Chương 18
Tôi quyết định kiếm cho Helen giấy nhập cảnh Tây Ban Nha tại thành phố sau cùng trước khi qua biên giới. Thiên hạ bên ngoài tòa lãnh sự đông khủng khiếp. Tôi biết có lẽ cảnh sát đã để mắt truy lùng chiếc xe, nhưng tôi đành phải liều vậy. Không còn cách nào khác. Hộ chiếu của Georg thì đã có dấu nhập cảnh rồi.
Tôi cho xe chạy chậm lại. Thiên hạ chỉ giãn ra khi thấy bảng số xe của Đức. Họ tách ra chừa lối cho chúng tôi qua. Một số người tị nạn bỏ chạy. Qua đại lộ căm hờn chúng tôi đi về phía cổng vào. Một viên hiến binh đưa tay chào. Từ bao lâu nay chuyện này chưa từng xảy đến với tôi. Tôi chào trả lại một cách lơ đãng và bước vào. Viên hiến binh bước bên cạnh tôi để hướng dẫn. Tôi phải trở thành tên sát nhân, tôi chua chát nghĩ thầm, mới được đối xử một cách trọng vọng thế này.
Lúc tôi đưa hộ chiếu của tôi ra là dấu nhập cảnh được cấp ngay cho Helen. Ông phó lãnh sự nhìn mặt tôi. Ông không trông thấy tay tôi. Tôi mang đôi găng tìm thấy trong xe lúc đầu.
“Một kỷ niệm thời chiến tranh,” Tôi bảo, “Cận chiến đấy.”
Ông gật đầu tỏ vẻ thiện cảm.
“Chúng tôi đây cũng thế. Chúng tôi cũng đã qua những năm chiến đấu. Hitler muôn năm! Thật là một vĩ nhân. Như lãnh tụ của chúng tôi thôi[*].”
Tôi bước ra khỏi tòa lãnh sự. Bao quanh chiếc xe là một khoảng trống. Một cậu bé mười một, mười hai tuổi, vẻ mặt hoảng hốt ngồi ở băng ghế sau. Cậu ngồi thu mình lại trong góc xe, đôi tay che lấy miệng. Và tất cả những gì tôi thấy được trên khuôn mặt cậu bé là đôi mắt.
“Ta phải đem nó theo chúng ta,” Helen nói.
“Tại sao thế?”
“Giấy tờ của nó trong hai ngày nữa là hết hạn. Nếu chúng bắt được nó, nó sẽ bị đưa về Đức ngay.”
Tôi nghe mồ hôi chảy dọc theo sống lưng dưới làn áo sơ mi. Helen nhìn tôi. Nàng rất điềm tĩnh.
“Chúng ta đã lấy đi một mạng sống,” Helen nói với tôi bằng tiếng Anh, “Ta có nghĩa vụ phải cứu lấy một mạng sống khác.”
“Đưa tôi xem giấy tờ của cháu nào,” Tôi bảo cậu bé.
Cậu bé chẳng nói chẳng rằng lấy đưa cho tôi tấm giấy phép cư trú. Tôi cầm lấy và trở vào tòa lãnh sự. Con đường trở vào thật là cam go. Chiếc xe của Georg tưởng như đang gào lên cái bí ẩn của nó từ cả trăm chiếc loa phóng thanh. Vẻ hững hờ tôi bảo với viên thư ký rằng tôi quên còn một dấu nhập cảnh nữa, nằm trong chức năng của tôi trong một vụ điều tra bên kia biên giới. Y do dự một lúc khi xem tấm giấy, mỉm cười với vẻ đồng lõa rồi sau cùng chịu cấp nhập cảnh cho tôi.
Tôi bước lên xe. Đám đông càng tỏ vẻ thù nghịch hơn trước. Có lẽ họ tưởng tôi chở đứa bé đưa đến một trại tập trung nào đó.
Tôi rời thành phố, mong rằng vận may vẫn còn theo tôi. Tay lái nóng bỏng trong tay tôi. Tôi nghĩ có lẽ phải vứt bỏ chiếc xe này đi bất cứ lúc nào không biết chừng, nhưng khổ nỗi tôi chưa nghĩ ra lúc đó mình sẽ phải làm gì. Helen thì không thể nào vượt núi qua những lối mòn lừa đi dưới thời tiết tệ hại như hôm ấy, nàng quá yếu. Mà vứt bỏ chiếc xe này đi tức là chúng tôi chối bỏ luôn sự che chở lạ đời vì do chính kẻ thù của chúng tôi đứng ra bảo đảm. Chúng tôi không ai có giấy xuất cảnh khỏi nước Pháp. Như vậy, đi bộ lại còn nguy hiểm hơn là đi bằng xe ô tô sang trọng.
Chúng tôi tiếp tục cho xe chạy. Hôm ấy là một ngày quái gở. Thực tại như chìm sâu vào vực thẳm. Chúng tôi chạy xe dọc theo dãy đỉnh núi cao hẹp bên dưới tầng mây trĩu thấp, như ngồi trong toa tàu leo núi. Thật giống như trong tranh mực Tàu cổ, với đoàn khách lữ hành lần bước buồn tẻ giữa đỉnh núi, mây trời và thác nước. Đứa bé ngồi ru rú ở ghế sau, hầu như không cử động. Tất cả những gì nó học được trong quá trình của một cuộc đời ngắn ngủi là chẳng tin vào ai mà cũng chẳng tin vào bất cứ cái gì. Ngoài ra nó chẳng còn nhớ gì nữa. Lúc vệ binh của nền văn hóa Quốc xã đập lên đầu ông nó, nó mới ba tuổi; được bảy tuổi thì cha của nó bị treo cổ, và chín tuổi thì mẹ nó bị giết bằng hơi ngạt, đích thực là đứa con của thế kỷ hai mươi. Chẳng hiểu nhờ đâu mà nó thoát được khỏi trại tập trung và nó vượt biên giới là chỉ nhờ vào tài xoay xở của bản thân. Nếu bị bắt, nó sẽ bị người ta tống vào trại tập trung lần nữa rồi treo cổ nó lên. Giờ đây nó tìm cách đến Lisbon, nơi đây nó có người cậu làm nghề sửa đồng hồ, như lời mẹ nó cho biết vào đêm trước khi mẹ nó bị giết bằng hơi độc, lúc vừa chúc lành cho nó xong và dặn dò nó đôi câu.
Mọi sự diễn ra tốt đẹp. Tại biên giới Pháp, chẳng ai hỏi han gì đến dấu xuất cảnh. Tôi vắn tắt xuất trình hộ chiếu và điền vào mấy tờ khống chỉ dành cho chiếc xe. Hiến binh chào tôi, cây chắn cổng giở lên và chúng tôi rời nước Pháp. Ít phút sau nhân viên hải quan người Tây Ban Nha trầm trồ ngắm chiếc xe của chúng tôi và hỏi với một gallon xăng nó chạy được bao nhiêu dặm. Tôi nói với họ ba điều bốn chuyện rồi thế là họ huyên thuyên không ngớt về hiệu xe Hispano-Suiza của họ. Tôi bảo tôi cũng có một chiếc như thế và mô tả cái huy hiệu gắn trên bộ tản nhiệt của nó: con sếu đang bay. Họ tỏ ra rất tự hào. Tôi hỏi nơi đổ xăng. Họ bảo có chút dự trữ đặc biệt dành cho bạn bè của nước Tây Ban Nha. Tôi không có tiền Tây Ban Nha. Họ chịu đổi đồng franc cho tôi. Chúng tôi từ giã nhau trong nghi thức dạt dào.
Tôi ngả người vào lưng ghế. Núi cao mây trời mờ khuất phía sau. Trước mặt chúng tôi là một vùng đất nước xa lạ trải rộng ra, một vùng đất nước không còn giống gì với châu Âu nữa. Chúng tôi chưa được an toàn, nhưng ra khỏi nước Pháp cũng có khác đi rất nhiều. Tôi gặp đường phố, lừa ngựa, cư dân, trang phục, cảnh đồng nội lởm chởm đá, chúng tôi đang ở châu Phi. Vùng đất nước này bên kia dãy núi Pyrénées mới thật là phương Tây, tôi cảm thấy như thế. Rồi tôi thấy Helen bật khóc.
“Bây giờ anh đã được ở nơi anh muốn rồi đó,” Nàng nói.
Tôi không hiểu nàng muốn nói gì. Tôi vẫn còn quá đỗi kinh ngạc vì không ngờ lại thành công dễ dàng đến thế. Tôi chợt nghĩ đến cung cách lịch sự, những câu chào hỏi, những nụ cười, điều mà trong mấy năm nay không xảy đến với tôi, và tôi đã phải xuống tay giết người mới được đối xử như là con người.
“Sao em lại khóc?” Tôi hỏi nàng, “Chúng ta chưa được an toàn hẳn đâu. Tây Ban Nha đầy rẫy những nhân viên Gestapo ra đấy. Ta phải ra khỏi nơi này càng nhanh càng tốt.”
Chúng tôi ngủ lại trong một ngôi làng nhỏ bé. Tôi muốn bỏ chiếc xe lại ở một nơi nào đó và đáp tàu lửa thì hơn. Nhưng tôi quyết định không làm như vậy. Tây Ban Nha chưa an toàn. Phương tiện di chuyển nhanh nhất vẫn là tốt nhất. Một điều khó hiểu là chiếc xe bỗng dưng trở thành một thứ bùa hộ mệnh u uẩn. Mức hoàn hảo về kỹ thuật của nó khiến tôi không còn sợ hãi nó nữa. Việc tôi cần đến chiếc xe giúp tôi quên đi câu chuyện về Georg. Hắn ta đã là mối đe dọa treo lủng lẳng trên cuộc sống của tôi quá lâu. Giờ thì hắn đã chết và tôi cảm thấy đó còn hơn là một sự khuây khỏa nữa. Tôi nhớ lại tên cốt đột với nụ cười; hắn vẫn còn sống và có lẽ đang tìm ra chỗ chúng tôi trú ngụ bằng đường điện thoại. Nước nào cũng có thủ tục dẫn độ vì tội giết người. Nhưng đó chỉ là trường hợp tự vệ, song tôi sẽ phải chứng minh điều đó tại thành phố nơi xảy ra tội ác.
Mãi tận khuya hôm sau chúng tôi mới đến biên giới Bồ Đào Nha. Trên đường đi tôi xin được nhập cảnh không khó khăn. Đến biên giới tôi để Helen ngồi lại trong xe, máy vẫn chạy đều. Nếu có gì trục trặc, nàng sẽ khởi động ngay, lái xe thẳng về phía tôi cho tôi nhảy lên, rồi thế là chúng tôi vượt qua phía bên Bồ Đào Nha. Chúng tôi sẽ không gặp phải nhiều trở ngại lắm đâu. Đấy chỉ là một trạm kiểm soát nhỏ thôi, và trước khi lính biên phòng có đủ thì giờ nhắm bắn vào bóng đêm thì chúng tôi đã cao chạy xa bay rồi. Nhưng điều gì sẽ xảy đến tại Bồ lại là vấn đề khác.
Chẳng có gì xảy ra. Lính biên phòng mặc đồng phục đứng giữa bóng đêm đầy bão tố giống như những nhân vật trong bức họa của Goya[*]. Họ đưa tay chào và chúng tôi lái xe thẳng qua trạm kiểm soát của Bồ Đào Nha, nơi đây chúng tôi được chấp nhận cho nhập cảnh cũng dễ dàng như thế. Vừa lúc chúng tôi cho xe chạy đi, một người lính biên phòng chạy đuổi theo, la với theo bảo chúng tôi cho xe ngừng lại. Sau một lúc do dự tôi tuân thủ ngay vì nếu tôi cứ tiếp tục đi thì đến thành phố kế tiếp chúng tôi cũng bị chặn lại dễ dàng thôi. Thế nên tôi dừng xe lại, nín thở.
Người lính bước tới.
“Cuốn carnet của ông,” Y nói, “Ông bỏ quên nó trên bàn. Lúc trở về ông cần đến nó đấy.”
“Cảm ơn nhiều.”
Sau lưng tôi đứa bé buông ra một tiếng thở dài nhẹ nhõm. Trong một lúc chính tôi cũng cảm thấy như không còn trọng lượng nữa.
“Bây giờ cháu đã đến Bồ Đào Nha rồi đó,” Tôi nói với đứa bé.
Nó từ từ lấy tay khỏi miệng và lần đầu tiên nó dựa ngửa người ra sau. Trong suốt cuộc hành trình, nó cứ thu gọn mình chồm tới trước.
Làng mạc vùn vụt lướt nhanh hai bên xe. Xa xa có tiếng chó sủa. Ngọn lửa ở lò rèn rực lên trong buổi sáng sớm; người thợ rèn đang đóng móng cho con ngựa trắng. Mưa đã tạnh. Tôi chờ đợi cái cảm giác thanh thản mà tôi ngóng đợi từ lâu song nó không đến. Cạnh tôi. Helen ngồi lặng yên. Tôi thèm muốn được cảm thấy mình hạnh phúc, nhưng tâm hồn tôi sao vẫn thấy trống rỗng.
Đến Lisbon tôi gọi điện thoại đến tòa lãnh sự Hoa Kỳ tại Marseille. Tôi thuật lại cho họ nghe những sự cố xảy ra cho đến lúc Georg xuất hiện. Người đàn ông ở đầu dây đằng kia nói thế thì tốt và tôi được an toàn rồi. Tôi chỉ được anh ta hứa nếu có hộ chiếu cấp cho tôi, thì anh ta sẽ gửi chuyển tiếp qua tòa lãnh sự tại Lisbon.
Chiếc xe đã che chở chúng tôi trong bao lâu nay cần phải vứt bỏ lại.
“Bán nó đi, anh ạ,” Helen đề nghị.
“Sao ta lại không lăn nó xuống biển tại một nơi nào đó cho rảnh.”
“Như thế cũng chẳng thay đổi được gì,” Nàng đáp, “Anh đang cần tiền. Bán nó đi.”
Nàng nói có lý. Bán nó đi rất dễ thôi. Người mua bảo sẽ trả mọi khoản thuế và cho người sơn xe lại màu đen. Y là tay buôn bán. Tôi lấy tên Georg đứng bán. Một tuần lễ sau tôi gặp lại nó mang bảng số Bồ Đào Nha. Tại Lisbon này có khá nhiều xe giống như thế; tôi nhận ra được là nhờ cái hình nổi dập trên cái chắn bùn bên trái. Tôi đốt giấy hộ chiếu của Georg đi.
Schwarz nhìn đồng hồ, rồi nói tiếp:
— Cũng chẳng còn gì nhiều để kể. Cứ mỗi tuần một lần tôi đến tòa lãnh sự. Có một thời gian chúng tôi ghé chân tại khách sạn bằng tiền bán xe. Tôi muốn cho Helen được hưởng thật nhiều tiện nghi. Tôi tìm ra được một bác sĩ chịu giúp nàng mua thêm thuốc giảm đau. Tôi lại còn đưa nàng đến sòng bạc nữa cơ đấy. Muốn đến đó tôi phải mướn một chiếc áo smoking. Helen vẫn giữ chiếc áo dạ hội mua ở Paris, và tôi mua thêm cho nàng đôi dép vàng. Các thứ khác của nàng tôi đã bỏ quên lại Marseille. Ông có biết sòng bạc chứ?
— Vâng, rủi thay cho tôi. Đêm qua tôi có đến đó. Đó là một sai lầm.
— Tôi muốn nàng vui chơi, - Schwarz nói, - Nàng được bạc luôn. Phải nói là nàng đang gặp vận may khó tin nổi. Nàng tung đại thẻ tiền ra và tiền cứ thế nàng lùa vào.
Những ngày sau cùng chẳng có liên quan gì đến thực tại. Như thể cuộc sống tại lâu đài trước kia diễn trở lại. Cả hai chúng tôi đều dựng lên một màn kịch nhỏ; song đây là lần đầu tiên tôi có cảm giác nàng hoàn toàn thuộc về tôi, tuy nàng vẫn trượt khỏi tay tôi từng giờ để ngả vào đôi cánh tay của người tình tàn nhẫn nhất. Nàng chưa tuân phục hắn ta, song nàng thôi không phấn đấu nữa. Đã qua bao đêm rồi nàng khóc lóc thảm thiết trong nỗi giày vò ray rứt. Nhưng tiếp theo là những khoảnh khắc huyền ảo, lúc mà âu yếm, sầu thảm, khôn ngoan, và yêu thương vượt ngoài giới hạn của thân xác đạt đến cường độ mãnh liệt khiến tôi không dám nhúc nhích sợ nó vỡ tan. Có một đêm nàng bảo tôi, và đó cũng là lần duy nhất nàng đề cập đến điều đó: “Chúng mình sẽ không cùng nhau thấy được vùng đất hứa của anh đâu.”
Chiều hôm ấy, tôi đưa nàng đến gặp bác sĩ. Giờ bỗng nhiên tôi bị tràn ngập ý thức về một sự chống đối bất lực của người không giữ được cái mình yêu dấu. Bằng giọng nghẹn ngào tôi nói: “Helen ạ, chúng mình sao phải thế này?”
Rồi đến cái ngày mà tòa lãnh sự báo cho tôi hay điều không thể tin được đã xảy đến. Hai hộ chiếu đã đến rồi. Một ý nghĩ ngông cuồng qua một cuộc gặp gỡ tình cờ đã làm nên việc mà bao nhiêu lời cầu khẩn vô vọng không thực hiện nổi. Tôi bật cười. Chứng động kinh đấy. Nếu bạn còn cười được, thì còn rất nhiều chuyện đáng cười trong cái thế giới ngày hôm nay. Ông đồng ý chứ?
— Có điều là đôi lúc chúng ta cũng phải ngừng cười, - Tôi nói.
— Điều lạ lùng trong câu chuyện là vào những ngày sau cùng chúng tôi cười thật nhiều, - Schwarz nói tiếp, - Chúng tôi có cảm tưởng như đứng trong cảng, khuất mọi luồng gió. Nỗi niềm cay đắng đã vơi cạn rồi, nước mắt không còn nữa, và nỗi đau khổ của chúng tôi trở nên trong suốt đến mức lắm khi nó không còn phân biệt được với cái vẻ tươi vui ảo não chua chát. Chúng tôi dọn đến một căn hộ nhỏ nhắn. Mù quáng đến độ không tin được tôi cứ tiến hành dự án trốn qua Hoa Kỳ. Đợi một thời gian khá lâu chẳng có tàu bè gì. Thế rồi sau cùng người ta thông báo có tàu đi. Tôi bán bức tranh Degas cuối cùng để mua vé. Tôi chứa chan hạnh phúc. Bất chấp mọi thứ! Bất chấp cả chẩn đoán của bác sĩ!
Tàu ra khơi được hoãn lại ít ngày. Rồi ngày hôm kia tôi trở lại văn phòng hàng hải. Ngày nhổ neo được định là ngày hôm nay. Tôi báo cho Helen biết và ra phố mua sắm vài thứ. Lúc tôi trở về, nàng đã chết. Tất cả những tấm kính trong phòng bị đập vỡ nát. Chiếc áo dạ hội của nàng bị xé rách bươm vương vãi trên sàn nhà. Nàng nằm sóng soài bên cạnh nó; nàng không nằm trên giường.
Ý nghĩ đầu tiên của tôi là nàng bị kẻ trộm giết. Rồi sau lại cho là nhân viên Gestapo giết, nhưng đúng ra là chúng phải giết tôi chứ không phải nàng. Chỉ đến lúc thấy trong phòng chẳng có gì hư hại ngoài mấy tấm kính soi mặt và chiếc áo dạ hội, tôi mới hiểu ra. Tôi sực nhớ đến liều thuốc độc tôi đã giao cho nàng, mà nàng bảo đã đánh rơi mất. Tôi đứng nhìn sững một lúc rồi tìm kiếm thư để lại. Chẳng có thư nào cả. Chẳng có gì cả. Nàng ra đi chẳng có một lời để lại. Ông hiểu được điều đó chăng?
— Vâng, tôi hiểu, - Tôi đáp.
— Ông hiểu à?
— Vâng, tôi hiểu chứ, - Tôi đáp lại, - Chị ấy có thể viết gì nào?
— Viết ít chữ gì đó. À mà… Hoặc là…
Hắn trở lại im lặng. Có lẽ hắn đang nghĩ đến những lời trối trăng sau cùng, đến kỷ vật sau cùng của tình yêu, đến một cái gì đó mà hắn có thể mang theo vào cõi cô đơn. Hắn đã vứt bỏ đi rất nhiều suy nghĩ thường tình, nhưng hình như không rứt bỏ được ý nghĩ này.
— Một khi chị ấy đã bắt đầu viết, - Tôi giải thích thêm, - Chẳng bao giờ chị ấy ngưng lại được. Không viết mà chị ấy còn có thể nói với ông lại nhiều hơn là chị ấy nói thành lời.
Hắn trầm ngâm suy nghĩ.
— Ông có trông thấy thông báo ở Sở hàng hải chưa? - Hắn hỏi nhỏ, - Hoãn lại hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Phải chi nàng biết thì nàng đã sống thêm được một ngày rồi.
— Không đâu.
— Nàng không muốn đi mà. Chính vì thế mà nàng tự vẫn.
Tôi lắc đầu.
— Nàng không chịu nổi cơn đau được lâu hơn nữa. - Tôi nói.
— Tôi không thể tin như vậy được. - Hắn đáp lại, - Tại sao nàng lại làm việc ấy khi mà mọi sự đã thu xếp xong cho chuyến đi? Hay nàng nghĩ sẽ không được chấp nhận vào Hoa Kỳ với chứng bệnh của nàng?
— Ta cứ để cho một người đàn bà hấp hối tự quyết định lấy khi họ đã cùng đường rồi có hơn không? - Tôi nói, - Thiết tưởng ta chỉ có thể làm thế thôi.
Hắn nhìn tôi.
— Nàng đã chịu đựng tới mức hết chịu đựng được nữa rồi. - Tôi nói, - Vì lợi ích của chính ông, ông không chịu thấy điều đó sao? Chỉ vì lợi ích của ông thôi. Một khi nàng biết ông được cứu thoát, nàng bỏ cuộc.
— Nhưng nếu tôi đã không đến nỗi mù quáng như vậy thì sao? Nếu tôi không cứ nằng nặc đòi sang Hoa Kỳ?
— Ông Schwarz ạ, - Tôi nói, - Như thế cũng chẳng chữa cho chị ấy khỏi bệnh được.
Hắn lúc lắc cái đầu trông đến là lạ kỳ.
— Nàng chết rồi. - Hắn thì thào, - Thế rồi đột nhiên tưởng như chẳng bao giờ có mặt nàng trên quả đất này. Tôi nhìn nàng và chẳng được lấy một câu trả lời. Tôi đã làm gì? Tôi đã giết nàng hay tôi đã mang hạnh phúc lại cho nàng? Nàng yêu tôi hay tôi chỉ là cái nạng chống nàng tì người lên đó khi nó vừa với nàng? Tôi không tìm được câu trả lời.
— Ông cần phải có câu trả lời sao?
— Không, - Hắn đáp, - Cho tôi xin lỗi. Có lẽ là không thật.
— Không có câu trả lời đâu. Không bao giờ có. Chỉ trừ câu trả lời tự ta tìm ra.
— Tôi vừa kể ông nghe xong câu chuyện, - Một lát sau hắn lại nói tiếp, - Vì tôi cần biết. Cuộc đời tôi là cái gì? Phải chăng nó là một cuộc đời trống rỗng, vô nghĩa, cuộc đời của anh chàng bị cắm sừng lại vô dụng, một tên sát nhân…?
— Tôi cũng không biết nữa, - Tôi nói, - Hay nếu ông thích hơn, thì đó cũng là cuộc đời của một kẻ đã yêu, hay là ông thấy từ này hấp dẫn ông, thì đó là cuộc sống của một loại thánh. Nhưng từ gọi thì phỏng có ích gì? Chỉ biết đó là cuộc sống của ông. Như thế chưa đủ sao?
— Trước kia thì đủ. Nhưng còn bây giờ?
— Nó vẫn còn sống mãi cùng với ông.
— Chỉ có chúng ta là kẻ gìn giữ nó, - Schwarz nói khẽ, - Ông và tôi, chẳng ai khác.
Hắn lại nhìn tôi:
— Xin đừng quên điều đó. Có người đã bảo tôi như thế. Cuộc sống ấy không được chết. Chỉ có ông và tôi. Với tôi nó không an toàn rồi. Nhưng nó không được chết. Nó phải sống tiếp. Với ông thì nó an toàn đấy.
Lòng băn khoăn hoài nghi, một cảm giác lạ lùng xâm chiếm lấy tôi. Người đàn ông này muốn gì? Gã muốn lưu truyền lại cho tôi cái quá khứ của mình cùng với thẻ thông hành chăng? Gã đang tính chuyện tự vẫn nữa chăng?
— Tại sao cuộc sống ấy trong ông lại phải chết? - Tôi hỏi, - Ông vẫn tiếp tục sống cho mà xem, ông Schwarz ạ.
— Tôi không tự tử đâu, - Schwarz điềm tĩnh nói, - Tôi sẽ không tự tử chừng nào tôi biế rằng tên sát nhân với nụ cười nọ vẫn còn sống. Nhưng tâm trí tôi sẽ cố hủy diệt kỷ niệm ấy, ngấu nghiến nó thành mảnh vụn, bóp nát nó, ngụy tạo nó đi, thuần hóa nó, biến nó thành cái gì đó đổi mới để có thể tiếp tục sống với hình ảnh ấy được. Từ đây đến mấy tuần nữa thôi là tôi đã không thể nói những gì tôi nói với ông ngày hôm nay. Chính vì thế mà tôi muốn lắng nghe tôi. Ông không thể giả mạo câu chuyện được vì đối với ông nó chẳng có chút gì nguy hiểm cả. Và ở một nơi nào đó nó phải tồn tại.
Bỗng nhiên hắn lộ vẻ vô cùng tuyệt vọng:
— Ai đó phải giữ cho nó nguyên vẹn, ít ra cũng trong một thời gian.
Hắn rút trong túi ra hai tấm hộ chiếu rồi đặt xuống trước mặt tôi.
— Đây có cả hộ chiếu của Helen nữa. Vé thì ông đã có rồi. Giờ chỉ còn phải xin dấu nhập cảnh Hoa Kỳ cho cả hai người. Một thoáng cười nụ phớt lên khuôn mặt hắn rồi hắn lại rơi vào im lặng.
Tôi vồ lấy hai thẻ hộ chiếu. Và bằng một cố gắng tột bực tôi mới hỏi hắn được:
— Thật tình ông không còn cần đến chúng nữa chứ?
— Để trao đổi, ông cho tôi xin hộ chiếu của ông, - Hắn nói, - Tôi chỉ cần đến trong một hai ngày thôi. Chỉ dùng để qua biên giới thôi mà.
Tôi nhìn hắn sửng sốt.
— Trong đoàn quân chí nguyện họ không đòi hỏi thông hành. Tôi khỏi cần cho ông hay là họ chấp nhận người tị nạn. Và chừng nào những tên man rợ loại tên Nụ cười còn sống thì tự vẫn đối với tôi là một tội ác. Việc gì phải phung phí một mạng sống có thể dùng để chiến đấu chống lại chúng?
Tôi lấy thông hành của tôi trong túi ra đưa cho hắn.
— Cảm ơn ông. - Tôi nói, - Cảm ơn ông đối với tất cả tấm lòng, ông Schwarz ạ.
— Lại còn một ít tiền đây. Tôi chẳng cần đến nhiều tiền nữa đâu.
Schwarz nhìn đồng hồ:
— Còn một việc nữa tôi muốn nhờ ông, chẳng hay có được không? Trong nửa tiếng nữa người ta sẽ đến lấy xác nàng. Ông vui lòng cùng đi với tôi nhé?
— Vâng.
Schwarz tính tiền trả. Chúng tôi bước vào buổi sáng ngợp nắng chói chang.
Ngoài kia con tàu nằm đợi, trắng bạc bập bềnh trên sông Tagus.
Tôi đứng trong phòng cạnh Schwarz. Khung kính vẫn còn trên tường trống rỗng. Mảnh kính vỡ đã được dọn dẹp.
— Tôi có nên sống với nàng đêm cuối cùng chăng? - Schwarz hỏi.
— Thì ông đã sống với nàng rồi đấy.
Trong cỗ áo quan, người đàn bà nằm như người chết vẫn thường nằm. Khuôn mặt nàng trông vô cùng xa vắng. Chẳng có gì khiến nàng phải suy tư lo lắng nữa, cả Schwarz, cả tôi và cả chính nàng nữa cũng thế thôi. Không còn có thể hình dung trước đây trông nàng như thế nào. Nằm kia chỉ là pho tượng, và chỉ có mình Schwarz còn giữ lại hình ảnh của nàng lúc nàng còn thở. Nhưng giờ đây Schwarz biết chắc tôi cũng chia sớt với hắn.
— Chỉ còn lại ít lá thư… - Hắn chép miệng nói, - Mới chỉ hôm qua đây thôi…
Hắn lấy trong ngăn kéo ra vài lá thư.
— Tôi chưa đọc đến, - Hắn nói, - Ông lấy hết đi.
Tôi cầm lấy xấp thư và sắp sửa đặt vào quan tài. Sau tôi chợt nghĩ ra điều hay hơn. Giờ đây, rốt cuộc người chết chỉ thuộc về một mình Schwarz, hay ít ra gã cũng đã nghĩ như vậy. Thư của người khác giữ thì không hợp. Gã không muốn nàng đem theo với nàng, nhưng mặt khác gã không muốn hủy chúng đi, bởi dẫu sao cũng là của nàng.
— Thôi, để tôi cất vậy. - Tôi nói và cho xấp thư vào túi, - Chúng đã mất hết ý nghĩa rồi, không bằng một tờ giấy bạc nhỏ đủ mua một đĩa xúp.
— Chỉ là những cặp nạng chống đỡ thôi. - Hắn đáp lại, - Tôi hiểu. Đã có lần nàng gọi mấy xấp thư là nạng chống nàng cần đến để mãi mãi được chung thủy với tôi. Ông hiểu ra điều đó chứ? Thật vô lý…
— Không vô lý đâu. - Tôi đáp. Và một cách rất thận trọng, bằng cả tấm lòng thương cảm, tôi nói, - Ông không để chị ấy yên được sao? Chị ấy đã yêu ông và đã sống cùng ông trọn cuộc đời mà.
Hắn gật đầu. Bỗng nhiên trông hắn suy nhược hẳn.
— Đấy chính là điều tôi muốn biết, - Hắn khẽ nói.
Không khí trong phòng rất nóng, thi hài người chết, mùi bốc cay mũi, ruồi nhặng, những mẩu nến cháy dở, và ánh nắng bên ngoài. Schwarz bắt gặp ánh mắt nhìn tôi.
— Một người đàn bà giúp đỡ tôi, - Hắn kể lể, - Thật là khó sống trên một đất nước xa lạ. Bác sĩ. Cảnh sát. Chúng bắt nàng đi. Rồi đêm qua chúng đưa nàng về lại. Cuộc giải phẫu. Nguyên nhân cái chết.
Hắn nhìn tôi tuyệt vọng.
— Họ… Một phần của nàng đã đi rồi… Họ bảo tôi đừng cởi áo nàng ra.
Phu đám ma đến. Nắp áo quan được đậy lại. Schwarz hầu như ngất xỉu.
— Tôi sẽ đi cùng ông, - Tôi nói.
Nơi chôn cất không xa lắm. Buổi sáng rực rỡ ánh nắng và có gió thổi lùa như con chó chăn cừu đang đuổi theo đám mây bồng bềnh. Tại nghĩa địa, Schwarz đứng lặng yên, dáng người thu nhỏ lại bơ vơ dưới vòm trời mênh mông.
— Ông có muốn trở về căn hộ của ông không? - Tôi hỏi hắn.
— Không.
Hắn có mang theo chiếc va li.
— Ông có quen ai cạo sửa được giấy thông hành không? - Tôi hỏi.
— Gregorius. Tuần trước y có đến đây.
Chúng tôi đến gặp Gregorius. Y nhanh chóng cạo sửa hộ chiếu của tôi cho Schwarz, công việc chẳng cần tỉ mỉ quá. Schwarz có mang theo người tấm thẻ do trạm tuyển mộ chí nguyện quân cấp. Hắn chỉ còn phải qua biên giới là xong. Một khi đã đến đồn quân chí nguyện, hắn có thể ném thẻ hộ chiếu của tôi được rồi. Liên đoàn quân chí nguyện không quan tâm đến quá khứ.
— Đứa bé mà ông mang đến Lisbon giờ ra sao rồi? - Tôi hỏi.
— Cậu nó chẳng ưa gì nó, nhưng đứa bé vẫn thấy sung sướng. Nó nghĩ thà bị người trong gia đình ghét bỏ còn hơn là người ngoài.
Tôi nhìn vào người đàn ông hiện giờ đã mang tên tôi.
— Tôi chúc ông thật nhiều may mắn, - Tôi nói, cố tránh không gọi hắn bằng tên Schwarz nữa. Tôi chưa nghĩ ra được một tên nào khác để gọi.
— Chắc tôi sẽ không còn gặp lại ông nữa. - Hắn nói, - Thôi thế cũng được. Tôi đã kể ông nghe quá nhiều rồi nên chẳng phải gặp ông lại làm gì nữa.
Tôi không chắc như thế đâu. Có thể hắn còn muốn gặp lại tôi sau này cũng chính vì lý do đó. Chỉ có tôi, gã tin như thế, là giữ được hình ảnh nguyên vẹn về cuộc đời của hắn. Nhưng điều đó có thể khiến hắn ghét tôi. Có thể hắn nghĩ tôi đã tách vợ hắn ra khỏi hắn, và lần này không thể đảo ngược lại được. Nếu thực tình hắn tin như vậy thì đúng là trí nhớ hắn lừa gạt hắn và chỉ có ký ức của tôi là vẫn còn trong sáng.
Tôi thấy hắn đi lần xuống phố, tay xách va li, một hình ảnh thảm hại, một người mãi mãi bị cắm sừng và là một người tình dũng cảm. Nhưng chẳng phải là hắn đã chiếm hữu được người đàn bà hắn yêu một cách sâu đậm hơn tất cả những tay chinh phục ngu xuẩn kia sao? Mà thật ra chúng ta chiếm hữu được gì? Tại sao chúng ta lại phải nhặng xị lên về những điều mà suy cho cùng chỉ cho ta vay mượn trong một thời gian thôi? Và tại sao lại có câu chuyện này về mức độ chiếm hữu, khi mà cái từ “chiếm hữu” viển vông kia chỉ có nghĩa là ôm lấy không khí thôi?
Tôi có mang theo người tấm ảnh hộ chiếu của vợ tôi. Những ngày ấy lúc nào ta cũng cần có sẵn ảnh cho những giấy tờ tùy thân. Gregorius bắt tay vào việc ngay. Tôi ngồi lại với y chờ đợi. Tôi sợ để thất lạc hai giấy thông hành của chúng tôi.
Đến trưa thì xong. Tôi chạy nhanh về cái xó nơi chúng tôi đang sống. Ruth ngồi bên cửa sổ, nhìn đám con ngư phủ chơi ngoài sân.
— Anh đánh mất rồi hả? - Nàng hỏi khi thấy tôi hiện ra ở bực cửa.
Tôi cầm đưa cao tấm hộ chiếu lên.
— Ngày mai là chúng mình đi. Ta sẽ mang tên khác, mỗi người một tên, và chúng ta sẽ phải làm đám cưới lần nữa khi qua được Hoa Kỳ.
Tôi chẳng bận tâm gì lắm về việc lúc ấy tôi mang hộ chiếu của một người có thể đang bị truy lùng về tội sát nhân. Chúng tôi ra khơi vào chiều hôm sau và đến Hoa Kỳ không mấy khó khăn. Nhưng giấy hộ chiếu của cặp tình nhân không đem may mắn lại cho chúng tôi. Sáu tháng sau, Ruth phải ly dị với tôi. Để tạo vẻ bề ngoài hợp pháp, trước tiên chúng tôi lại phải làm đám cưới. Về sau, Ruth lấy một người Hoa Kỳ giàu có vốn đã chịu đứng ra bảo lãnh cho Schwarz. Cả câu chuyện khiến anh ta sửng sốt, vì quá buồn cười không nói nên lời được. Trong lễ cưới thứ hai của chúng tôi, anh ta là phù rể. Một tuần lễ sau, chúng tôi ly dị tại Mehico.
Thời gian chiến tranh còn lại tôi ở Hoa Kỳ. Điều khá lạ lùng là tôi bắt đầu thích hội họa, một ngành mà trước đây với tôi hầu như chẳng có ý nghĩa gì cả, chẳng qua chỉ là một di sản, tôi thấy thế, được thừa hưởng của ông Schwarz xa xôi kỳ dị nào đó nay đã chết rồi. Tôi cũng thường nghĩ tới gã Schwarz thứ hai nay chắc vẫn còn sống, và cả hai Schwarz hiện lên như bóng ma khuất sau lớp sương mù đôi khi tôi cảm thấy hiện diện bên mình. Dường như nó còn tác động đến tôi nữa kia, dù tôi biết những ý nghĩ ấy hoàn toàn là vô lý. Sau rồi tôi kiếm được chỗ làm tại một cửa hàng mỹ nghệ, và trong phòng tôi treo khá nhiều ấn bản sao tranh của Degas mà sau này tôi đâm ra say mê.
Tôi thường nhớ đến Helen, mà tôi chỉ được trông thấy lúc chết thôi. Và trong một thời gian, dạo tôi sống một mình, tôi lại còn mơ đến nàng nữa. Đêm đầu tiên ngoài khơi, tôi ném xấp thư Schwarz đưa cho tôi xuống biển mà chẳng đọc qua. Trong một phong bì, tay tôi nắn thấy một vật cứng nhỏ. Tôi lấy nó ra trong bóng tối. Lát sau, dưới ánh đèn điện, mới biết đó là một miếng hổ phách bằng phẳng trong đó cách đây hàng ngàn năm có chú ruồi bé tí bị bắt nhốt và hóa đá. Tôi vẫn còn giữ nó, cuộc chiến đấu để sống còn của chú ruồi ấy mà, được bảo tồn trong chiếc lồng những giọt nước mắt vàng, trong khi đó đồng loại của nó đã đóng thành băng hoặc bị ăn, và bị đánh bại khỏi mặt trái đất.
Sau chiến tranh tôi trở về châu Âu. Tôi gặp ít nhiều khó khăn trong việc lập lại lý lịch của mình, vì lúc bấy giờ có cả hàng ngàn thành viên của cái chủng tộc thượng đẳng tại Đức đang tìm cách đánh mất lý lịch của chúng. Về phần Schwarz, tôi chẳng được tin tức gì thêm nữa. Có một lần tôi đến Osnabruck hỏi thăm về hắn, tuy tôi quên mất tên thật của hắn rồi. Song cả thành phố đang trong cảnh hoang tàn, chẳng có ai nghe nói đến hắn, mà cũng chẳng ai buồn quan tâm đến. Trên đường ra ga, tôi tưởng nhận ra gã. Tôi chạy theo. Nhưng đó chỉ là một nhân viên bưu điện tên là Jansen và có ba con.
HẾT