← Quay lại trang sách

Chương 16

Ông còn nhớ cái công viên bên ngoài tòa lãnh sự tại Bayonne chứ? - Schwarz hỏi, - Dân tị nạn thường xếp hàng tư, nhưng chỉ lát sau là hàng ngũ tan rã lộn xộn ngay; đám người tị nạn phát hoảng kinh dồn lại làm nghẽn lối vào, khóc la, gào thét, giành nhau một chỗ đứng.

— Tôi còn nhớ. - Tôi nói, - Người ta có phát vé cho ta quyền đứng chờ đợi bên ngoài. Nhưng thiên hạ vẫn làm nghẹt cửa ra vào như thường. Cứ mỗi lần cửa sổ mở ra, tiếng than vãn lại biến thành tiếng gào rít. Họ phải ném hộ chiếu ra ngoài cửa sổ. Hàng trăm cánh tay vụt đưa lên. Đám đông trông giống hệt đám rừng.

Mấy cô gái bỏ đi ngủ, chỉ còn lại hai. Một cô trông cũng khá xinh thơ thẩn đến bên chúng tôi, vừa đi vừa ngáp.

— Các anh buồn cười thật. Chỉ biết có tán gẫu và tán gẫu. Bọn này đến giờ ngủ rồi đấy. Song tiệm vẫn mở nếu các anh còn muốn nói chuyện thêm.

Cô ta mở cửa. Ban mai lùa vào, trắng xóa và sắc nhọn. Mặt trời tỏa sáng. Cô ta đóng cửa lại sau lưng chúng tôi. Tôi nhìn đồng hồ.

— Hôm nay tàu không ra khơi đâu. - Schwarz nói, - Chắc là phải đến đêm mai.

Hắn thấy là tôi không tin hắn.

— Ta thử xuống xem tí. - Hắn nói.

Sau cảnh nhà chứa im lặng, tiếng ồn ào ở đây thoạt tiên hầu như không chịu nổi. Schwarz đứng lặng yên. Một đám trẻ con chạy gần đó, tay xách giỏ đầy cá.

— Kìa ông xem, chúng vừa chạy vừa la, tưởng như chúng đổ xô cả ra đây. - Schwarz nói.

Chúng tôi đi xuống cảng. Biển động, có gió lạnh, nắng gắt song chẳng ấm, cánh buồm bập bùng trong gió. Ai ai cũng bận túi bụi, với buổi sáng, với công việc và với chính bản thân mình. Chúng tôi tha thẩn giữa đám người xôn xao hối hả như hai chiếc lá vàng khô.

— Ông không tin rằng đến ngày mai tàu mới ra khơi sao? - Schwarz hỏi.

Dưới ánh sáng dữ dội trông hắn mệt mỏi và chán chường.

— Tôi không tin được. - Tôi đáp, - Ông bảo hôm nay nó khởi hành. Ta cứ hỏi thử xem. Việc này rất quan trọng đối với tôi.

— Với tôi cũng thế. Nhưng rồi bỗng nhiên nó chẳng có chút nghĩa lý gì với tôi cả.

Tôi không đáp lại. Chúng tôi tiếp tục đi. Một nỗi bồn chồn vô vọng bóp chặt tim tôi. Cuộc đời mời gọi tôi bằng cả âm thanh và màu sắc của nó. Đêm đã tàn. Ta cứ phải gợi lại hình bóng của quá khứ mãi sao?

Chúng tôi dừng lại bên ngoài cửa hiệu dán đầy tranh quảng cáo. Trong tủ kính ở quầy, bảng hiệu màu trắng thông báo việc khởi hành được hoãn lại cho đến ngày hôm sau.

— Tôi hầu như kiệt sức rồi. - Schwarz nói.

Tôi được thêm một ngày. Không kể gì đến bảng thông báo, tôi thử mở cửa. Nó vẫn khóa. Khoảng mười người nhìn tôi. Từ mọi phía họ bước vài bước đến gần tôi hơn khi tôi ấn vào tay nắm cửa. Họ cũng là dân tị nạn. Khi thấy cửa vẫn khóa, họ quay đi, giả vờ như bận nhìn vào tủ kính cửa hiệu.

— Đấy ông xem. Ông vẫn còn thì giờ mà. - Schwarz nói và đề nghị đi ra cảng uống cà phê.

Gã uống vội tách cà phê nóng, hai tay ôm lấy cái tách như để sưởi ấm lòng bàn tay.

— Mấy giờ rồi, ông?

— Bảy giờ rưỡi.

— Một tiếng đồng hồ. - Hắn nói thầm, - Trong một tiếng nữa họ sẽ đến. - Hắn lại nhìn lên. - Tôi không có ý muốn kể ông nghe một câu chuyện thương cảm. Nghe ra nó giống như thế chứ gì, phải không ông?

— Không đâu.

— Thế thì giống gì?

— Giống một câu chuyện tình.

Nét mặt hắn giãn ra, dịu hẳn xuống.

— Cảm ơn ông. - Hắn nói. Hắn thu hết can đảm kể tiếp, - Phần khủng khiếp của câu chuyện bắt đầu từ Biarritz[*]. Tôi nghe nói có một chiếc tàu nhỏ khởi hành từ cảng Saint Jean de Luz. Nhưng thật ra đó chỉ là tin đồn. Khi trở về phòng trọ, tôi thấy Helen nằm ngay ra sàn nhà. Mặt nàng co giật lại.

“Bị cơ bắp rút đấy thôi mà.” Nàng nói thầm, “Sẽ qua thôi. Anh cứ để em yên.”

“Để anh đi kiếm bác sĩ.”

“Không cần mời bác sĩ.” Nàng hổn hển đáp, “Em không cần bác sĩ đâu. Rồi sẽ qua thôi mà. Năm phút nữa trở lại. Bây giờ hãy để em yên. Cứ làm theo lời em đi. Đừng gọi bác sĩ. Anh đi đi.” Nàng thét lên, “Em biết việc em làm mà. Mười phút nữa trở lại. Rồi thì anh…”

Nàng xua tay bảo tôi đi. Nàng không nói được. Nhưng đôi mắt nàng chứa chan cả một lời cầu xin bi thiết và khó hiểu, tôi đành phải bỏ đi. Tôi đứng trước nhà nhìn ra đường phố. Rồi tôi hỏi tìm bác sĩ và được biết có bác sĩ Dubois sống cách đó vài con phố. Tôi chạy đến chỗ ông ta ngay. Ông thu dọn ít dụng cụ rồi đi theo tôi.

Khi chúng tôi trở về. Helen đang nằm trên giường. Mặt nàng ướt đẫm mồ hôi, song nàng có vẻ tỉnh táo hơn.

“Anh lại đưa bác sĩ đến.” Nàng nói giọng trách móc như thể tôi là kẻ thù độc địa nhất của nàng.

Bác sĩ bước từng bước rón rén đến giường.

“Tôi chẳng đau ốm gì đâu.” Nàng nói.

“Thưa bà,” Dubois nói với một nụ cười, “Thì ta hẵng cứ để cho bác sĩ quyết định xem bà có bệnh hay không đã nào.”

Ông mở túi lấy đồ dụng cụ ra.

“Anh hãy để em một mình với bác sĩ.” Helen bảo tôi.

Tôi rời khỏi phòng trong tâm trạng rối bời. Tôi nhớ lại những điều bác sĩ ở trại đã nói. Tôi đi lên đi xuống dọc con phố, nhìn lên bảng quảng cáo vỏ ruột xe ô tô hiệu Michelin treo ở xưởng chữa xe bên kia đường. Hình nhân kết bằng vỏ lốp xe biến thành một biểu tượng buồn thảm, do những khúc ruột và những côn trùng trắng toát kết thành. Tôi nghe tiếng búa đập chan chát từ bên nhà chữa xe dội qua, như có ai đang đóng một cỗ áo quan bằng sắt và bỗng nhiên tôi có ý thức ra nỗi đe dọa này bám sát chúng tôi từ lâu, tạo nên một hậu cảnh xám xịt trên đó cuộc sống chúng tôi nổi bật lên với những đường nét sắc cạnh hơn, như khu rừng ngập nắng nổi bật trên tầng mây bão bùng.

Tôi không nhớ rõ phải chờ bao lâu đến lúc Dubois trở ra. Ông có chòm râu dê ở cằm và tôi đoán vốn liếng chuyên môn của ông chủ yếu là kê những đơn thuốc nhẹ cho bệnh ho, những chứng hậu bệnh khác cho đám người đến đây nghỉ mát. Dáng đi uốn éo của ông làm tôi thất vọng. Lúc ấy tại Biarritz đã hết mùa nghỉ mát; nên ông ta chắc chắn là rất vui mừng gặp được bệnh nhân mắc bất cứ chứng bệnh gì.

“Bà nhà…” Ông nói đến đấy rồi ngưng.

Tôi nhìn ông ta.

“Xin cho tôi biết sự thực hoặc đừng nói gì cả.”

Trong một lúc nụ cười yếu ớt, cảm động thay đổi hẳn nét mặt của ông.

“Ông cầm lấy cái này.” Ông vừa nói, vừa rút ra cuốn sổ đơn thuốc ghi ghi chép chép gì vào đó bằng một thứ chữ không đọc ra, “Ông cứ ra hiệu thuốc bảo người ta theo đó mà bào chế cho. Nhớ lấy lại đơn thuốc đấy. Ông có thể dùng lại bất cứ lúc nào cần đến. Tôi có ghi rõ rồi.”

Tôi cầm lấy mảnh giấy trắng.

“Cái gì thế này?” Tôi hỏi.

“Ông chẳng cần biết làm gì.” Ông ta đáp, “Xin ông nhớ cho điều đó. Ông biết cũng chẳng ích gì đâu.”

“Cái gì thế này? Xin ông đừng bí mật nữa. Tôi muốn biết sự thật.”

Ông ta không trả lời.

“Khi nào ông cần, ông cứ ra hiệu thuốc,” Ông bảo thế. “Họ sẽ bán cho ông ngay thôi.”

“Nhưng gì thế này?”

“Một thứ thuốc làm dịu cơn đau rất mạnh. Ông chỉ có thể mua thứ thuốc đó với toa bác sĩ thôi.”

Tôi cầm đơn thuốc.

“Thưa bác sĩ, tiền khám bao nhiêu?”

“Chả phải trả gì cả.”

Ông ta lại uốn éo bỏ đi. Đến góc phòng ông quay lại.

“Ông đi mua đi và để nó đâu đó mà bà nhà có thể tìm thấy được. Đừng nói gì với bà nhà. Bà ấy biết. Bà thật là tuyệt vời.”

“Helen.” Tôi nói với nàng, “Như thế nghĩa là thế nào? Em đau. Tại sao em không cho anh hay?”

“Đừng tra vấn em nữa.” Nàng đáp lại giọng rất yếu, “Cứ để em sống theo cách của riêng em.”

“Em không muốn cho anh biết sao?”

Nàng lắc đầu.

“Chẳng có gì phải nói cả.”

“Anh không giúp gì được cho em sao?”

“Không, anh yêu quý.” Nàng đáp, “Lần này anh không giúp được em đâu. Nếu được, em sẽ cho anh biết.”

“Anh vẫn giữ bức tranh nhỏ của họa sĩ Degas. Anh có thể bán nó đi. Tại Biarritz này có lắm kẻ rất giàu. Sẽ có đủ tiền đưa em vào bệnh viện.”

“Và để người ta bắt em? Vả lại cũng chẳng ích lợi gì đâu. Anh cứ tin em đi.”

“Bệnh nặng thế cơ à?”

Ánh mắt nàng lộ vẻ buồn phiền khốn khổ đến mức tôi không hỏi thêm gì. Tôi quyết định lại qua Dubois hỏi lại lần nữa.

Schwarz lại im lặng.

— Bà nhà bị ung thư? - Tôi hỏi.

Hắn gật đầu.

— Đáng lẽ tôi phải nghĩ ra trước đó từ lâu. Tại Thụy Sĩ người ta bảo nàng có thể giải phẫu lần thứ hai nhưng không ích gì. Trước kia nàng đã chịu một cuộc phẫu thuật rồi. Tôi có trông thấy vết sẹo. Bác sĩ chuyên đã cho nàng biết sự thật. Nàng vẫn có thể lựa chọn giữa vài lần phẫu thuật vô ích nữa nhưng phải ở mãi trong bệnh viện và một cuộc sống ngắn ngủi bên ngoài. Ông ấy cũng có nói thẳng cho nàng hay không có gì bảo đảm nàng sống lâu hơn trong bệnh viện. Thế là nàng quyết định không giải phẫu.

— Bà nhà không muốn cho ông biết?

— Không. Nàng căm thù chứng bệnh của nàng. Nàng cố làm như không biết đến nó. Người nàng đã nghe thấy mùi đất rồi, như thể dòi bọ rúc khắp nơi bên trong người nàng. Chắc nàng ngại rằng tôi sẽ kinh tởm nếu tôi hay được chuyện. Cũng có lẽ nàng còn hy vọng cứ làm như không biết đến nó thì chứng ung thư sẽ biến đi.

— Và ông chẳng khi nào nói với bà nhà về điều ấy?

— Rất ít khi. Nàng có nói với Dubois và về sau tôi làm cho Dubois phải nói sự thật. Ông đưa thêm thuốc cho tôi, và có cho tôi biết chứng bệnh có thể trầm trọng hơn, nhưng cũng có thể, ông ấy bảo, là cuộc kết thúc sẽ nhanh chóng nhẹ nhàng. Tôi chẳng nói gì với Helen. Nàng không muốn tôi làm như thế. Nàng dọa sẽ tự tử nếu tôi không chịu để nàng yên. Sau đó, tôi làm ra vẻ tin nàng, tin rằng đó chỉ là chứng co rút cơ bắp vô hại mà thôi.

Chúng tôi phải rời Biarritz. Chúng tôi đánh lừa lẫn nhau. Helen nhìn tôi và tôi lại nhìn nàng. Nhưng không bao lâu sự đánh lừa nhau ấy có một mãnh lực lạ lùng. Trước tiên nó hủy diệt điều mà tôi sợ nhất: ý niệm về thời gian. Ý niệm về tuần tháng phai nhạt hẳn đi. Nó vẫn còn làm chúng tôi khiếp sợ khi nghĩ còn thật quá ít thời gian phía trước chúng tôi, nhưng nỗi sợ hãi ấy trở nên trong suốt như thủy tinh. Nó không còn như đám mây bao trùm lên tháng ngày của chúng tôi, mà biến thành tấm lá chắn làm lệch hướng những suy tư nhiễu loạn đi: chúng không còn kéo đến nữa. Tôi gặp những lúc thất vọng não nề khi Helen ngủ thiếp đi. Tôi nhìn xuống khuôn mặt nàng còn nàng thì nằm đấy, hơi thở nhẹ nhàng và trong tầm tay khỏe mạnh của tôi. Và tôi nhận thức rõ nỗi cô đơn khủng khiếp mà thân xác ta giam hãm ta trong đó, cái vịnh mà ta không thể nào bắc cầu qua được. Dòng máu khỏe mạnh của tôi bất lực không chữa trị được dòng máu bệnh hoạn của người tôi yêu dấu. Nó vượt quá tầm hiểu biết. Và cái chết cũng thế.

Cái khoảnh khắc hiện tại biến thành đủ mọi thứ. Ngày mai là cõi vô biên xa tít mù. Khi Helen thức, khi ngày lại bắt đầu, lúc nàng ngủ và tôi cảm thấy nàng bên cạnh, những suy tư của tôi lơ lửng giữa hy vọng và thất vọng. Tôi ôm ấp những dự tính ngông cuồng dựa trên phép màu, hoặc vẽ nên một thứ triết lý tùy thời, đui mù trước mọi sự khác chung quanh. Nhưng tất cả những ước mơ điên dại ấy của tôi bị ánh sáng đầu ngày xua tan đi, bị làn sương sớm nuốt chửng mất.

Thời tiết trở lạnh. Tôi lang thang với bức tranh Degas. Đúng ra nó sẽ cho tôi đủ tiền tàu qua Hoa Kỳ, và tôi cũng hài lòng bán được nó đi. Nhưng tại những thành phố lẻ và những làng mạc tôi đi qua, chẳng ai chịu trả mua với giá phải chăng, thỉnh thoảng tôi kiếm việc làm tạm bợ. Tôi tập lao động ngoài đồng. Tôi đào, tôi cuốc. Tôi vui mừng được có việc làm. Không phải chỉ có chúng tôi đâu. Tôi đã gặp các giáo sư cưa gỗ và ca sĩ Opéra đào củ cải. Nông dân thì có cách đối xử của riêng họ, họ lợi dụng sức lao động rẻ tiền. Có người thì trả chút đỉnh tiền công, có người lại cho thức ăn và chỗ ngủ qua đêm. Cũng có người xua đuổi ta đi ngay. Ấy, chúng tôi tìm đường đến Marseille như vậy đó. Ông đã đến đó lần nào chưa?

— Có ai mà chưa đến đó? - Tôi nói, - Đó là khu vực làm ăn của hiến binh và bọn Gestapo. Chúng vây quanh đám dân tị nạn như đàn thỏ bên ngoài các tòa lãnh sự.

— Suýt tí nữa là chúng bắt chúng tôi đấy. - Schwarz nói, - Viên quận trưởng trông coi Sở ngoại kiều ở Marseille làm đủ cách trong chức năng của ông để cứu người tị nạn. Tôi vẫn bị ám ảnh bởi ý nghĩ phải xin cho được hộ chiếu Hoa Kỳ. Một hộ chiếu Hoa Kỳ, tôi cứ nghĩ thế, có thể chặn đứng được chứng ung thư nữa. Muốn có được hộ chiếu, ông cũng rành quá rồi mà, ta phải chứng minh là đang gặp hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm hoặc có tên trong danh sách những nghệ sĩ, khoa học gia hoặc nhà trí thức nổi tiếng, danh sách đã lập sẵn tại Hoa Kỳ. Làm cứ như cả bọn chúng tôi chẳng ai gặp nguy hiểm cả, và cứ như là mạng người này không bằng mạng người kia vậy! Cái lối phân biệt giữa con người tầm thường với con người có giá trị chẳng có chút bà con xa gần với cái quan niệm siêu nhân đối lập với lũ người sâu bọ của bọn Quốc xã đó sao?

— Người ta đâu có khả năng lấy hết tất cả mọi người được. - Tôi nói.

— Không à? - Schwarz hỏi vặn lại.

Tôi không trả lời. Mà trả lời như thế nào đây? Có và không thì cũng thế thôi.

— Tại sao không lấy kẻ bị số phận hẩm hiu nhất, bị bạc đãi nhất? - Schwarz hỏi, - Những kẻ vô danh không tiếng tăm?

Tôi chẳng nói gì. Schwarz đã có hai hộ chiếu Hoa Kỳ, hắn còn muốn gì hơn nữa? Hắn há không biết rằng người Hoa Kỳ chỉ cấp hộ chiếu cho bất cứ ai có người ở bên ấy đứng ra bảo lãnh, y sẽ không trở thành gánh nặng công cộng đó sao?

Lúc sau hắn cũng huyên thuyên như thế.

— Bên đó tôi chẳng quen biết ai cả. Nhưng có người cho tôi cái địa chỉ ở New York. Tôi viết thư đến địa chỉ đó. Tôi cũng có viết vài người khác nữa. Tôi nói rõ hoàn cảnh của chúng tôi. Thế rồi có người bạn cho tôi biết tính toán như thế là sai hoàn toàn. Người tàn phế không được nhận qua Hoa Kỳ. Những người mắc chứng nan y cũng không được xét đến. Thế tức là tôi phải bảo đảm Helen hoàn toàn đầy đủ sức khỏe. Helen nghe trộm được một phần câu chuyện. Điều đó không tránh khỏi. Ở Marseille chẳng ai nói chuyện với ai cả. Trông thật chẳng khác gì một đàn ong điên.

Tối hôm ấy chúng tôi ngồi tại tiệm ăn xa đại lộ Canebière. Ngoài đường gió thổi quét từng đợt. Tôi không nản. Tôi hy vọng gặp được một bác sĩ nhân đạo nào đó chịu cấp cho Helen giấy chứng nhận sức khỏe. Chúng tôi vẫn chơi cái trò chơi cũ, nghĩa là cứ giả vờ tin lẫn nhau, giả vờ như tôi chẳng hay biết gì cả. Tôi viết thư cho viên quản đốc trại nàng để xin giấy chứng nhận rằng chúng tôi đang gặp nguy khốn. Chúng tôi mướn một căn phòng nhỏ. Tôi cũng xin được giấy phép cư trú hạn một tuần lễ và kiếm được một chỗ làm bất hợp pháp về đêm, chân rửa bát đĩa. Chúng tôi có chút ít tiền, và một tay dược sĩ bán cho tôi mười ống chích moóc phin theo đơn thuốc của Dubois. Vậy là chúng tôi có đủ thứ cần dùng.

Chúng tôi ngồi vào bàn gần cửa sổ, nhìn ra đường phố, “với chúng tôi đây là một thứ xa xỉ ít có, vì trong suốt cả tuần lễ chẳng cần phải trốn tránh gì cả. Đột nhiên Helen giật mình và nắm chặt bàn tay tôi. Nàng nhìn đăm đăm vào bóng đêm lộng gió.

“Georg!” Nàng bảo thầm.

“Ở đâu?”

“Trong chiếc xe mui trần. Hắn vừa lái qua đây.”

“Em chắc không?”

Nàng gật đầu.

Tôi kinh ngạc quá đỗi. Tôi cố gắng phân biệt những người chạy xe qua nhưng thấy là không thể được. Tôi không an tâm chút nào.

“Tại sao trong số bao nhiêu là nơi hắn lại có mặt ngay tại Marseille này?” Tôi hỏi.

Nhưng ngay lát sau tôi sực hiểu rằng Marseille là nơi thích hợp nhất trên thế giới mà hắn cần có mặt, nơi ẩn náu cuối cùng của tất cả những người tị nạn tại Pháp.

“Chúng ta lại phải rời Marseille thôi.” Tôi nói.

“Ta có thể đi đâu?”

“Tây Ban Nha.”

“Không phải bên ấy lại còn nguy hiểm hơn sao?”

Có tin đồn tại Tây Ban Nha bọn Gestapo tự nhiên coi như ở nhà, và những người tị nạn bị cảnh sát Tây Ban Nha bắt, sẽ bị giao lại cho nhà chức trách Đức. Nhưng vào những ngày ấy đủ thứ tin đồn lan truyền đi khắp nơi, ta không thể tin tất cả được.

Tôi thử một lần nữa với cái trò đuổi bắt quá xưa này: người ta chỉ cấp cho bạn hộ chiếu quá cảnh Tây Ban Nha nếu bạn có hộ chiếu Bồ Đào Nha, đến lượt hộ chiếu này lại tùy thuộc hộ chiếu một nước khác nữa. Đấy là chưa nói đến cái hệ thống giấy tờ quan liêu lắc léo tệ hại nhất: hộ chiếu xuất cảnh Pháp.

Vào một đêm chúng tôi gặp một dịp may mắn thật bất ngờ: một thanh niên Hoa Kỳ bắt chuyện với chúng tôi. Anh ta hơi say và đang kiếm một người để nói tiếng Anh. Ít phút sau, anh ngồi vào bàn chúng tôi, gọi thức uống mời chúng tôi. Anh ta khoảng hai mươi lăm tuổi và đang chờ tàu trở về lại Hoa Kỳ.

“Tại sao hai ông bà không cùng đi luôn thể?” Anh ta hỏi.

Tôi ngồi im một lúc chẳng nói gì. Câu hỏi ngây ngô ấy tưởng chừng như làm cái bàn giữa chúng tôi phải nứt đôi. Anh ta đang sống trên một hành tinh khác. Điều mà đối với anh ta dễ dàng như uống ngụm nước thì đối với chúng tôi lại xa xôi như chòm sao Thất tinh không tài nào với tới được.

“Không có dấu nhập cảnh.” Mãi sau tôi mới nói.

“Đó đâu phải là trở ngại. Ở Marseille này ta có tòa lãnh sự mà. Nhân viên ở đấy thật tử tế hết sức.”

Tôi cũng từng biết những người tử tế ấy. Họ là những đấng á thần. Bạn chờ đợi hàng giờ ngoài đường để rồi chỉ được gặp thư ký của họ thôi. Sau đó chúng tôi được phép chờ đợi dưới hầm rượu, vì người tị nạn thường bị nhân viên Gestapo chặn bắt ngoài phố.

“Ngày mai tôi sẽ đưa ông bà đến đó.” Anh thanh niên Hoa Kỳ nói.

“Tốt thôi!” Tôi nói mà trong bụng chẳng tin lời anh ta tí nào.

“Nào ta hãy uống mừng đi.”

Chúng tôi uống rượu. Khuôn mặt tươi mát, chân thật của anh là điều vượt quá mức chịu đựng của tôi. Anh ta kể cho chúng tôi nghe về cái biển ánh sáng ở khu Broadway. Toàn là những chuyện cổ tích giữa một thành phố âm u. Tôi nhìn lên khuôn mặt Helen khi anh ta tuôn ra hàng tràng những tên tuổi các diễn viên, các vở kịch, những hộp đêm, khi anh ta gợi cảnh huyên náo vô hại của một thành phố chẳng bao giờ biết đến chiến tranh là gì. Tôi cảm thấy khốn khổ nhưng đồng thời lại vui mừng thấy nàng chịu lắng tai nghe, vì mãi đến lúc bấy giờ nàng chỉ nghe đề cập đến Hoa Kỳ một cách thờ ơ lạnh nhạt đến lạ lùng. Mặt nàng rạng rỡ lên, mỉm cười qua làn khói thuốc và hứa sẽ để anh thanh niên này đưa nàng đi xem vở kịch anh ta thích nhất. Chúng tôi tiếp tục uống và tin rằng cả câu chuyện hôm nay ngày mai sẽ quên đi hết không còn gì.

Nhưng chúng tôi lầm. Người thanh niên Hoa Kỳ ghé chỗ chúng tôi đúng mười giờ. Sau buổi đêm hôm trước đầu tôi còn nhức, miệng tôi còn đắng, và Helen không chịu đi theo tôi. Trời mưa. Như thường lệ, một nhóm người tị nạn tụ tập bên ngoài tòa lãnh sự. Thật như là một giấc mơ. Đám đông rẽ tạt sang hai bên cho chúng tôi vào như Biển đỏ đã rẽ sang hai bên trước đoàn dân Do Thái chạy trốn vua Ai Cập[*]. Tấm thông hành màu xanh lá cây của chàng thanh niên Hoa Kỳ là chiếc chìa khóa vàng mở được mọi cánh cửa.

Điều không thể tin được đã xảy ra. Khi chúng tôi giải thích rõ hoàn cảnh cho anh ta, bằng giọng rất thản nhiên anh bảo sẽ bảo đảm cho chúng tôi. Điều này nghe ra trái với lẽ thường vì anh ta quá trẻ. Tôi thấy dường như muốn bảo đảm cho tôi anh ta phải lớn tuổi hơn tôi mới được. Chúng tôi mất gần một tiếng đồng hồ tại tòa lãnh sự. Trước đó vài tuần, tôi có làm tờ khai nói rõ lý do vì sao chúng tôi đang gặp nguy hiểm. Nhờ những trung gian tại Thụy Sĩ, tôi đã phải mất bao nhiêu lo nghĩ, công sức, tôi có nhận được thư chứng minh rằng tôi có ở trại tập trung của Đức. Tôi cũng đã đưa bằng chứng là Georg đang tìm kiếm chúng tôi để đưa trở về Đức. Người ta bảo một tuần nữa trở lại. Ra ngoài, anh chàng Hoa Kỳ bắt tay tôi, chìa tấm danh thiếp cho tôi và nói:

“Ông cầm lấy cái này. Và nhớ ghé thăm tôi khi qua bên đó.”

Anh vẫy tay chào tôi và sắp sửa bỏ đi. Tôi hỏi:

“Nếu có chuyện gì trục trặc thì sao? Nếu tôi cần đến anh thì sao?”

Anh ta bật cười.

“Ai cũng biết ông cụ tôi. Tôi nghe nói ngày mai có tàu đi Oran[*]. Tôi nghĩ chắc tôi sẽ bay qua đó trước khi trở lại đây. Ai mà biết được chừng nào tôi mới có thể trở lại? Tốt hơn ngay bây giờ nên suy tính kỹ.”

Nói xong, anh ta biến mất. Năm sáu người tị nạn vây quanh lấy tôi, hỏi thăm tên và địa chỉ anh ta; họ áng chừng là có chuyện gì đã xảy ra và muốn tham gia vào. Đến lúc tôi bảo tôi chẳng biết anh ta ở đâu tại Marseille thì họ bèn gọi tôi bằng đủ thứ tên nghe chẳng tốt đẹp gì. Mà thật tình tôi không biết. Tôi đưa họ xem tấm danh thiếp với cái địa chỉ Hoa Kỳ của anh ta. Họ vội chép liền. Tôi bảo họ chẳng ích gì đâu, người đàn ông ấy đi Oran thôi. Họ bảo sẽ đợi anh ta trên cầu tàu trước khi tàu rời bến. Tôi về nhà với mớ suy nghĩ lộn xộn. Có lẽ tôi đã làm hỏng mọi công việc khi đưa ra tấm danh thiếp, nhưng nỗi hoang mang trước sự thể ấy khiến tôi mất hết cả tỉnh táo. Và dẫu sao cứ mỗi bước chân tôi đi tôi lại càng tin chắc hoàn cảnh thật là vô vọng.

Tôi thuật lại tất cả cho Helen nghe. Nàng cười. Tối hôm ấy nàng rất hòa nhã dễ thương. Chúng tôi mướn lại căn phòng nhỏ hẹp của một chủ mướn khác, “ông cũng rõ có những địa chỉ truyền miệng cho nhau ấy mà. Con chim yến màu xanh mà chúng tôi hứa chăm sóc đang hót như điên trong lồng, nó hót không ngừng. Đôi lúc một chú mèo từ mái nhà bên cạnh bước vào ngồi ở bục cửa sổ, đôi mắt vàng nhìn hau háu vào con chim. Trời rét, nhưng Helen muốn để cửa sổ mở. Nàng vẫn làm như thế mỗi khi nàng thấy đau.

Mãi đến khuya ngôi nhà mới được yên tĩnh.

“Anh còn nhớ cái lâu đài nhỏ dạo ấy không?” Helen hỏi.

“Anh còn nhớ rõ như thể có ai đó kể nó lại cho anh vậy.” Tôi đáp, “Như thể không phải chính anh mà là người nào khác đã sống ở đó.”

Nàng nhìn tôi.

“Mà có lẽ như thế thật.” Nàng nói, “Bên trong ta ai cũng có rất nhiều con người. Và đôi khi một trong những nhân vật đó đứng tách riêng hẳn ra và chiếm ưu thế trong một lúc. Thế là ta trở thành một người nào đó khác, một người mà ta chưa bao giờ quen biết. Nhưng rồi ta trở về với cái ta.”

Nàng quay lại tôi vẻ khẩn khoản.

“Có phải không anh?”

“Anh chưa bao giờ có nhiều người khác bên trong anh cả.” Tôi đáp, “Anh lúc nào cũng chỉ như thế này một cách tẻ ngắt.”

Nàng lắc đầu thật mạnh.

“Anh nói không đúng đâu. Một ngày nào đó anh sẽ tự khắc thấy thôi.”

“Em muốn nói gì đấy?”

“Thôi, quên chuyện ấy đi. Kìa, anh hãy nhìn con mèo trên cửa sổ. Rồi nhìn lại con chim quá quắt kia. Chẳng chút nghi ngờ gì cả! Một nạn nhân vui vẻ!”

“Con mèo không bao giờ bắt nó được đâu. Nó được an toàn ở trong lồng.”

Helen bật cười lớn.

“Hừm, an toàn ở trong lồng.” Nàng lặp lại, “Có ai lại muốn được an toàn trong lồng?”

Mãi đến sáng rõ chúng tôi mới thức giấc. Người gác cổng đang hò hét, nguyền rủa. Mặc quần áo nghiêm chỉnh, tôi vội chạy ra mở cửa nhưng chẳng thấy bóng dáng cảnh sát.

“Có máu!” Bà gác cổng thét lên, “Bà ấy không còn cách nào khác sao chứ? Thật bê bối dơ bẩn quá chừng? Giờ thì phải gọi cảnh sát thôi. Ấy đấy, tốt bụng tốt dạ thì hậu quả như thế đấy! Người ta chỉ biết lợi dụng thôi. Lại còn thiếu năm tuần tiền mướn phòng nữa chứ!”

Những khách trọ khác tụ lại trong khoảng sáng xám ngoài hành lang và nhìn vào căn phòng kế sát phòng chúng tôi. Một bà lục tuần tự tử bằng cách cắt mạch máu ở cổ tay. Máu chảy xuống theo cạnh giường bà ta nằm.

“Gọi ngay bác sĩ.” Lachmann nói.

Lachmann là một người tị nạn gốc Frankfurt sống ở Marseille bằng nghề bán chuỗi hạt và tượng ảnh thánh.

“Bác sĩ!” Bà gác cổng điên tiết nói, “Bà ấy đã chết cả mấy tiếng đồng hồ rồi. Mấy người không thấy à? đấy, cứ nhận mấy người vào ở là như thế đấy! Giờ thì phải mời cảnh sát lại. Họ cứ việc bắt cả lũ mấy người đi, tôi đếch cần. À mà còn cái giường. Làm sao tôi chùi rửa nó sạch đây?”

“Chúng tôi sẽ lau chùi nó thôi.” Lachmann nói, “Nhưng bà đừng để cảnh sát dây vào chuyện này.”

“Thế còn tiền trọ? Tiền trọ của bà ấy thì sao đây?”

“Chúng tôi sẽ quyên góp.” Một bà già mặc áo kimono nói, “Chúng tôi còn đi đâu được nữa? Xin bà hãy thương giùm chúng tôi.”

“Tôi đã thương xót bà ấy, thế mà bà ấy lại lợi dụng lòng tốt của tôi. Phải chi bà ấy có chút đỉnh của cải có giá trị!”

Bà gác cổng lục lọi moi móc khắp nơi. Chiếc bóng điện trần độc nhất tỏa ra một thứ ánh sáng vàng nhợt nhạt. Bên dưới giường người chết có một cái va li bằng sợi rẻ tiền. Bà gác cổng quỳ xuống phía cuối giường sắt, phía chân không có máu và kéo nó ra. Bên dưới lớp áo vải sọc mặc trong nhà, bà phô ra một bộ mông to lớn thô tục của con côn trùng đang chực vồ mồi. Bà mở va li ra.

“Chẳng có gì cả! Toàn đồ giẻ rách, giày cũ.”

“Này, nhìn đây xem!” Người đàn bà mặc kimono vừa nói, vừa chỉ vào cái hộp nhỏ, “Tên người chết là Lucie Lowe, làm nghề bán tất vớ cũ chợ đen và hàn đồ sành sứ bể.”

Bà gác cổng mở chiếc hộp ra. Trên lớp vải màu hồng là một sợi dây chuyền nhỏ và một chiếc nhẫn nạm hột đá nhỏ.

“Vàng hả?” Bà gác cổng hỏi, “Chắc là mạ vàng.”

“Vàng.” Lachmann nói.

“Nếu là vàng.” Bà gác cổng nói, “Bà ấy có thể bán nó đi trước khi làm việc này chứ!”

“Đâu có phải lúc nào cũng vì đói mà ta làm chuyện ấy đâu.” Lachmann điềm tĩnh nói, “Đúng là vàng thật đấy. Và viên đá nhỏ là hồng ngọc. Đáng giá ít nhất cũng là bảy tám trăm franc.”

“Thôi đi, đừng đùa nữa. Không cười được đâu.”

“Thật đó. Tôi có thể bán lại nếu bà thích.”

“Rồi lừa tôi để cuỗm hết tiền ấy hả? Thôi đi ông bạn ơi, bạn đến nhầm địa chỉ chỉ rồi.”

Bà ta phải gọi cảnh sát. Không thể tránh thủ tục này được. Trong khi đó, những khách trọ tị nạn cũng đã mỗi người mỗi ngả rồi. Số đông bắt đầu những sinh hoạt thường ngày của họ, chờ đợi ở tòa lãnh sự, hoặc tìm cách bán lại một món đồ gì đó hoặc chạy kiếm việc làm. Những người còn lại thì đi đến nhà thờ gần nhất. Chúng tôi đặt một người cảnh giác ở góc đường để báo chúng tôi biết lúc nào bờ biển vắng người.

Buổi lễ ở nhà thờ đang tiến hành. Trong những lối đi ở hành lang các phụ nữ vận đồ đen phủ phục như những mô đất tối thẳm. Mấy ngọn nến bập bùng cháy một cách thản nhiên, nhạc oóc gan trỗi lên, và ánh đèn bập bùng lấp lánh trên cốc rượu lễ vàng được nâng lên hứng lấy máu Chúa Giêxu hiến dâng để cứu rỗi thế gian. Nhưng rồi máu ấy đưa đến đâu? đến những cuộc thánh chiến đẫm máu, đến sự cuồng tín tôn giáo, những tra tấn của tòa án Dị giáo thời trung cổ, những cuộc săn đuổi phù thủy và hỏa thiêu những người dị giáo, tất cả đều nhân danh Đức bác ái.

“Tại sao ta không ra ga?” Tôi hỏi Helen, “Ở đấy ấm hơn.”

“Được thôi. Nhưng anh đợi cho chút.”

Nàng bước đến chiếc ghế dài bên dưới bục giảng và quỳ xuống. Tôi không rõ có phải nàng cầu nguyện hay không và cầu nguyện cho ai, nhưng tôi chợt nhớ đến cái ngày tôi chờ đợi nàng trong thánh đường ở Osnabruck. Dạo ấy, tôi như gặp một phụ nữ tôi từng quen biết và mỗi ngày qua nàng vừa xa lạ vừa gần gũi hơn. Giờ đây nàng có vẻ như cũng trượt khỏi tôi lần nữa để đi vào vùng nơi mọi tên tuổi đều bị lãng quên, nơi chỉ còn bóng tối cùng với những quy luật lạ lùng của bóng tối. Nàng xua đuổi vùng âm u đó; nàng trở lại với tôi, nhưng nàng không còn là của tôi như tôi vẫn cố tin như vậy. Có lẽ chưa bao giờ nàng là của tôi cả. Mà nói cho cùng, có ai thuộc về ai đâu? Mà thuộc về người nào đó là nghĩa gì? Thuộc về lẫn nhau là nghĩa gì? Phải chăng đó chỉ là một ảo giác vô vọng, một quy ước vụng về? Mãi mãi nàng quay về, như nàng vẫn thường gọi, trong một giờ, trong một khoảnh khắc của một cái nhìn, trong một đêm. Và lúc nào tôi cũng cảm thấy mình như là một nhân viên kế toán mà không có quyền kiểm tra sổ sách. Tôi chỉ được quyền chấp nhận mà không thắc mắc bất cứ điều gì mà người tôi yêu dấu, con người bị đày đọa, khốn khổ và khó hiểu thích làm và chịu vui lòng cho tôi biết. Tôi cũng thừa biết có những tên khác để gọi hiện tượng này, những tên gọi rẻ tiền, dễ dãi, miệt thị, song những tên gọi này dùng trong những trường hợp khác và cho những người lầm tưởng sở dục vị kỷ của mình là của dâng hiến. Cảnh ngộ cô đơn đòi hỏi có người đồng hành mà không cần hỏi người đó là ai. Nếu ta không nhận thức được như thế, thì ta có thể là cô độc, chứ chưa bao giờ là cô đơn.

“Em cầu nguyện gì vậy?” Hỏi xong tôi lại ân hận đã hỏi nàng như thế.

Nàng nhìn tôi bằng cái nhìn lạ lùng.

“Em cầu nguyện để có dấu nhập cảnh Hoa Kỳ đó.” Helen trả lời, và tôi biết nàng nói dối.

Có thể là để cầu xin điều ngược lại thì đúng hơn. Tôi suy nghĩ hồi lâu, tôi thường bị xúc động bởi thái độ chống đối lặng lẽ của nàng trước những dự tính Hoa Kỳ của tôi. Có đêm nàng hỏi tôi:

“Hoa Kỳ hả? Anh sẽ sẽ làm gì ở Hoa Kỳ? Tại sao lại phải chạy đi xa như vậy? đến đó rồi, lại sẽ có một Hoa Kỳ khác để chạy theo, rồi lại một Hoa Kỳ khác nữa, anh không thấy điều đó sao?”

Nàng không muốn có sự đổi thay gì nữa. Nàng đã từ bỏ mọi tin tưởng ở tương lai. Cái chết đang gặm nhấm nàng như không muốn buông tha nàng. Nó khống chế nàng giống như nhà phẫu thuật sống quan sát xem những gì sẽ xảy ra khi một bộ phận này tiếp theo bộ phận khác, khi tế bào này tiếp theo tế bào kia, bị biến đổi và tiêu hủy. Nó chơi cái trò mặt nạ tàn bạo với nàng, không khác nhiều lắm cái buổi dạ vũ hóa trang vô hại ở lâu đài dạo nọ. Qua từng phút, người đàn bà này bằng ánh mắt lung linh, thể hiện, khi là thù hận khi thì hiến dâng. Có lúc nàng như con bạc chấp nhận thua cuộc bằng cả lòng can đảm nẫu ruột, có lúc nàng lại là khao khát tuyệt vọng cùng cực. Nhưng luôn luôn nàng vẫn là con người chỉ có tôi làm cái bến để trở về từ vùng u tối, lòng tràn ngập biết ơn trong nỗi phấn khích kinh hãi, dũng cảm và tối hậu của nàng.

Người bạn canh chừng trở vào cho biết cảnh sát đã đi rồi.

“Chúng ta nên đến viện bảo tàng.” Lachmann nói, “Ở đấy có lò sưởi.”

“Ở đấy có hả?” Một phụ nữ gù lưng hỏi. Bà này đợi chồng bị cảnh sát bắt đã sáu tuần nay.

“Dĩ nhiên.”

Tôi không thể không nghĩ đến ông Schwarz trước kia.

“Em muốn đi không?” Tôi hỏi Helen.

“Bây giờ thì không. Ta trở về phòng trọ thôi.”

Tôi không muốn cho nàng trông thấy lại người đàn bà chết, song nàng cứ nằng nặc muốn thế. Lúc tôi trở về bà gác cổng đã nguôi cơn giận rồi. Có lẽ bà ta đã được đền công bằng sợi dây chuyền và chiếc nhẫn.

“Bà lão đáng thương thật!” Nàng nói, “Bây giờ đến cái tên, bà ấy cũng không có.”

“Bà ấy không có giấy tờ gì sao?”

“Bà ấy có giấy thông hành an toàn. Trước khi cảnh sát đến, người ta bỏ thăm để dành lấy nó. Bà tóc đỏ trúng thăm.”

“Thế thì tốt. Bà tóc đỏ chẳng có giấy tờ gì cả. Anh nghĩ chắc người chết cũng chẳng phiền gì đâu.”

“Anh có muốn đến thăm bà ấy không?”

“Không.” Tôi đáp.

“Em thì muốn.” Helen nói.

Tôi cùng đi với nàng. Người chết đã ngưng chảy máu. Khi chúng tôi bước vào thì đã có hai phụ nữ tị nạn đang tắm rửa thi hài. Họ lật qua lật lại như tấm ván trắng. Tóc rủ xuống sàn nhà.

Một trong hai người hét bảo tôi:

“Bước ra khỏi đây.”

Tôi bỏ đi. Helen ở lại. Một lát sau tôi trở lại đón nàng. Nàng đứng một mình ở chân giường trong gian phòng chật hẹp, nhìn đăm đăm vào khuôn mặt nhợt nhạt trũng xuống, trên đó một con mắt chưa nhắm hẳn.

“Thôi, đi đi em!” Tôi nói.

“À, chết rồi thì trông như thế đấy.” Nàng nói khẽ, “Người ta sẽ chôn bà ấy ở đâu nhỉ?”

“Anh không biết. Nơi mà người ta thường chôn những người nghèo ấy mà. Nếu có phí tổn chắc bà gác cổng sẽ tổ chức quyên góp.”

Helen không đáp lại. Gió lạnh lùa vào qua cửa sổ mở.

“Chừng nào chôn bà ta?” Nàng hỏi.

“Ngày mai hoặc ngày kia. Có thể họ muốn mổ xác để khám nghiệm.”

“Sao thế? Họ không tin là tự tử sao?”

“Ồ, họ tin chứ.”

Bà gác cổng đi vào.

“Ngày mai họ đưa bà ta vào bệnh viện để mổ khám nghiệm. Nhờ đó các y sĩ trẻ mới học tập giải phẫu chứ. Còn đối với bà ta thì cũng thế thôi. Và như thế thì chôn cất khỏi phải tốn kém gì cả. Bà dùng tách cà phê nhé?”

“Không ạ.” Helen đáp.

“Còn tôi thì cần một tách.” Bà gác cổng nói. “Tôi thì cứ bấn loạn lên thế này, cũng chẳng hiểu tại sao nữa. Tất cả chúng ta ai cũng phải có ngày qua đó.”

“Vâng.” Helen nói. “Nhưng chẳng có ai muốn tin như thế cả.”

Tôi thức giấc vào lúc nửa đêm. Nàng vẫn ngồi trong giường và như đang lắng tai nghe.

“Anh có nghe thấy mùi gì không?” Nàng hỏi.

“Gì?”

“Cái xác chết. Em đánh mùi thấy nó. Đóng cửa sổ lại đi anh.”

“Có mùi gì đâu, Helen. Bốc mùi đâu mà nhanh thế.”

“Em có nghe thấy mùi mà.”

“Có lẽ là mùi lá đấy thôi. Những người mướn phòng trọ đặt một ít cành nguyệt quế và cây nến cạnh giường người chết đấy.”

“Phỏng có ích gì đâu?” Helen nói, “Ngày mai bà ấy sẽ bị mổ ra từng mảnh. Lúc xong xuôi, họ lại quẳng vào trong xô rồi mang bán cho vườn bách thú.”

“Họ chẳng bán chác gì đâu.” Tôi nói, “Sau cuộc giải phẫu, họ đem thi hài đi hỏa thiêu hoặc đưa đi chôn.”

Tôi đưa tay choàng lên vai Helen, nhưng nàng đẩy tôi ra.

“Em không muốn người ta cắt em ra từng khúc như thế.” Nàng nói.

“Tại sao người ta lại cắt em?”

Nàng không nghe tôi nói.

“Hứa với em là anh không để người ta cắt vụn em ra nghe anh.”

“Anh hứa.”

“Anh đóng cửa sổ lại đi, anh. Em lại đánh hơi thấy mùi.”

Tôi đứng dậy đóng cửa sổ. Vầng trăng vằng vặc, sáng ngời và con mèo còn ngồi trên bậc cửa. Nó kêu lên the thé rồi nhảy đi chỗ khác khi cánh cửa sổ sượt qua người nó.

“Gì thế anh?” Helen đứng sau lưng tôi hỏi.

“Con mèo.”

“Anh thấy không, nó cũng đánh hơi nữa đấy.”

Tôi quay lại.

“Đêm nào nó cũng ngồi đấy chờ con chim yến tung lồng bay ra. Thôi ngủ lại đi, Helen. Em mơ đó thôi. Chẳng có mùi gì từ phòng bà ấy cả.”

“Thế thì chắc là em rồi.”

Tôi nhìn nàng.

“Người ai lại bốc mùi? Helen, em lại mơ đấy thôi.”

“Nếu không phải thi hài đó, thì là em thôi. Anh đừng dối em nữa.” Nàng giận dữ đáp lại.

“Lạy chúa tôi! Helen ạ, người ta ai lại bốc mùi bao giờ. Nếu có mùi thì đó là mùi tỏi ở tiệm ăn tầng lầu dưới đó thôi. Này, nước hoa đây.”

Tôi cầm lọ nước hoa Cologne, một trong những mặt hàng tôi buôn bán chợ đen, rắc vài giọt lên giường.

“Đấy, em thấy không, bây giờ cái gì cũng nghe thơm.”

Nàng vẫn giữ thế ngồi thẳng người.

“À thế là anh cũng công nhận điều đó,” Nàng nói, “Nếu không thì anh đã chẳng rắc nước hoa làm gì.”

“Anh chẳng công nhận điều gì cả. Anh làm thế để em được dễ chịu thôi.”

“Em biết anh nghĩ gì rồi,” Nàng nói, “Anh nghĩ em bốc mùi. Như cái xác chết kia vậy. Đừng dối em nữa. Cứ trông cách anh nhìn em là cũng nhận ra ngay. Em thấy rõ điều đó cả mấy tuần nay rồi. Anh có nghĩ em chẳng để ý cách anh nhìn em khi anh nghĩ là em không nhìn không? Em cảm nhận điều đó, ngày nào cũng thế. Em biết anh nghĩ gì. Anh không tin lời các bác sĩ nói. Anh cứ nghĩ em mắc phải chứng bệnh gì khác đó, và anh nghĩ anh có thể đánh mùi nó được. Em làm anh nhờm tởm. Sao anh không chịu thừa nhận điều đó?”

Tôi đứng yên lặng hoàn toàn. Nếu nàng muốn nói gì thêm nữa, cứ để nàng nói hết. Nhưng nàng thôi. Tôi có thể thấy được nàng đang run rẩy. Nàng chống lên hai tay nhoài người ra phía trước, một bóng dáng xanh xao nhạt nhòa. Trong hốc mắt đôi mắt nàng quá to và đôi môi nàng tô son quá đậm. Nàng đã quen đánh phấn trước khi đi ngủ. Nàng nhìn tôi giống như con thú bị thương sẵn sàng nhảy lên ngoạm lấy cổ tôi.

Lâu lắm nàng mới nguôi lắng xuống được. Sau cùng tôi gõ cửa phòng ông Baum trên tầng lầu hai để mua một chai cô nhắc bỏ túi. Chúng tôi ngồi trên giường vừa uống vừa chờ sáng. Người ta đến đem xác chết đi. Chúng tôi nghe tiếng giày bốt trên bậc cầu thang, và cái cáng va vào tường ở ngoài hành lang chật hẹp. Những câu đùa bỡn của họ có thể nghe mơ hồ qua bức vách ngăn mỏng. Khoảng một giờ sau có những người khách trọ mới dọn đến.