, song quân Đức đã có mặt. Cảnh quan không khỏi gây xúc động trong chúng tôi. Chúng tôi nghĩ mình có thể bị bắt bất cứ lúc nào. Helen mặc một bộ đồ bình thường để tránh những cặp mắt xoi mói. Ngoài chiếc áo dạ hội, cái quần dài, và hai áo veston, đó là tất cả những gì nàng còn lại. Phần tôi có thêm bộ đồ thứ hai trong ba lô.
Chúng tôi gửi hành trang tại một tiệm cà phê. Mang theo hành lý dễ khiến người ta chú ý, mặc dầu có không ít người Pháp mang va li theo trong lúc đi đường.
“Ta đến văn phòng du lịch hỏi thăm tin tức tàu bè.” Tôi nói, “Ở thành phố này, chúng mình chẳng quen biết ai cả.”
Chúng tôi tìm ra một văn phòng còn mở cửa. Ở các tủ kính còn thấy mấy tấm bích chương quảng cáo cũ kỹ: “Mùa thu hãy đến sống ở Lisbon. Algiers[*], hòn ngọc của Châu Phi. Nghỉ mát tại Florida, Granada[*] ngợp nắng.” Phần lớn các bích chương đã phai bạc hết màu, nhưng màu sắc của Lisbon và Granada vẫn còn rực rỡ.
Chúng tôi không phải chờ đợi lâu ở quầy. Một chuyên gia mười bốn tuổi chỉ dẫn chúng tôi. Tàu hả? Không hề có. Những tin đồn đại loại như thế cả mấy tuần nay đi đâu cũng nghe nói. Trước khi quân Đức đến, có một chiếc tàu Anh đến đón người Ba Lan và những người tình nguyện khác để thành lập đoàn chí nguyện quân Ba Lan đang được tổ chức tại Anh. Hiện nay thì không có tàu nào rời cảng.
Tôi có hỏi tất cả những người kia đến thành phố để làm gì.
“Cũng như ông thôi, đối với số đông trong bọn họ là thế.” Tay chuyên gia đáp.
“Còn anh thì sao?”
“Tôi đã bỏ hẳn ý định ra đi rồi,” Cậu ta nói. “Ở đây tôi đã có cách sinh sống rồi. Làm thông ngôn, cố vấn, chuyên lo về hộ chiếu và nhà cửa…”
Chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Thời buổi khó khăn khiến người ta chóng già, và tuổi trẻ không bị tình cảm hoặc thiên kiến làm cho mù quáng. Chúng tôi vào một tiệm cà phê, và cậu chuyên gia phác họa tình hình cho chúng tôi rõ. Có lẽ quân Đức sẽ đi, nhưng rất khó xin giấy phép cư trú tại Bordeaux, và xin hộ chiếu thì lại rất bết. Vào lúc này, Bayonne[*] là nơi xin hộ chiếu dễ dàng, người ta bảo thế, song lại quá đông người xin. Marseille có vẻ là nơi tốt nhất, song lại xa quá. Sớm muộn gì ta cũng đi bằng con đường đó.
— Ông cũng thế, chứ gì? - Schwarz hỏi tôi.
— Vâng. - Tôi đáp. - Đó là đoạn đường lên núi Calvaire[*] của chúng ta.
Schwarz gật đầu
— Tất nhiên cũng đã có thử phía lãnh sự Hoa Kỳ. Nhưng Helen có giấy hộ chiếu có giá trị do bọn Quốc xã cấp. Làm sao có thể chứng minh với họ rằng chúng tôi đang gặp nguy hiểm đến tính mạng? Đám người Do Thái kinh hoảng, không có bất cứ một thứ giấy tờ gì trong người, nằm la liệt dọc lề đường bên ngoài cửa, có vẻ còn bị nguy hiểm đe dọa hơn chúng tôi nhiều. Giấy hộ chiếu là chứng cứ chống lại chúng tôi. Kể cả giấy hộ chiếu của ông già Schwarz đã chết.
Chúng tôi quyết định trở về lâu đài của chúng tôi. Hai lần chúng tôi bị hiến binh chặn đường, và cả hai lần tôi mang áp dụng óc hài hước ma mãnh của tôi thật đúng lúc, hợp cảnh. Tôi càu nhàu với mấy tên hiến binh, gí hộ chiếu vào mũi chúng và kể lể điều gì đó về các nhà chức trách quân sự. Helen không nhịn được cười, vì cảnh diễn ra quá khôi hài. Tôi mang ra dùng lại cái mánh mới này lúc trở về tiệm cà phê để lấy lại đồ đạc. Lão chủ bảo chẳng biết gì đồ đạc cả.
“Cứ gọi cảnh sát đi nếu thấy thích.” Hắn nói với một nụ cười. “Liệu anh có dám không nào?”
“Tôi không cần gọi cảnh sát.” Tôi đáp lại, “Cứ đưa lại đồ đạc cho tôi thôi.”
Tên chủ đi về phía người hầu bàn:
“Henri, ông đây muốn bỏ đi đấy.”
Henri xắn tay áo lên và bước lại gần hơn.
“Tôi sẽ suy nghĩ kỹ hơn, nếu tôi ở vào địa vị anh.” Tôi bảo hắn, “Hay anh đang khao khát muốn biết bên trong trại tập trung của Đức ra sao chăng?”
“Câm mồm lại.” Hắn đáp, và đưa nắm tay lên.
“Được thôi, trung sĩ, bắn đi.” Tôi la lớn, mắt nhìn phía sau lưng Henri.
Hắn sập bẫy ngay. Hắn nhìn quanh, nắm tay vẫn đưa cao. Tôi lấy hết sức bình sinh đá vào háng hắn. Hắn thét to một tiếng rồi ngã gục xuống sàn nhà. Lão chủ với lấy chai rượu, từ phía sau quầy bước ra.
Tôi chụp lấy chai rượu Dabonnet[*], đập bể cổ chai vào cạnh quầy rượu, và khua lên cái vũ khí giết người ấy. Lão chủ đứng lặng yên. Sau lưng tôi có tiếng chai thứ hai vỡ. Tôi không nhìn quanh. Tôi không thể rời mắt khỏi lão ta được.
“Em đấy thôi.” Nàng nói, và hét lên với lão chủ tiệm. “Chó đẻ! Trả đồ đạc lại cho chúng tao, không thì nát mặt ra bây giờ.”
Tay nắm chặt cái chai bể cổ, nàng thu mình lấy đà bước lại gần lão. Tôi chụp lấy nàng với cái tay còn rảnh. Chai nàng nắm trong tay chắc là chai rượu Pernod[*], vì bỗng nhiên cả chỗ ấy nồng nặc mùi hồi. Một tràng chửi rủa của phường khuân vác bến tàu tuôn lên mặt lão chủ. Vẫn giữ thế thủ mình, Helen tìm cách gỡ tay tôi ra. Lão chủ rút lui về phía sau quầy rượu.
“Chuyện gì thế này?” Có người hỏi từ phía cửa bằng tiếng Đức.
Lão chủ toét miệng cười. Helen quay lại.
Tên trung sĩ Đức tôi đã bịa ra để dọa Henri lúc nãy bây giờ hiện ra bằng xương bằng thịt.
“Y có bị thương không?” Tên trung sĩ hỏi.
“Ai? Con lợn ấy hả?” Helen chỉ vào Henri vẫn còn nằm gập đôi người lại, hai nắm tay kẹp giữa đùi, “Không phải máu đâu. Rượu Dabonnet đấy.”
“Các người là người Đức hả?” Tên trung sĩ hỏi.
“Phải.” Tôi trả lời, “Chúng tôi bị cướp.”
“Có giấy tờ gì không?”
Lão chủ lại toét miệng cười. Có vẻ như y hiểu đôi chút tiếng Đức.
“Dĩ nhiên chúng tôi có giấy tờ.” Helen la ầm lên, “Và tôi cần anh giúp.” Nàng đưa hộ chiếu lên cao, “Tôi là em gái của trung tá Jurgens. Này anh xem đây!” Nàng chỉ vào nhật ký ghi trên thông hành, “Chúng tôi đang lưu trú tại Lâu đài…”
Nàng nói lên một cái tên mà suốt đời tôi chưa từng nghe nói đến.
“Chúng tôi vừa mới đến Bordeaux trong ngày. Chúng tôi gửi đồ đạc tại đây, cho tên trộm này. Thế mà giờ đây hắn la toáng lên là chưa bao giờ thấy những đồ đạc ấy. Anh vui lòng giúp tôi vậy.”
Nàng lại bước đến lão chủ.
“Thật thế không?” Tên trung sĩ hỏi lão.
“Dĩ nhiên là thật. Phụ nữ Đức không nói dối.” Nàng nói giọng quả quyết.
Thật ra đó là một trong những câu khẩu hiệu tuyên truyền ngu xuẩn của chế độ Quốc xã.
“Thế còn anh là ai?” Tên trung sĩ hỏi tôi.
“Lái xe.” Tôi đáp, vừa phủi phủi vào bộ áo quần công nhân của mình.
“Được, tốt lắm. Thế thì còn chờ gì nữa?” Gã trung sĩ hét lớn với lão chủ tiệm.
Người đàn ông đứng sau quầy rượu thôi không cười toe toét nữa.
“Cô có muốn tôi nhốt tên lưu manh này lại không?” Tên trung sĩ hỏi.
Helen thích thú thông dịch lại câu hỏi ấy, lại còn thêm vào những tiếng “Đồ đểu” và “Đồ ngoại kiều dơ dáy” rất đặc biệt của nàng. Tôi đã từng bị chửi rủa bằng những từ như thế nên tôi giật thót mình khi nghe nàng gọi lão người Pháp ấy là tên ngoại quốc dơ dáy ngay trên đất nước của chính lão.
“Henri.” Lão ta kêu rống lên, “Cậu cất đồ đạc vào đâu?” Rồi quay qua tên trung sĩ, lão nói tiếp, như để giải thích, “Nào, tôi có hay gì đâu. Chắc cậu ta cất đấy.”
“Lão nói dối đó.” Helen nói, “Lão tìm cách trút lên đầu tên cốt đột của lão đó. Thôi, trả lại đi.” Nàng hét lớn với lão chủ tiệm, “Bằng không là ta gọi Gestapo đấy.”
Lão chủ đá vào Henri, tên này rón rén lủi đi.
“Cho tôi xin lỗi.” Lão nói với tên trung sĩ, “Chỉ là hiểu lầm đấy thôi. Mời các vị dùng chút gì với tôi nhé!”
“Cognac.” Helen bảo, “Thứ ngon nhất đấy.”
Lão chủ đặt một ly lên bàn. Helen đưa mắt nhìn lão. Lão lại đặt thêm hai ly nữa.
“Cô là một phụ nữ cừ lắm.” Tên trung sĩ nói.
“Phụ nữ Đức chẳng sợ gì cả.” Helen trích dẫn câu trong sách cẩm nang của bọn Quốc xã, rồi đặt chai Pernod vỡ xuống.
“Anh lái xe loại nào?” Tên trung sĩ hỏi.
Tôi nhìn thẳng vào cặp mắt ngây thơ màu xám của hắn.
“Xe hiệu Mercedes, dĩ nhiên. Hiệu xe Quốc trưởng thường vẫn dùng ấy mà.”
Hắn gật đầu:
“Nơi đây cũng đẹp đấy chứ nhỉ? Không giống như ở nhà, nhưng cũng khá xinh. Cô thấy thế nào?”
“Đẹp đấy, nhưng không giống như ở quê nhà.”
Chúng tôi uống rượu. Cognac ngon tuyệt. Henri mang đồ đạc chúng tôi vào và đặt lên ghế. Tôi nhìn vào ba lô. Chẳng thiếu món gì.
“Các thứ đều nghiêm chỉnh.” Tôi nói với tên trung sĩ.
“Lỗi do tên hầu bàn.” Lão chủ nói, “Cậu được nghỉ việc, Henri. Thôi cút đi.”
“Cảm ơn trung sĩ. Anh đúng là một chiến sĩ Đức mà lại là con người lịch sự nữa chứ.”
Tên trung sĩ đưa tay chào. Tuổi hắn chưa đến hai mươi lăm.
“Còn hai chai Pernod và Dubonnet bị vỡ chưa tính tiền.” Lão chủ tiệm lấy lại can đảm nói.
Helen thông dịch và nói thêm:
“Lão này chẳng lịch sự gì cả. Xôi hỏng bỏng không rồi, ông ơi. Tự vệ mà.”
Tên trung sĩ lấy tiếp chai nữa ở quầy rượu.
“Xin phép.” Hắn nói với vẻ người lịch sự, “Kẻ chiến thắng phải có đôi chút đặc quyền chứ.”
“Bà đây không dùng rượu mùi Cointreau,” Tôi nói. “Lấy cognac thôi, trung sĩ à, chai khui rồi cũng được.”
Tên trung sĩ cầm chai rượu đưa cho Helen. Tôi cất nó vào balô. Ra khỏi tiệm chúng tôi mới chào từ giã. Tôi chỉ ngại tên trung sĩ muốn đưa chúng tôi ra xe Mercedes nhưng Helen giải quyết rất khéo léo. Hắn nói để chia tay:
“Những việc như thế này không xảy ra trên đất nước ta được đâu. Chúng tôi đã có lệnh cấm.”
Tôi nhìn theo hắn. Mệnh lệnh, tôi chợt nghĩ. Tra tấn, bắn vào gáy và tàn sát tập thể. Thì hãy giao cho tôi cả triệu tên lừa đảo bần tiện nhỏ nhen như lão chủ tiệm rượu kia đi.
“Anh thấy thế nào?” Helen hỏi.
“Khỏe thôi. Này, lúc trước anh không biết em chửi thề như thế đấy.”
Nàng cười lớn.
“Em học được trong trại đó. Chà, nhẹ cả người. Như trút khỏi được cả một năm tù tội trên lưng. Còn anh, anh học ở đâu cái lối đánh nhau bằng chai vỡ cổ và cả lối đá vào hạ bộ người ta thế?”
“Chiến đấu để bảo vệ quyền sống của con người.” Tôi đáp, “Thời đại ta đang sống đầy rẫy mâu thuẫn. Để bảo vệ hòa bình ta lại tiến hành chiến tranh.”
Thế mà gần đúng đấy. Cách duy nhất để sống còn là nói dối và gian lận. Trong những tuần lễ kế tiếp, tôi ăn cắp trái cây của nông dân và lấy sữa trộm trong nhà kho của họ. Đó là thời gian đầy hạnh phúc. Nó nguy hiểm, buồn cười, đôi khi ảo não, và thường là vui vẻ, nhưng chưa bao giờ vướng chút cay đắng chua xót nào. Tôi vừa kể ông nghe chuyện xô xát với lão chủ quán. Những chuyện đại loại như thế lúc nào cũng có. Có lẽ ông cũng từng có kinh nghiệm?
Tôi gật đầu:
— Vâng, đúng là vui thật đấy, nếu ta nhìn bằng cặp mắt như vậy.
— Tôi tập quen đi rồi. - Schwarz nói, - Nhờ Helen đó. Nàng không còn chất chứa dĩ vãng trong lòng nữa. Điều tôi đã thỉnh thoảng học được ở nàng là tính hiện thực rạng rỡ hàng ngày của nàng. Mỗi ngày qua dĩ vãng tiêu vụn phía sau nàng. Tất cả kinh nghiệm đời của nàng dồn chất vào khoảnh khắc hiện tại. Điều mà đối với người khác trải rộng lên trọn cuộc đời thì đối với nàng lại cô đọng vào khoảnh khắc đó. Nhưng chẳng có gì là điên dại, loạn kinh trong đó cả. Đó là một sự lắng đọng thoải mái hoàn toàn, thanh thản như nhạc Mozart và khắc nghiệt như cái chết. Đạo lý và trách nhiệm hiểu theo nghĩa hạn hẹp của con người không còn nữa, và được thay bằng những động cơ cao thượng hơn, hầu như siêu thực vậy. Chẳng còn thì giờ để nghĩ đến những chuyện tầm thường. Nàng linh hoạt như pháo bông, nhưng pháo bông của nàng không để lại tro. Lúc bấy giờ tôi chưa nhận ra điều này, nhưng nàng không còn muốn được cứu thoát nữa; nàng biết điều đó không thể được. Nhưng vì tôi cứ khăng khăng, nên nàng cũng đành theo. Và tôi, giống như thằng khùng, kéo lê nàng theo hết chặng đường Thập tự giá[*] này đến chặng đường kế tiếp, và có tất cả mười hai chặng, từ Bordeaux xuống Bayonne, và mãi tận Marseille để rồi sau cùng tấp vào đây.
Lúc chúng tôi về đến lâu đài, thì đã có người ở rồi. Chúng tôi thoáng thấy những bộ quân phục, những tên lính đưa những bàn thợ mộc bằng gỗ lên, còn mấy sĩ quan mặc quần không quân túm vào giày bốt cao cổ đánh bóng, lui tới khệnh khạng như bầy công kỳ quặc.
Ẩn mình sau cây sồi và pho tượng cẩm thạch trong khu vườn, chúng tôi để mắt quan sát. Chiều sắp tắt, ánh chiều mịn như tơ.
“Ta có bỏ sót lại gì không nhỉ?” Tôi hỏi.
“Táo trên cây, không khí, tháng mười vàng óng, và những giấc mơ của chúng ta.” Nàng đáp.
“Những thứ ấy thì đến đâu chúng ta cũng bỏ lại.” Tôi trả lời, “Như tơ nhện đong đưa giữa mùa thu.”
Một tên sĩ quan đứng trên sân hiên gào ra lệnh.
“Tiếng nói của thế kỷ hai mươi đấy.” Helen nói, “Nào, ta hãy ra khỏi đây thôi. Tối nay ngủ đâu?”
“Đâu đó giữa đám cỏ khô.” Tôi đáp, “Mà cũng có thể là trong giường. Nhưng dẫu sao, vẫn có em và có anh.”