Chương 17
Trong một thời gian tôi làm nghề bán dạo dụng cụ nấu ăn, bàn xát, dao, dao gọt vỏ, nghĩa là các thứ không cần đến chiếc va li khả nghi. Hai lần tôi về nhà sớm hơn thường lệ và thấy Helen đã đi đâu rồi. Tôi đợi, mỗi lúc càng thêm lo lắng hơn, nhưng người gác cổng bảo đảm với tôi chẳng có ai đến tìm nàng, nàng đi ra vài giờ trước đó, và nàng thường ra đi như thế.
Lúc nàng về thì trời đã tối. Vẻ mặt nàng hờn dỗi. Nàng không nhìn tôi. Tôi chẳng biết phải làm gì, nhưng không hỏi han gì đến nàng càng có vẻ lạ lùng hơn là hỏi nàng dăm ba câu.
“Helen, em đi đâu nãy giờ?” Sau cùng tôi hỏi.
“Đi dạo một vòng.”
“Vào thời tiết này?”
“Vâng, vào thời tiết này. Thôi, đừng có mà cứ canh chừng em mãi thế.”
“Anh nào có kiếm cách theo dõi em đâu,” Tôi đáp, “Anh chỉ lo cảnh sát đến bắt em thôi.”
Nàng cười gay gắt.
“Cảnh sát không bao giờ bắt em đâu.”
“Ước gì anh có thể tin được như thế.”
Nàng nhìn tôi.
“Nếu anh cứ lục vấn em mãi em lại đi nữa đấy. Em không chịu nổi cảnh lúc nào cũng bị canh chừng, anh không hiểu được điều đó sao? Mấy dãy nhà ngoài kia đâu có trông chừng em. Em có gì đáng cho chúng quan tâm đến đâu. Và với những người ngoài đường phố em cũng chẳng có gì phải quan tâm. Họ chẳng hỏi em này nọ mà họ cũng chẳng theo dõi em.”
Tôi hiểu nàng muốn nói gì rồi. Ngoài kia chẳng ai biết đến chứng bệnh của nàng. Ngoài kia, nàng không phải là con bệnh, mà là một người đàn bà. Và nàng muốn tiếp tục làm đàn bà như thế mãi. Nàng muốn sống; làm một con bệnh có nghĩa là chết dần chết mòn.
Về đêm nàng thường thét lên trong giấc ngủ. Sáng ra nàng lại quên hết tất cả. Chính bóng tối là điều nàng không chịu nổi. Nó giăng mắc ra đó như màng nhện nhiễm độc bao trùm lên con tim kinh hãi của nàng. Tôi hiểu nàng cần thêm nhiều thuốc giảm đau hơn nữa. Tôi hỏi ý kiến Lewisohn, trước là bác sĩ, nay làm nghề đi xem tử vi dạo. Anh bảo tôi giờ có làm gì đi nữa thì cũng quá muộn rồi. Đúng như Dubois đã cho tôi biết.
Về sau nàng vẫn thường về trễ. Nàng sợ tôi lại hỏi nàng. Nhưng tôi không hỏi. Có một lần người ta mang đến giao một bó hoa hồng tại nhà, lúc ấy chỉ có mình tôi. Tôi đi ra phố, và lúc tôi trở về không thấy bó hoa hồng ở đó nữa. Nàng bắt đầu uống rượu. Bạn bè thấy cần cho tôi biết họ bắt gặp nàng trong các quán nhậu, mà không phải một mình. Tôi bám vào hy vọng cuối cùng: tòa lãnh sự Hoa Kỳ. Đến giai đoạn này tôi được phép đợi trong hành lang. Nhưng ngày lại ngày qua, chẳng có gì xảy đến.
Rồi sau đó tôi bị bắt. Tôi đứng cách tòa lãnh sự khoảng hai mươi bước thì cảnh sát lập vòng đai. Tôi tìm cách vượt qua và điều đó khiến họ sinh nghi. Ta được an toàn chừng nào ta ở trong nội vi tòa lãnh sự. Thấy Lachmann biến mất qua ô cửa, tôi lẩn trốn để cố tìm cách theo anh ta, nhưng một viên hiến binh đưa chân ra ngáng lại. “Giữ chặt tên này lại,” Một tên trẻ tuổi mặc thường phục mỉm cười nói, “Hắn có vẻ vội vàng quá.”
— Người ta xét giấy tờ chúng tôi. Chúng tôi có sáu người bị giữ lại. Cảnh sát rút đi, giao chúng tôi trong tay một nhóm người thường phục, đưa lên chiếc xe tải bít bùng chở đến một căn nhà ở ngoại vi thành phố. Ngôi nhà này đứng một mình ở giữa khu vườn rộng bao quanh. Nghe giống như bộ phim loại B. - Schwarz nói, - Nhưng mấy năm vừa rồi chẳng phải là cả một bộ phim khát máu ngu xuẩn đó sao?
— Bọn mật vụ Gestapo phải không? - Tôi hỏi.
Schwarz gật đầu.
— Đến hôm nay kể cũng là một phép màu rằng họ đã không tóm lấy tôi trước đó. Tôi biết Georg vẫn không ngừng lùng sục tìm kiếm chúng tôi. Gã thanh niên mỉm cười nhắc đến tên Georg khi hắn xem giấy tờ của tôi. Có điều không may là lúc bây giờ tôi có mang theo cả thông hành của Helen nữa, vì tôi nghĩ có thể cần đến nó ở tòa lãnh sự.
“Rốt cuộc rồi chúng tao cũng tóm được chú cá non,” - Gã thanh niên nói, “Con mái rồi cũng đến đây thôi.”
Hắn cười và đấm vào mặt tôi. Hình như tất cả mấy ngón tay hắn đều đeo nhẫn.
“Anh đồng ý với tôi chứ, anh Schwarz?”
Tôi chùi máu rỉ ở môi. Trong phòng còn có hai tên khác nữa, cũng mặc thường phục.
“Khôn ngoan hơn hết là nói cho bọn này biết địa chỉ đi, phải không nào?” Tên trẻ tuổi nói.
“Tôi không biết,” Tôi đáp, “Chính tôi cũng đang tìm vợ tôi đây mà. Chúng tôi cãi nhau cách đây một tuần rồi cô ấy bỏ đi.”
“Cãi nhau hả? Sao hư thế?” Tên trẻ tuổi lại đấm vào mặt tôi, “Đấy, cãi lộn với vợ là như thế đấy.”
“Ta cho hắn đi ‘tàu bay’ chứ, sếp?” Một trong hai tên đười ươi hỏi.
Tên trẻ tuổi với bộ mặt lại cái mỉm cười.
“Giải nghĩa cho hắn hiểu ‘Đi tàu bay’ là gì đi, Moller.”
Moller cắt nghĩa là lấy dây điện thoại buộc vào bộ phận sinh dục của tôi rồi cho tôi đu đưa trong không.
“Biết như thế nào rồi chứ?” Tên trẻ tuổi lại hỏi, “Dẫu sao thì anh cũng đã từng ở trại rồi mà.”
“Tôi không biết.”
“Do tôi sáng chế đấy.” Hắn nói, “Nhưng ta có thể bắt đầu bằng một trò đơn giản hơn. Chúng tôi thắt chặt ngọc hành của anh lại, chặt đến mức chẳng một giọt máu nào vào được. Trong khoảng tiếng đồng hồ anh sẽ hét inh lên cho mà xem. Để giúp anh dịu cơn đau, chúng tôi sẽ đổ mạt cưa đầy miệng anh vậy.”
Mắt hắn màu xanh nhạt và trông giống thủy tinh một cách lạ lùng.
“Bọn này có những sáng kiến vặt lý thú lắm đấy.” Hắn nói tiếp, “Có bao giờ anh chịu nghĩ người ta có thể làm gì được với một chút lửa không?”
Hai tên cốt đột cười.
“Với một khúc dây nung đỏ,” Tên trẻ tuổi hay cười nói, “Kết quả rất khả quan nếu cho khúc dây ấy xuyên qua lỗ tai hoặc ngược lên lỗ mũi, ông Schwarz ạ. Chúng tôi rất may được gặp ông ở đây để giúp chúng tôi thực hiện cuộc thí nghiệm.”
Hắn bước mạnh lên bàn chân tôi. Tôi nghe được cả mùi nước hoa của hắn. Tôi không nhúc nhích. Tôi biết có kháng cự lại hay chỉ tỏ ra đôi chút can đảm thôi cũng vô ích. Mấy tên tra khảo tôi sẽ rất khoái chí mà bóp nát sức đề kháng của tôi. Cây gậy giáng xuống đầu tôi thế là tôi ngất luôn, tiếp theo là tiếng ầm ứ vô nghĩa. Cả ba cười lên hô hố.
“Làm cho nó tỉnh dậy đi, Moller,” Tên trẻ tuổi nhẹ nhàng nói.
Moller hít mạnh một hơi thuốc rồi gí đầu điếu thuốc vào mí mắt tôi. Tưởng như có lửa rót vào trong mắt tôi. Cả ba cùng cười lên rũ rượi.
“Dậy đi cưng,” Tên có nụ cười nói.
Tôi loạng choạng đứng dậy. Đứng chưa vững thì tôi lại bị đánh tiếp.
“Đấy chỉ là bài tập hồi tỉnh thôi,” Hắn giải thích, “Bọn này có đủ thời gian mà, thời gian của cả một cuộc đời, cuộc đời của bạn đấy. Bận sau mà bạn cứ tính chuyện giả vờ ốm như thế thì bọn này sẽ có một món quà ngạc nhiên tuyệt vời dành cho bạn đó. Bạn sẽ đụng lên đến trần nhà luôn.”
“Tôi không giả vờ ốm. Có điều là tim tôi yếu. Rất có thể là bận sau tôi không dậy nổi, dẫu các ông có làm gì đi chăng nữa.”
Tên có nụ cười quay lại nói với lũ đười ươi của hắn:
“Anh bạn chúng ta đây bảo tim yếu. Ta tin được chăng?”
Hắn lại đánh tôi, nhưng tôi cũng thấy được là tôi cũng có ít nhiều tác động đến hắn. Hắn không thể giao cho Georg cái xác chết của tôi.
“Sao, bây giờ đã nhớ ra cái địa chỉ ấy chưa?” Hắn hỏi, “Bây giờ còn được dăm ba cái răng thì liệu mà khai đi.”
“Tôi không rõ địa chỉ ấy. Tôi cũng muốn biết lắm. ”
“Quả thật anh bạn ta đây là anh hùng. Cảm động làm sao! Thì ra, chỉ có chúng ta đây may ra mới biết được thôi.”
Hắn đấm đá tôi túi bụi mãi đến lúc hắn mệt nhoài. Tôi nằm sóng soài ra sàn nhà, cố gắng che mặt và bộ phận sinh dục.
“Giờ thì thế cũng đủ rồi,” Sau cùng hắn nói, “Đem nhốt nó dưới hầm rượu. Ăn tối xong ta mới thật sự bắt đầu. Những màn ban đêm sao mà hấp dẫn hồi hộp thế!”
Tôi từng quen với những chuyện như thế này rồi. Đó là một bộ phận trong nền văn hóa Đức cũng như Goethe và Schiller thế thôi, và trong trại tôi cũng đã trải qua rồi. Nhưng tôi vẫn còn giữ viên thuốc độc trong người. Chúng có lục soát, song không kỹ lắm nên không tìm thấy. Tôi còn cả lưỡi dao cạo nhét giữa lớp bấc may hờ trong gấu quần; chúng cũng không tìm ra.
Tôi nằm trong bóng tối. Tất nhiên là tôi thất vọng. Nhưng có điều lạ đáng nói là điều làm tôi chán nản thực tình chẳng phải là những viễn tưởng tối tăm mà lại là cái ý nghĩ tôi đưa mình vào rọ một cách ngu xuẩn quá.
Lachmann trông thấy chúng bắt tôi, nhưng không biết đó là bọn Gestapo, vì sự cố hình như chỉ liên can đến cảnh sát Pháp thôi. Nhưng nếu trễ lắm là trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ nữa mà không thấy tôi trở về, Helen sẽ tìm cách liên lạc với tôi qua cảnh sát và có lẽ phăng ra kẻ đã bắt tôi. Nhưng liệu tên có nụ cười kia có để cho việc ấy xảy đến không? Tôi đoán Georg được báo cáo ngay rồi. Nếu Georg ở lại Marseille, hắn sẽ “phỏng vấn” tôi ngay đêm đó.
Hắn đang ở Marseille. Đôi mắt nàng không lừa dối nàng. Hắn đến và đích thân hắn quan tâm đến tôi. Tôi không kể hết mọi chi tiết sợ ông phiền. Lúc tôi bất tỉnh, chúng xối nước lên người tôi và kéo lê tôi xuống trở lại hầm rượu. Chỉ có liều thuốc độc tôi giữ trong người giúp tôi chịu đựng nổi. Rất may là Georg không đủ kiên nhẫn với những đòn tra tấn tinh vi mà tên Nụ Cười hứa mang ra dùng với tôi; nhưng theo cách của hắn thì hắn cũng không phải là tay vụng về đâu.
Lát sau cùng đêm ấy hắn trở lại. Hắn mang theo chiếc ghế đẩu, hắn ngồi đấy, ngực ưỡn ra đầy vẻ tự cao tự đại, biểu tượng của một thứ quyền lực tuyệt đối mà ta tưởng đã để lại đằng sau lưng ta ở thế kỷ mười chín. Thế nhưng, hay có lẽ chính vì lý do đó, nó đã biến thành dấu hiệu chuẩn của thế kỷ hai mươi. Tối hôm ấy tôi chứng kiến hai lối hiện thân của điều ác, tên có Nụ cười và Georg, điều ác nguyên chất và sự hung bạo ở dạng thuần khiết nhất. Nếu cần phải so sánh để phân biệt thì tên có Nụ cười độc ác nhất trong hai tên, hắn tra tấn để tìm khoái cảm trong tra tấn còn Georg tra tấn để buộc nạn nhân phải theo ý hắn. Giữa lúc đó, tôi phác họa ra một kế hoạch. Tôi cần phải thoát khỏi ngôi nhà đó. Đến lúc Georg trở lại, tôi cứ làm như hắn sẽ bỏ qua mà buông tha tôi. Hắn có cái nụ cười toe toét đầy khinh mạn của một người được ăn uống đầy đủ nhưng chưa từng rơi vào hoàn cảnh như thế, và do đó hắn nghĩ nếu gặp phải tình huống ấy thì hắn sẽ hành động đúng như một vị anh hùng trong sách giáo khoa. Nhưng sự thật mẫu người như hắn sẽ tiêu tán ra từng mảnh ngay thôi.
— Tôi biết lắm, - Tôi nói, - Có một dạo tôi nghe một tên sĩ quan Gestapo thét lên chỉ vì ngón tay cái của hắn bị chẹt trong sợi dây xích sắt hắn dùng đánh nạn nhân cho đến chết. Người đàn ông bị tra khảo lại chẳng hé răng.
— Georg đá vào người tôi, - Schwarz kể tiếp, - Hắn nói: “À há, bây giờ ta lại tìm cách mặc cả với nhau đấy phỏng?”
“Tôi chẳng tìm cách mặc cả gì ráo,” Tôi đáp lại, “Nhưng nếu anh đưa Helen trở về Đức, nàng bỏ trốn ngay hoặc sẽ tự tử.”
“Vô lý!” Georg rít lên.
“Với Helen cuộc đời đâu còn ý nghĩa gì nữa,” Tôi nói,” Nàng biết nàng bị ung thư và đó là bệnh nan y.”
Hắn nhìn tôi.
“Nói láo, đồ lợn. Cô ấy chẳng bị ung thư gì cả. Đó chỉ là bệnh thông thường của phụ nữ đấy thôi.”
“Nàng bị ung thư đấy. Bệnh được phát hiện lần đầu tiên người ta giải phẫu cho nàng tại Zurich. Ngay lúc đó cũng đã muộn quá rồi. Bác sĩ bảo vậy.”
“Bác sĩ nào?”
“Bác sĩ phẫu thuật đã giải phẫu cho nàng. Vì nàng muốn biết sự thật.”
“Tên súc sinh vô nhân đạo,” Georg gào lên, “Nhưng rồi ta cũng sẽ bắt hắn. Một năm nữa Thụy Sĩ cũng sẽ là của Đức thôi.”
“Tôi cũng muốn Helen trở về đó,” Tôi nói, “Nhưng nàng từ chối. Song tôi nghĩ nàng sẽ chịu đi nếu tôi dứt khoát hẳn với nàng.”
“Nghe buồn cười quá.”
“Tôi có thể cư xử với nàng như súc vật đến mức nàng sẽ căm thù tôi suốt đời nàng.”
Tôi thấy Georg đang suy nghĩ lung lắm. Tôi tì đầu vào tay và nhìn hắn. Tôi thấy nhức giữa hai con mắt vì tập trung ý chí để tác động đến hắn.
“Bằng cách nào?” Sau cùng hắn hỏi.
“Nàng nghĩ tôi sẽ ghê tởm nàng nếu tôi biết được chứng bệnh của nàng. Đó là nỗi sợ hãi lớn nhất của nàng. Nếu tôi bảo thẳng điều đó với nàng, nàng sẽ dứt khoát với tôi ngay.”
Georg cân nhắc. Tôi có thể theo dõi những suy nghĩ của hắn. Hắn nhận thấy rằng gợi ý của tôi giúp cho hắn dịp may tốt nhất. Cho dẫu hắn dùng tra tấn mà biết được địa chỉ của Helen, nàng vẫn tiếp tục căm thù hắn. Nhưng nếu tôi cư xử như một tên khốn nạn, nàng sẽ quay lại căm thù tôi và hắn chỉ có bước lên như người đã giải thoát nàng và nói: “Đấy, em xem, anh đã bảo trước mà.”
“Cô ấy hiện ở đâu?” Hắn hỏi.
Tôi cho hắn địa chỉ láo.
“Nhưng có cả năm sáu lối thoát ra,” Tôi nói, “Qua ngả hầm hoặc các đường phố khác. Nếu cảnh sát tìm cách bắt, nàng sẽ trốn thoát một cách dễ dàng. Nàng sẽ không chạy trốn nếu biết tôi đi một mình.”
“Hoặc tôi,” Georg nói.
“Nếu ông đi một mình với nàng về bên đó, nàng sẽ nghĩ là ông đã giết tôi. Nàng có giữ thuốc độc trong người.”
“Vô lý!”
Tôi chờ đợi hắn phản ứng.
“Thế anh muốn gì để đáp lại,” Georg hỏi.
“Muốn ông để tôi cùng đi.”
Hắn mỉm cười một lúc, răng nhe ra như con thú săn mồi. Tôi nghĩ hắn chẳng bao giờ chịu để tôi đi.
“Được,” Hắn đồng ý, “Đi với tôi. Cách đó thì anh chả giở trò gì được với tôi đâu. Anh sẽ nói hết cho cô ấy nghe trước mặt tôi.”
Tôi gật đầu.
“Nào thì đi,” Hắn bảo. Hắn đứng dậy, “Đi ra vòi nước kia mà rửa ráy đi.”
“Tôi đưa hắn ta đi với tôi.” Hắn bảo với một trong hai tên thuộc hạ của hắn đang thơ thẩn trong căn phòng trang hoàng bằng gạc nai. Tên thuộc hạ đưa tay chào và hộ tống chúng tôi ra xe của Georg.
“Lên xe đi và ngồi cạnh tôi,” Georg ra lệnh, “Anh biết đường không?”
“Từ đây thì không biết. Từ Canebière[*] thì biết.”
Xe chạy vào vùng đêm đầy gió lạnh. Tôi tính thò ra khỏi xe lúc xe chạy chậm hoặc ngừng lại, nhưng Georg đã khóa cửa xe phía bên tôi. La hét dọc đường cũng chẳng ích gì; chẳng ai nghĩ đến việc ứng cứu tiếng la hét phát ra từ chiếc xe Đức và trước khi tiếng kêu cứu của tôi tan loãng đi thì Georg có đủ thời gian đánh tôi bất tỉnh rồi.
“Tốt hơn anh nên nói thật đi,” Georg rít lên. “Nếu không tôi sẽ lột da anh bóp muối ớt đấy.”
Tôi ngồi thu mình trên ghế. Khi Georg đạp thắng để tránh một chiếc xe ngựa không đèn hiệu, tôi ngã người ra phía trước.
“Đồ khốn khiếp,” Georg chụp nhanh lấy tôi, “Đây không phải là lúc vờ ốm.”
“Tôi ngất đi đấy thôi,” Tôi giải thích, từ từ ngồi thẳng người lên.
“Đồ sên!”
Tôi đã rút được đường chỉ may ở gấu quần. Lần sau lợi dụng lúc hắn phải thắng xe tôi đã tìm ra chỗ tôi nhét lưỡi dao cạo. Lần thứ ba, đầu tôi va vào kính chắn gió. Lúc ngồi lại ngay ngắn, lưỡi dao cạo đã nằm trong tay tôi.
Schwarz ngẩng nhìn lên. Trán hắn ướt đẫm mồ hôi.
— Đáng lẽ hắn không bao giờ nên để tôi đi, - Hắn nói, - Ông tin tôi không?
— Tất nhiên tôi tin ông.
— Khi xe chạy bọc một khúc quanh, tôi lấy hết sức bình sinh la lớn: “Coi chừng bên trái”. Tiếng thét bất ngờ khiến Georg mất bình tĩnh. Đầu hắn quay sang phải như một cái máy, hắn đạp thắng và nắm chặt tay lái. Tôi quất mạnh vào mặt hắn. Lưỡi dao không lớn, nhưng nó cũng cắt đúng vào một bên cổ. Tôi kéo lưỡi dao thật mạnh ngang qua khí quản. Hắn buông tay lái ra và giữ chặt lấy cuống họng. Rồi hắn ngã khuỵu xuống, người dựa vào cửa. Tay hắn chạm phải quả đấm cửa. Chiếc xe lủi mạnh vào lùm cây. Cánh cửa bật tung, Georg té ra ngoài, thở khò khè và máu chảy rất nhiều.
Tôi leo ra khỏi xe và lắng nghe. Tôi chỉ nghe thấy tiếng máy xe nổ ran. Tôi tắt máy. Gió như gào thét trong im lặng, nhưng đó chỉ là máu dồn lên tai tôi. Tôi nhìn lại Georg và kiếm lại lưỡi dao cùng với mảnh bấc. Nó lấp lánh trên bậc cấp lên xe. Tôi cúi xuống nhặt lên rồi chờ đợi. Tôi cứ sợ Georg có thể vùng nhảy dậy bất cứ lúc nào. Nhưng chân hắn giãy giãy lên một hồi rồi hắn nằm im. Tôi ném lưỡi dao ra xa rồi nhặt lên lại và giúi xuống đất. Tôi tắt đèn xe và lắng tai nghe. Chẳng động tĩnh gì. Tôi đã không tính toán sau đó phải làm gì; bây giờ phải hành động thật nhanh mới được vì mỗi phút trôi qua là mỗi phút quyết định.
Tôi lột áo quần Georg ra bó lại thành một bó. Rồi tôi kéo xác chết vào trong bụi. Phải một thời gian mới phát hiện ra nó, rồi lại phải mất một thời gian nữa mới nhận diện nó được. Nếu tôi còn may mắn thì người ta sẽ ghi hắn vào danh sách xác chết vô thừa nhận. Tôi kiểm tra chiếc xe. Nó chẳng hư hại gì. Tôi lái đưa nó lên đường cái. Tôi phát nôn mửa. Trong xe tôi tìm thấy một cây đèn bấm. Máu vẩy lên ghế ngồi và cửa làm bằng da nên cũng dễ chùi rửa. Gần đó có một mương nước, và tôi dùng áo sơ mi của Georg làm giẻ lau. Tôi cũng chùi cả bậc cấp lên. Tôi kiểm tra toàn bộ chiếc xe bằng đèn bấm và lau chùi cho kỳ sạch. Sau đó tôi rửa ráy tay chân và bước lên xe. Ngồi vào chỗ của Georg khiến tôi buồn nôn; tôi có cảm giác như từ trong bóng tối hắn bò đến chỗ tôi. Tôi lái xe đi.
Tôi bỏ chiếc xe ở một con đường phụ cách nhà không xa lắm. Trời bắt đầu đổ mưa. Tôi băng qua đường, thở thật sâu. Dần dần tôi mới cảm thấy toàn thân tôi đau nhức. Tôi dừng lại bên ngoài cửa tiệm bán cá. Bên cạnh quầy có một tấm kính. Trong lớp bạc mờ đục tôi trông chẳng được rõ lắm, nhưng vẫn thấy được mặt tôi sưng vù. Tôi hít một hơi thật dài cái không khí ẩm thấp. Tôi không thể nào tin được rằng trong cùng một buổi chiều tôi lại trở về được nơi ấy.
Tôi lẻn vào nhà không để người gác cổng trông thấy. Bà ta đang ngủ, miệng lẩm bẩm điều gì đó. Việc tôi về muộn cũng không có gì là lạ. Tôi vội vã bước lên cầu thang.
Helen không có nhà. Tôi nhìn lên giường và tủ áo quần. Bị ánh sáng đánh thức, con chim yến cất tiếng hót. Chú mèo bước vào cửa sổ, đôi mắt lân tinh rực sáng nhìn vào bên trong như một linh hồn bị đày đọa. Tôi chờ một lúc. Rồi tôi khẽ bước qua phòng của Lachmann gõ nhẹ vào cửa.
Anh ta thức giấc ngay. Kẻ chạy trốn bao giờ cũng tỉnh ngủ.
“Anh là…” Anh ấp úng hỏi.
Rồi anh ta nhìn kỹ tôi và đứng lặng yên.
“Anh thấy nhà tôi không?” Tôi hỏi.
Anh lắc đầu:
“Chị ấy đi vắng. Cách đây khoảng một giờ thì chị ấy vẫn chưa về.”
“Cảm ơn Chúa.”
Anh nhìn tôi như thể tôi đã phát điên rồi vậy.
“Tạ ơn Chúa,” Tôi nhắc lại, “Thế thì có lẽ nàng không bị bắt. Nàng chỉ đi đâu đó thôi.”
“Chỉ đi đâu đó thôi, “Lachmann lặp lại, “Thế còn anh, có chuyện gì không?” Anh ta hỏi tiếp.
“Chúng tra hỏi tôi. Tôi bỏ đi.”
“Cảnh sát?”
“Bọn Gestapo.”
“Bọn chúng có biết anh ở đâu không?”
“Nếu chúng biết thì tôi đã không có mặt ở đây. Tôi phải đi trước lúc trời sáng.”
“Anh chờ chút.”
Lachmann lục lọi đây đó rồi trở ra với vài xâu chuỗi hạt và ít bức tượng ảnh thánh.
“Đây anh cầm lấy. Đôi khi những cái này cũng làm nên được chuyện lạ đấy. Chúng đã tóm được Hirsch ở biên giới rồi đấy. Dân ở miền núi Pyrénées sùng đạo lắm. Những thứ này đã được giáo hoàng đích thân ban phép rồi.”
“Thật à?”
Nụ cười của anh thật dễ thương.
“Nếu nó cứu được chúng ta,” Anh ta nói, “Tức là chính Chúa đã ban phép cho. Thôi, tạm biệt Schwarz.”
Tôi trở về phòng thu vén đồ đạc. Tôi cảm thấy hoàn toàn trống rỗng, nhưng rất căng, giống như cái trống bên trong chẳng có gì. Trong ngăn kéo của Helen tôi tìm thấy một xấp thư gửi cho nàng nhờ tổng công ty giao hàng chuyển giúp. Tôi nhét nó vào túi xách của Helen mà chẳng suy tính gì. Tôi cũng nhét vào đó chiếc áo dạ hội mua ở Paris. Rồi tôi ngồi xuống cạnh bể nước rửa mặt và mở nước. Mấy móng tay bị bong làm tôi đau dữ dội và tôi thở cũng đau. Tôi nhìn ra ngoài lên những mái nhà đẫm nước mưa, đầu óc chẳng nghĩ ngợi gì.
Sau cùng chờ đợi mãi tôi nghe tiếng bước chân của Helen. Nàng đứng ở lối cửa ra vào như bóng ma kiều diễm và tiều tụy.
“Anh làm gì thế?” Nàng hỏi, chẳng hay biết chuyện gì hết. “Có chuyện gì trục trặc phải không anh?”
“Chúng ta phải đi khỏi Marseille,” Tôi nói. “Và ngay lập tức.”
“Georg hả?”
Tôi gật đầu. Tôi định bụng chỉ cho nàng biết càng ít càng tốt.
“Chúng đã làm gì anh?” Nàng đâm hoảng hỏi tôi, và bước lại gần hơn.
“Chúng bắt anh. Anh trốn thoát. Chúng sẽ đi lùng tìm anh.”
“Ta đi đâu bây giờ?”
“Tây Ban Nha.”
“Bằng cách nào?”
“Bằng xe, chừng nào có thể được. Em có thể thu xếp nhanh được không?”
“Vâng.”
Nàng rúm người lại.
“Em đau hả?” Tôi hỏi.
Nàng gật đầu. Ai đứng ở lối ra vào cửa thế kia? Tôi thắc mắc. Ai thế? Bà ta trông lạ hoắc.
“Em còn thuốc tiêm không?”
“Không nhiều lắm.”
“Ta sẽ mua thêm một ít nữa.”
“Anh để em yên một lúc đi,” Nàng nói.
Tôi đứng ở lối đi hành lang. Cửa hé mở. Những bộ mặt ẩn hiện với những cặp mắt vượn cáo. Những bộ mặt một mắt với những cái miệng méo xệch. Lachmann mặc quần đùi xám phóng như bay lên cầu thang như con châu chấu và nhét nửa chai rượu cognac vào tay tôi.
“Để có khi dùng đến,” Anh bảo nhỏ, “Rượu hảo hạng đấy.”
Tôi làm một hớp ngay tại chỗ.
“Có thể để cho tôi thêm chai nữa không?” Tôi hỏi, “Đây, tôi còn nhiều tiền mà.”
Lúc đầu tôi muốn vứt ngay cái cặp của Georg đi, song tôi liền đổi ý. Trong cặp tôi tìm thấy một số tiền rất lớn, và còn hơn thế nữa là thông hành của hắn cùng với của Helen và cả của tôi.
Tôi buộc áo quần của Georg vào cục đá rồi ném nó xuống cảng. Sau đó, tôi dùng đèn bấm xem xét kỹ lưỡng tấm thông hành của Georg. Tôi qua phòng Gregorius đánh thức anh ta dậy, hỏi có thể sửa tấm thông hành ấy với ảnh của tôi không. Lúc đầu anh ta hoảng kinh hồn vía và từ chối thẳng thừng. Nghề của anh là “điều chỉnh” thông hành của dân tị nạn và trong việc này anh tự cho mình còn đúng đắn hơn cả Thượng đế nữa, vốn bị anh trút hết trách nhiệm trong cái cảnh hỗn độn này. Nhưng trước đó anh chưa bao giờ đặt con mắt vào tấm hộ chiếu của một viên chức Gestapo thuộc loại cao cấp. Tôi cam đoan với anh ta là anh khỏi phải ký vào công trình của mình như ký vào bức họa, rằng tất cả trách nhiệm là của tôi hết và chẳng ai biết anh có dính líu đến việc này.
“Nhưng nếu chúng tra tấn anh thì sao?”
Tôi cho anh ta xem bàn tay và mặt tôi.
“Trong một tiếng đồng hồ nữa tôi sẽ ra đi,” Tôi nói, “Là người tị nạn, tôi không thể đi quá mười dặm với bộ mặt như thế này. Mà tôi phải trốn khỏi nước Pháp. Đây là cơ hội độc nhất của tôi. Hộ chiếu của tôi đây. Chụp lại tấm ảnh rồi dán lên tấm hộ chiếu của Gestapo. Anh tính bao nhiêu, cứ cho biết. Tôi có tiền.”
Sau cùng Gregorius đồng ý nhận.
Lachmann mang ra chai cognac thứ hai. Tôi trả tiền và trở về phòng. Helen đang đứng cạnh bàn ngủ. Ngăn kéo có xấp thư đã kéo ra. Nàng đóng sập lại và bước lại bên tôi.
“Georg làm thế này hả?” Nàng hỏi.
“Có cả một ủy ban đấy,” Tôi đáp.
“Chúa đọa linh hồn hắn đi!”
Nàng đi đến cửa sổ. Chú mèo bỏ chạy. Nàng mở cánh cửa chớp.
“Chúa đọa linh hồn hắn đi!” Nàng nhắc lại với niềm tin sâu sắc cuồng nhiệt của thầy bùa ngải đang xua đuổi tà ma khỏi bộ lạc mình, “Chúa hãy đọa linh hồn hắn đi! Cả trong thế giới này và ở cõi mai sau nữa…”
Tôi nắm lấy nắm tay siết chặt của nàng và kéo nàng khỏi cửa sổ.
“Ta phải đi thôi, em ạ.”
Chúng tôi đi xuống cầu thang. Từ các cửa khép hờ những cặp mắt theo dõi chúng tôi. Một cánh tay thò ra vẫy:
“Schwarz! Đừng mang ba lô. Cảnh sát để ý đến những ai mang ba lô đó. Tôi có một chiếc va li da nhân tạo đây. Rẻ và rất sang…”
“Cảm ơn,” Tôi nói, “Tôi không cần va li. Tôi cần may mắn.”
“Thôi, chúng ta hãy cầu chúc cho nhau được may mắn.”
Helen đi trước. Tôi nghe tiếng một người đi bộ ướt sũng nước mưa nấp ở lối ra vào cửa khuyên nàng nên ở lại nhà, mưa như thế này ta chẳng làm ăn gì được đâu. Tốt, tôi nghĩ thế. Riêng về phần tôi, tôi thấy đường phố không vắng vẻ lắm.
“Cái ấy ở đâu ra thế?” Helen hỏi khi thấy chiếc xe.
“Xe đánh cắp.” Tôi trả lời, “Nó sẽ đưa ta đi một đoạn đường. Lên xe đi em.”
Trời vẫn còn tối. Nước mưa chảy thành dòng theo kính chắn gió. Nếu ở bậc cấp lên xuống xe còn chút máu nào thì mưa cũng đã rửa sạch rồi. Tôi đỗ xe cách ngôi nhà nơi Gregorius ở không xa lắm.
“Đứng vào bên dưới đây nghe em,” Tôi vừa bảo Helen, vừa chỉ vòm kính che lối ra vào của một cửa hiệu buôn bán đồ nghề đánh cá.
“Em không ngồi lại trong xe được sao?”
“Không. Nếu có ai đến, cứ làm như em đang đợi chờ khách hàng. Anh sẽ trở ra ngay thôi.”
Gregorius đã làm xong. Nỗi lo sợ của anh ta đã nhường chỗ cho niềm tự hào của nghệ sĩ.
“Khó khăn duy nhất là ở bộ quân phục,” Anh ta giải thích, “Trên ảnh của anh, anh lại mặc thường phục. Thế là tôi cắt ngay cái đầu của hắn.”
Anh đã gỡ ảnh của Georg ra, cắt đầu và cổ đi, để chồng bộ quân phục lên ảnh của tôi, rồi chụp lại khi đã tạo xong.
“Trung tá Schwarz,” Anh tự hào nói.
Anh đã sấy khô và dán ảnh vào.
“Con dấu cũng nổi khá rõ nét. Nếu chúng nhìn kỹ vào, tôi phải thừa nhận như thế là xong đời anh thôi. Nhưng dẫu là của thật đi chăng nữa, thì anh cũng chả khá hơn gì. Đây, thông hành cũ của anh đây. Còn nguyên đấy.”
Anh trao lại cho tôi cả hai tấm hộ chiếu và chỗ còn lại trong bức ảnh của Georg. Tôi xé nát vụn tấm ảnh lúc bước xuống cầu thang và ném nó vào nước đang chảy xối xả xuống ống máng.
Helen vẫn đứng đợi. Tôi kiểm tra lại xăng. Thùng chứa còn đầy. Nếu may mắn nó có thể đưa chúng tôi qua biên giới. Trong ngăn hộc đựng bao tay, tôi tìm thấy cuốn carnet, một thứ giấy tờ cần phải có để đưa xe qua biên giới; cuốn carnet này đã được dùng đến hai lần. Tôi quyết định tránh không đi qua nơi mà đã hai lần người ta có trông thấy chiếc xe. Tôi còn tìm thấy tấm bản đồ do hãng Michelin thiết lập, và tấm bản đồ châu Âu dùng cho người lái xe ô tô.
Chúng tôi lái xe dưới cơn mưa. Còn vài tiếng đồng hồ nữa trời mới sáng. Và chúng tôi chạy về hướng Perpignan[*]. Tôi quyết định cứ giữ con đường chính cho đến khi trời sáng hẳn.
“Anh để em nắm tay lái một lúc nhé?” Helen gợi ý sau một hồi im lặng, “Tay anh còn đau.”
“Em lái được không? Em đã ngủ tí nào đâu?”
“Anh cũng thế.”
Tôi nhìn nàng. Nàng lộ vẻ tươi mát, điềm tĩnh, mặc dầu tôi không nghĩ ra nàng làm cách nào mà được như vậy.
“Em dùng chút cognac nhé?”
“Không. Em cứ lái cho đến lúc nào kiếm được tí cà phê.”
“Lachmann có để lại cho anh thêm một chai cognac nữa.”
Tôi lấy chai trong túi áo ra. Helen lắc đầu. Nàng vừa chích thuốc.
“Chốc nữa vậy,” Nàng nói với tôi giọng rất dịu dàng, “Anh cố mà ngủ đi. Chúng ta sẽ thay nhau lái.”
Helen là tay lái xe hay hơn tôi. Một lát sau, nàng cất tiếng hát; những bài hát đơn điệu, trẻ con. Tôi bị căng thẳng đầu óc quá chừng. Giờ đây tiếng kêu o o của máy xe và giọng hát nhẹ nhàng của nàng bắt đầu đưa tôi vào giấc ngủ. Tôi biết tôi cần phải ngủ, song vẫn cứ thức mãi. Hai bên xe, cảnh đồng quê xám ngắt lướt trôi nhanh, và chúng tôi bật đèn xe sáng, không kể gì đến quy định phải che đèn.
“Anh đã giết hắn?” Bỗng nhiên Helen hỏi.
“Phải.”
“Anh cần phải làm thế sao?”
“Phải, em ạ.”
Chúng tôi tiếp tục lái. Tôi nhìn xuống đường cái; đủ thứ chuyện lởn vởn trong trí óc tôi, rồi tôi mê thiếp đi. Khi tôi tỉnh dậy, cơn mưa đã dứt. Trời đã sáng, máy xe vẫn kêu o o, Helen vẫn ngồi ở tay lái. Còn tôi, tôi cứ ngỡ là tôi đang mơ trong cảnh thực.
“Điều anh nói lúc nãy không đúng đâu,” Tôi nói.
“Em biết,” Nàng đáp lại.
“Đó là một người khác nào đó.”
“Em biết.”
Nàng nói mà không nhìn tôi.