← Quay lại trang sách

LÀNG

Tôi đã sinh ra rồi lớn lên trong không khí chan chứa truyền thuyết huyền thoại của quê hương, một ngôi làng cổ. Tôi không có bố mẹ. Bố mẹ tôi là cả làng tôi!

Tất cả loài kiến người, tổ tiên của chúng tôi được sản sinh từ tế bào trứng, rồi nở thành ấu trùng, cuối cùng thành kiến con! Chúng tôi thuần là con cái của tập thể. Cuộc sống cộng đồng của chúng tôi vậy là bắt đầu từ hạt trứng.

Những hạt trứng do một mình cô kiến Chúa đẻ ra, tại khu vực lâu đài tim tím mà ánh sáng được làng thanh lọc, chiếu rọi vào. Cô kiến Chúa suốt ngày đêm ở trong đó sinh nở. Cô trẻ trung, đẹp nõn nà. Cô cần mẫn nhiệm vụ chửa đẻ để duy trì và phát triển nòi giống cho cả làng! Cô đẻ những hạt tế bào chứa sự sống, được gọi là trứng! Cũng có khi, một cô kiến thợ thường dân nào đó chẳng rõ vì sao đau bụng rồi trở dạ cũng sinh nở ra trứng. Nhưng hạt trứng đó thường không tốt và rất hiếm gặp! Còn cứ như việc cả làng tín nhiệm thì cô kiến Chúa làm mỗi nhiệm vụ sinh nở! Để nòi giống kiến chúng tôi được tốt, và để các cô kiến thợ được rảnh rang, an tâm gánh vác mọi việc làng.

Việc cô kiến Chúa đẻ trứng thay cho tất cả các cô kiến trong làng thật khốn khổ cho cô... Vì suốt ngày đêm cô ở trong tình trạng thai nghén, bụng mang dạ chửa, hay trở dạ đau xé ruột khi nở sinh. Nhưng đó là cái khổ vinh dự! Mà nghĩ cũng hay, mình cô kiến Chúa đẻ trứng rồi trứng nở thành con. Mọi phiền phức của nuôi con, mất hết thời giờ ăn làm của một phụ nữ cần lao! Chúng tôi đều một lòng quý trọng cô kiến Chúa. Chúng tôi đem tới cô những chiếc bánh mật ngọt, các thứ nhụy thơm của những loài hoa. Lâu đài tim tím của cô ngày đêm canh gác cẩn mật bởi những tiểu đội lính chăm chỉ, là những bác kiến Đầu To, được mệnh danh là những hiệp sĩ kiến...

Sự canh gác nghiêm cẩn như vậy do xa xưa, làng Chè bên cạnh làng Mận của chúng tôi, đã từng xảy ra một biến cố chảy máu...

Bà Chúa làng Chè ai cũng biết: rất mắn! Trứng của bà cứ phải hàng ngàn hạt nẫn nà, múp míp, xứng đáng với truyền thống cần cù, sức vóc của dân Chè! Bà ở trong một cái lâu đài Ngà thoáng mát, ngày có tia nắng lọc, đêm có tia sao, cũng lọc... Nhưng, một sự chểnh mảng của lính gác, vào một đêm gió may, khiến bọn kiến lạ lọt vào. Đâu như chúng đã chuốc cho tiểu đội lính gác từng vò rượu. Cái thứ rượu sữa, chắt ở những loại côn trùng đặc biệt, một thứ ê-te say lịm! Thế là bọn gian phi lẻn được vào trong lâu đài Ngà. Chúng dùng dao găm đâm chết bà Chúa làng Chè. Trên cái ổ đẻ, như một mặt giường ngọc thạch, chúng đặt thế vào đó: ả-nữ-chúa-gian-phi! Ả ta xanh lướt, mi trắng, lông mày cong tớn. Những hạt trứng của ả cũng xanh lướt, và chứa chấp một sự sống gian giảo, ăn bám, là lối sống của giống kiến lạ! Thế đó! Làng biết ra thì đã muộn! Giết ả ấy đi ư? Đập vỡ hết đống trứng khốn kiếp ấy đi ư? Cái thiện tâm của dân làng Chè không đang tay làm chuyện ấy! Một đêm đẫm máu, không nên làm đẫm máu thêm! Cuộc mít tinh trước lâu đài Ngà quyết định: làng sẽ nuôi đống trứng vô tội kia. Làng sẽ cải tạo chúng! Còn ả nữ chúa gian phi: ả ta câm! Dây ăng-ten lại bị liệt! Không có cách gì cho ả nói được làng quán ả ở đâu. Làng cho ả một bình sữa thơm, rồi đuổi ả đi.

— Làng Chè cần lao này không thể dung cái tông giống ăn bám của chị! Chị về đi! Chị đừng hòng ở đây mà reo rắc những hạt-sống bẩn thỉu khác nữa!

Ả ta cúi đầu đi ra khỏi cổng làng Chè. Làng ả ở xa... Trinh sát làng Chè đi theo. Họ trở về báo cáo: ả ta khóc mếu suốt dọc đường... “Ôi làng ơi! Từ bé tới giờ tôi mới phải đi bộ thế này là một! Ối làng ơi!”... Đi tới làng Bàng, bỗng dưng trời trở gió, ả ta đùng lăn ra chết!

Không ai còn điều tra ra được cái làng của bọn kiến lạ đó ở đâu. Giống ăn bám dối trá ấy! Chúng không đương nổi một biến cố thời tiết xoàng nhất! Còn dân làng Chè mới khổ... Họ phải nuôi lẫn lộn với trứng làng, một đống trứng ốm o. Họ phải cố sao chia cùng một tình cảm. Mà lại phải săn sóc chu đáo hơn... Đến lúc đàn kiến non gian phi ấy ngọ ngoạy được! Chúng lười. Trần đời có bọn lười ấy là một. Chỉ ngắm vuốt, chải lông, chuốt ăng-ten suốt ngày. Làng phải cưỡng bức chúng lao động. Kho mật, kho thóc sểnh ra là chúng ăn cắp. Nghe đâu có vài trăm đứa sống trong sự kèm cặp của dân làng Chè. Hình như chúng đã bỏ được cái tính ăn bám truyền kiếp. Nhưng lấy ai đẻ đái cho dân làng Chè? Không biết họ đã tìm được một cô kiến Chúa xứng đáng chưa?... Mùa trứng sắp đến... Không thì đến tiệt chủng cả làng... Biến cố của làng Chè thành kinh nghiệm của các làng kề bên. Có điều là lịch sử không nhắc lại. Có lẽ vì làng Mận chúng tôi đã cử những dũng sĩ cẩn trọng canh phòng lâu đài tím ngày đêm, với những con mắt sắc mắc, đủ loại vũ khí tuốt trần, để những tai bay vạ gió không thể giáng xuống bầy kiến chúng tôi.

Cô kiến Chúa làng Mận chúng tôi trắng nuột. Cứ như một nõn bông trong cái tím nhờ nhạt của lâu đài. Những lứa trứng cô đẻ ra lăn tăn, hơn hớn, tuy bé nhưng mà mẩy hạt, hứa hẹn những sức sống táo bạo. Các bà bảo mẫu xếp hàng rồng rắn chờ ở vòm cổng lâu đài. Các bà bế trứng đi từng dây. Các bà vừa đi vừa hát những câu hát mộc mạc của phong tục làng cổ... Đó, bà Bệu béo như cái chum, với câu hát bốn mùa của bà:

Bồng! Bồng!

Làng thiếu thợ cưa!

Trứng ngoan, hãy nở thợ cưa cho làng!

Nếu trứng ngoan nghe lời bà cả, làng sẽ toàn là thợ cưa! Cũng may, còn có những bà khác. Bà thì yêu cầu: thợ nề. Bà khác yêu cầu cao hơn: kỹ sư nông nghiệp! Tha hồ mà chúng tôi chọn... Tùy theo khả năng... Cả một mớ yêu cầu, không khéo những hạt trứng yếu bóng vía đâm ra bối rối! Không biết mình nên nở ra thợ ngõa hay thợ xẻ? Kỹ sư, nghệ sĩ, bác học, hay nhũn nhặn: một anh thợ cày?

Vườn trẻ ở rải ra khắp làng. Đó là những căn phòng ươm những mầm sống: trứng! Trứng chúa hay trứng thợ, một khi đã sinh ra, đều trở thành công hữu tài sản! Các hạt trứng đều bình đẳng. Các bà bảo mẫu chăm bẵm tất cả, cùng một tình yêu.

Trứng nằm trong những sảnh thất mông mênh, ánh sáng trong trong đã lọc sạch. Thấm thoắt, trứng nở ra ấu trùng. Ấu trùng hóa ra nhộng. Nhộng hóa: kiến con!

* * *

Một cái tháp màu đất thó: đó là căn buồng riêng của tôi! Một thứ kỷ hà khó tả của sàn gác, trần, khung cửa, các thứ ngóc ngách chóp nón, hộp, vòm... Cửa ra vào cuốn lên theo một thứ kiến trúc mô-đéc, mộc khỏe. Nhưng ở chỗ lò sưởi, lại chạy hồi văn, và chạm nổi nho sóc, kiểu thợ thủ công thời cổ. Tóm lại, chắc nhiều thời đại đã qua đi, trong căn phòng này, để lại nghệ thuật và thị hiếu của họ. Một cái hành lang màu xi măng liên lạc buồng tôi với các buồng khác nâu, tím, gụ... với các tầng khác đen, xám tro, ghi... Một thứ đại khách sạn. Cổng ngõ mở tanh bành ra phố. Đó đây, những xoáy ốc vặn của cầu thang.

Phố tôi đâm thẳng ra Cổng Đông: một sự ra vào không ngớt. Bốn mùa ra vào. Các bác thợ đi từng dây, bất tận. Một dây thợ ra, thường thường là tay không. Một dây thợ vào, bao giờ cũng vác nặng những bì gạo, những thùng mật... Phố cứ tíu tít lên, cái thứ tíu tít của các thành phố văn minh: tíu tít trật tự! Tôi thích cái lam lũ của phố. Những dòng kiến đi trong tinh sương hay chiều sẩm... Cảnh ấy không cần hát. Tự cái lam lũ trữ tình của lao động hát.

Tôi còn bé: một sự đỏ hỏn bò quẩn bò quanh trong căn buồng tháp đất thó. Bảo mẫu của tôi là bà Bệu. Bà Bệu suốt ngày ở một sảnh đường mông mênh nâu, kén xếp trắng nõn. Nào sưởi kén, nào bế, nào tắm, bà Bệu thở không ra. Thi thoảng, bà chạy bì bạch sang buồng tôi.

— Kiến Gầy đâu?

— Con đây ạ! Tôi đang trèo lên một cái cửa sổ, chúc đầu dòm xuống phố.

— Mày muốn ngã dập xương phỏng? Một bàn tay hộ pháp kéo tôi xuống. Con ngoan nhé! Đừng đi chơi nhé! Kiến Đầu Beo nó cắn chết. Nó ăn thịt.

— Vâng.

Dọa tôi nhiều, tôi càng đâm tò mò. Chỉ muốn tìm gặp kiến Đầu Beo, với kiến Sư Tử! Tôi lẻn đi, bằng cầu thang sau... Chào những cuộc đi chơi của tuổi ngây thơ! Cuộc đi sau táo tợn hơn cuộc đi trước! Với những quở mắng, đòn vọt kèm theo đó! Nhưng có lúc quỳ, tôi lại cho là trò đùa.

— Kiến Gầy! Mày thích ở nhà hay ở ngoài đường? Bà Bệu mắng mát tôi. Thích ở ngoài đường, thì đấy! Đi đi!

Tôi đang quỳ ở cạnh lò sưởi. Tôi mải nhìn con Sóc chạm trổ, đang hái chùm nho.

— Hử? Mày thích ở nhà hay ở ngoài đường? Hử, kiến Gầy?

Tôi chưa hiểu cái cấu trúc lắt léo của lối nói mát.

— Con thích ở ngoài đường ạ!

“Hí hí!..” Hai bàn tay nần nẫn bà Bệu vồ lấy tôi mà đưa lên miệng hôn hít: “Cha mẹ cái thằng ngốc!” Nựng tôi thế thì chỉ ngoảnh đi ngoảnh lại đã thấy biến mất tôi. Bà Bệu yêu tôi lắm. Cũng nhiều lần bà quất roi tôi lằn cả đít. Nhưng vết đòn chưa lặn tôi đã quên ngay.

— Mày không nhớ trận đòn ban sáng à?

— Không ạ.

Thế là lại: “Cha mẹ cái thằng ngốc!” Đánh là hãn hữu, còn thường thường bà Bệu hay có lối nói mát.

— Mày cứ đái vào chân mà vầy nữa đi!

— Vâng ạ!

Tôi ngỡ là bà đồng ý trò chơi bẩn thỉu của tôi. Tôi bèn cứ đái vào chân, thành vũng giữa buồng...

Làng tôi không những là làng cổ, mà còn là làng to. To như ba làng chập một. Gọi là làng thì gọi, chứ không thật đúng tên. Gọi là thành phố ngầm, cũng không đúng hẳn. Một thứ thành phố ngầm có ba mươi sáu tầng phố, ba mươi sáu tầng nhà, chồng lên nhau. Mỗi tầng lô nhô khoảng vài nghìn nóc. Tầng nào cũng có phố, có đại lộ, với các thứ ngõ to nhỏ. Tùy theo sự cần thiết của từng khu, và sự tiện lợi của giao thông, người ta xây những nhà công cộng, bãi công cộng. Tầng tôi là tầng thứ ba mươi ba. Có đại lộ Mùa Thu, quảng trường Sáng Trăng... Tầng hai mươi hai có bãi Hội Võ. Bãi Hội Võ xây kiểu xoáy trôn ốc, bậc chồng lên bậc, thoai thoải lòng chảo. Mọi người gọi đó là Bãi Võ Thành Cổ Loa. Hoặc Thành Cổ Loa. Hoặc ngắn hơn, gọn lỏn: Cổ Loa... Lâu đài tim tím của cô kiến Chúa cũng ở tầng hai mươi hai này, cách bãi Cổ Loa khoảng nửa dặm kiến... Mỗi tầng đều có sự hấp dẫn của nó. Thành phố đầy đủ mọi lệ bộ tiện nghi của một thành phố. Đường ngầm. Sân vận động. Lỗ thông hơi. Tu-nen 2 ... Và các rặng đèn lồng.

Nói đến các rặng đèn lồng! Cả một sự thần tiên của đại lộ Mùa Thu! Các nhà kỹ-sư-kiến-người đã nghiên cứu về ốp-tíc, phản xạ thiên văn, các môn học cần thiết, vân vân. Các rặng đèn lồng như được thắp bằng thứ tia sao. Mấy giờ thì sao Mắt Vịt tới đầu Cổng Đông? Mấy giờ sao Thần Nông tới dòm ngang phố Hy Lạp? Mà mỗi mùa mỗi khác... Bằng những kiến trúc phức tạp, các nhà kỹ sư kiến người đã bắt các tia sao, rọi xuống thành phố ngầm ở đại lộ Mùa Thu, thật là một giao hưởng thần kỳ của các tia sao, tùy theo các giờ, các thời tiết, các mùa... Khi nó ngả sang vàng, một màu vàng gió may, với những bụi sáng nhờ nhờ đỏ, tím, lác đác lòng đại lộ. Khi khác nó lộng lẫy, lấm tấm các màu rực rỡ. Hệt một bức tranh Tết, với những màu vui vang lừng. Khi khác nữa, cả đại lộ lại chìm trong những làn sáng mờ, đìu hiu, những tia tím ngoại, hồng ngoại...

Xóm La Tinh cũng có những chùm đèn rất đẹp. Thành phố cổ của tôi không xây lên, một lần. Mỗi thế hệ với kiến trúc và sự cần thiết của nó, đã cứ xây thêm, mở rộng, đào sâu, sửa chữa những khu mục nát... Nhưng tuyệt đối không phá. Ai tới xóm La Tinh sẽ thấy mình lạc về thời Trung cổ! Những căn nhà móm mém. Những ngõ ruột mèo. Những tô điểm hoa hòe hoa sói của kiến trúc thời cổ... Nhưng chỉ cách đó ba bước, người ta đã gặp cái kỷ hà mô-đéc mập khỏe, rộng thoáng của quảng trường Sáng Trăng. Từng cây số đường thẳng bình tĩnh, đường cong mềm, vòm cuốn đồ sộ, với những khoảng trống bao la như ăn thông với bao la của vũ trụ! Chỗ nào tôi cũng có một kỷ niệm. Hai, ba kỷ niệm. Ở phố cụt này, tôi đã bị vấp sái hông. Ở quảng trường Sáng Trăng, tất nhiên không cuộc mít tinh nào vắng cái mặt lem luốc của tôi. Ở ngõ 103, xóm La Tinh, tôi đã vác hộ một bác nữ công nhân, cả một bao gạo. Bao gạo đầu tiên trong cuộc đời lao động của tôi. Bãi Võ Cổ Loa, chúng tôi vừa xem đấu võ, vừa đấu võ với nhau, vào giờ giải lao. Cũng chả phải đợi tới Bãi Võ! Chúng tôi đấu với nhau, sưng tím mày mặt, khắp nơi. Hễ cứ có hai đứa bé, là thế nào cũng có một trò chơi, là bao giờ cũng kết thúc bằng cãi lộn, hoặc ẩu đả... Từ đầu tới chân tôi, tôi có thể kể, chẳng hạn: sái cẳng phố Hy Lạp, bươu trán ngõ 502, chảy máu đầu phố Nấm, tức là cái phố trồng cây đầy nấm, về mạn khu nhà lá...

Những chiến công của trẻ nhóc ấy! Thế chiến công mẻ đầu sứt râu! Chiến-công-hai-bên-cùng-mẻ-đầu-sứt-râu! Tôi gặp thằng Dặt Dẹo đang bò lê bò càng trong bụi khu công trường bỏ.

— Thằng nào đánh mày đấy? Tôi hỏi.

Mặt nó vêu vao, lấm đỏ những máu mũi máu mồm. Chỗ đã đông máu bầm lại, chỗ còn tươi.

— Tao đánh nó thì có! Dặt Dẹo đáp.

— Thằng nào?

— Thằng Bướng...

— Nó đánh mày đau thế?

— Không...

— Lại còn không?

— Tao đánh nó thì có.

Tang tích rành rành ra thế kia, mà Dặt Dẹo vẫn còn cứ khăng khăng: “Tao đánh nó!”

— Nó đâu rồi? Tôi hỏi.

— Tao đánh nó một trận... bò lê bò càng... Nó chạy trốn rồi... Nó đổ cả máu mũi máu mồm... Tao đánh nó một trận...

Cho đến mấy ngày hôm sau, Dặt Dẹo vẫn còn bưng cái mặt sưng bầm, gặp ai cũng kể: “Tao đã khiền cho thằng Bướng một trận... nên thân...” Ngược lại, ai cũng biết là nó bị “khiền”! Chả riêng Dặt Dẹo! Tất cả bọn nhóc chúng tôi, trừ những đứa hèn nhát, hay mách, còn thì đứa nào, dù bị khiền đau rành rành ra đến mấy, vẫn cứ hoàn toàn thành thật tưởng là mình “đã khiền cho đối thủ... một trận... nên thân!”

Tôi định bụng sẽ hỏi tội thằng Bướng. Dặt Dẹo là bạn tôi. Chỗ bạn nối khố. Cái thằng lạ, lúc nào đầu óc nó cũng có dăm bảy dự định, cùng một lúc. Ra bãi Cổ Loa xem đấu võ? Hay tới đại lộ Mùa Thu, rình lúc Sao Chổi đốt đỏ phố, trong khi rặng đèn lồng vẫn lăn tăn xanh? “Hay thôi, ta ở nhà đánh vật! Vật ba keo!” Các dự định khác nhau giằng co Dặt Dẹo. Tự nó, nó không biết ngã ngũ đằng nào. Nó ở đằng nào. Nó phát biểu linh tinh, cùng một lúc những ý nghĩa mâu thuẫn hẳn nhau... Nhưng nó rất tốt. Nó thẳng thắn, hay giúp đỡ bạn, có tính hào hiệp... Thằng Bướng tại sao đánh nó? Tôi không chơi với thằng Bướng. Tôi chỉ biết tên nó, với cái thân hình đô vật của nó. Nó đi ngoài phố, trông như một cái tàu bò. Nó chẳng chịu tránh ai. Nó cứ đâm thẳng đến. Người lớn cũng phải tránh.

Tôi đâm bổ đi. Tôi ngốn các phố. Tôi sục vào các ngả, tìm nó. Nó với tôi, như một cái tàu bò với một thanh sắt mảnh. Tôi gầy. Nhưng cứng bằng thép. Dù sao cũng kệ! Tôi rất có thể ôm cái quai hàm sưng, mà kể như thực với đám bạn nhóc: “Tao đã khiến cho thằng Bướng... một trận... nên thân.”

Tôi lùng mất một tối, không gặp nó. Cả ngày hôm sau cũng không gặp. Thế là tôi quên.

Xóm La Tinh, ngõ Mễ Tây Cơ! Tôi đi trong cái nồi rang xóm La Tinh. Đúng Ngọ! Mặt trời rọi thẳng xuống sự nham nhở các phố. Mặt đất căng khô ra, như tấm da bò bẩn. Đâu đây có tiếng cưa của các bác thợ xẻ. Tôi vừa mới nhô đầu vào ngõ Mễ Tây Cơ, thì cũng lúc ấy: một cái tàu bò nhô đầu vào đầu ngõ phía trước mặt!

Ngõ Mễ Tây Cơ hẹp, một khúc ruột mèo kéo thẳng đuỗn ra. Hai bên tường, một bên vàng xỉn, một bên mốc như da cá sấu. Đó là mặt sau của hai dãy nhà, quay mặt về hai phố khác. Trên thân tường vàng xỉn, có một cái ký hiệu nguệch ngoạc: “Cấm đái”, nhưng lỗi ám tả, thành ra “Cấm dái”. Tuy cấm vậy mà cái ngõ vẫn khai nồng... Nhất là đang trưa thế này... Chính tôi đang định tạt vào đây, để làm cái việc mà bức tường kia hòng cấm. Có nhẽ cái tàu bò kia cũng vậy! Bố khỉ! Tôi không muốn gặp thằng Bướng lúc này... Mấy ngày rồi, tôi đã “nguội” đi.

Lừ lữ, hục hịch, cái tàu bò đi chật ngõ. Nó còn bành thêm vai với tay ra. Nó đã nghe tin tôi đi lùng nó, từ mấy ngày hôm trước. Bây giờ thì gặp đây. Nó định sửa tôi. Để cho tôi được: cầu sao được vậy!

— Xê ra! Tôi quát.

Nó không xê. Nó càng lắc lư, lùi lũi tiến đến. Tôi cũng không xê: một thanh sắt với một cái tàu bò lừng lững tiến đến nhau, trong ngõ Mễ Tây Cơ.

Chỉ còn mươi bước... Tôi hơi hốt cái hình thù con trâu sắt ấy. Nó thì coi tôi bằng ghém! Ý nghĩ ấy làm tôi tức, nóng bừng mặt.

— Xê ra, lần cuối cùng! Xê ra! Tôi quát, chỉ còn năm bước. Tôi không hốt nữa... ba bước... hai bước...

Bốp! Tôi thoi ra một quả đấm sắt. Cái tàu bò bật văng trở lại, đâm sầm vào thân tường vàng xỉn... Tóe ra đủ thứ tia lửa, tia điện xì xì, tia khói khét! Cùng lúc, cái tàu bò cũng đã húc tôi một húc sấm sét! Tôi văng trở lại, đánh sầm vào thân tường da cá sấu.

Quanh tôi, đất sập đỏ tím, vàng xanh, lò lửa ban trưa đốt pháo cây bông! Tôi không biết mình đau ở chỗ nào? Ở đấm tay, ở bả vai, ở hông... Ở cả thân tường! Hình như tôi đau cả ở cái ngã ba lóe nắng kia nữa! Thằng Bướng cũng bẹp rúm! Nó đau ở cả dãy nhà đàng xa kia! Hai đứa cứ mó quẩn mó quanh khắp chỗ, đầu gối, ngực, mạng sườn, rồi lại bò lê bò càng bấu vào đất... Nó ôm cái quai hàm vẹo, rúm ró, nửa mếu nửa khóc bảo tôi:

— Biết tay ông chưa?

Tôi cũng kềnh càng trên đất, ôm cái má sưng bầm, mếu máo bảo nó:

— Biết tay ông chưa?

Đứa nọ đều bật cười thay cho đứa kia! Nhưng mãi nửa giờ sau, chúng tôi mới cười được thành tiếng!

Xóm La Tinh, ba chúng tôi hay tới chơi... Dặt Dẹo, Gầy với Bướng đã thành một thứ bạn “con chấy cắn ba”. Xóm La Tinh có nhiều cái thú cho trẻ con. Nó cứ như một cái chợ. Bát nháo đèn, lửa, người, nhà cổ, cầu thang gãy, với các thứ ngõ khai khắm. Bọn chúng tôi chạy trong cái bát nháo ấy, làm nó bát nháo thêm. Rồng rắn, đi trốn đi tìm, chơi trinh thám. Đến nước không còn biết, giữa đám nhóc chúng tôi, với phố xá, người, đèn lửa kia, ai là thủ phạm chính của cái bát nháo xóm La Tinh?

* * *

Từ ngõ Mễ Tây Cơ, nếu rẽ về bên tay phải, rồi xiên qua một đống các ngõ ruột mèo khác, lác đác vài ngọn đèn lồng hiếm hoi, đi một quãng nữa, dần dần người ta có cảm giác lạc vào một thế giới khác. Im lặng. Cái im lặng nên thơ của phố Cổng Bắc. Nó thấm thía vào ta, thấm đến từng hạt tế bào. Người ta tự nhiên tiết ra được hết cái ồn ã của xóm La Tinh.

Ban tối, Cổng Bắc càng đẹp. Hàng ngàn hạt đèn tím lắc rắc trong lòng phố dài những tia nhỏ như mứt tím non, tím đặc, tím than, tím hoa cà... Cả một sự man mác thần tiên của tím đậm nhạt, màu chồng màu. Chúng tôi tìm tới nhà cụ kiến Mây. Chúng tôi nghe truyện cổ tích. Gió lá lào xào ngoài phố, với các tia sao. Mùa thu rồi. Căn phòng rộng, như một hội sảnh. Rộng mà ấm. Các tia sao lọc vào hội sảnh trong trong như thạch. Cụ Mây đứng giữa, một màu rám nắng quốc thước, râu dài, vừa kể vừa làm điệu bộ, hệt như đóng kịch. Cụ có những câu pha trò mặn mà. “Một Cây cù” theo danh từ của thằng Dặt Dẹo. Nó còn gọi cụ là “Cây già” nữa. Nó yêu cụ lắm. Tôi cũng yêu. Cả đám nhóc đều yêu... Chúng tôi vừa mới cười phá lên xong, bây giờ lại đang há hốc miệng, hồi hộp trên một sa mạc trắng, hiệp sĩ kiến Áo Đỏ của chúng tôi đang gặp cơn nguy: ngã vào cái bẫy của kiến Sư Tử! Chúng tôi nắm chặt quả đấm. Nghe đâu có tiếng dây đàn đứt. Hay đứa nào đứt mất dây thần kinh.

Huỵch, một thằng nhóc ngã văng ra sàn gác. “Đánh bỏ bố nó đi!” Nó bị một cú đấm của kiến Bướng. Đang cơn hồi hộp, thằng Bướng đã định cứu nguy cho hiệp sĩ kiến Đỏ!

Cụ Mây ngừng lại một chút, lại tiếp tục kể. Chúng tôi tiếp tục nghe. Còn thằng nhóc bị đấm, không ai để ý tới. Tai nạn ấy là thường. Lát sau, tôi đã thấy nó cùng ngồi nghe, cùng say sưa với chúng tôi... Ngoài trời, gió vẫn làm nhiệm vụ đìu hiu của nó. Cả một thế giới tím đang lặng lẽ vào thu. Lát nữa, nếu có cơn mưa khuya, bọn tôi sẽ ngủ lại ở hội sảnh. Trong khi tôi lo lắng về số phận của hiệp sĩ Áo Đỏ, bà Bệu ở nhà lại lo lắng về số phận của tôi... Cũng không sao! Đó, trên sa mạc trắng, hiệp sĩ Áo Đỏ của tôi đã tiếp tục lên đường. Lưỡi kiếm của anh còn dính máu đầu lâu kiến Sư Tử! Tôi tự cảm thấy lớn thêm lên một kinh nghiệm, một quả cảm, hoặc một sức lực gì đó, từ hiệp sĩ Áo Đỏ truyền sang tôi.

Làng tôi có rất nhiều “Cây-truyện!” Chúng tôi đi khắp lượt. Mỗi Cây-truyện đều có sở trường riêng. Như cụ kiến Heo, ở tầng hai mươi, buồng 1909 ấy! Ai kể chuyện trạng hay bằng cụ? Mỗi mùa cụ lại nghĩ thêm ra một món trạng mới, cho khẩu vị đám nhóc chúng tôi. Hoặc bác kiến Mù, nhà ở kề ngay Bãi Võ Cổ Loa. Đúng là một chuyên gia về các thứ hiệp sĩ tàn tật. Chẳng hạn “Tiểu hiệp khách Dế què”, “Nhạc sĩ Họa Mi chột”, “Con Voi điếc”, v.v... Chuyện con đại bàng gãy một cánh! Nó chảy máu mà vẫn cõng con nó qua chín mươi tư ngọn núi! Lại còn con nai ba chân! Ba mươi mốt người đi săn vây đuổi nó qua ba mươi mốt ngày, với ba mươi mốt con chó săn lanh lẹ nhất! Nó vẫn thoát! Nó chạy lanh như một tia sao. Cũng chỉ vì từ bé nó đã biết nó ba chân! Nó bèn lấy sự luyện tập nhẫn nại, thế vào cái chân thiếu!

Bản thân bác kiến Mù nữa! Bác cũng có thể liệt vào loại nhân vật cổ tích... Đi lại, làm việc, đánh vật, lại còn đấu võ thật là xô xát! Cứ như một tia chớp, còn nhanh hơn người sáng.

Đã có lần tôi thử, một lúc thôi, bắt chước bác kiến Mù. Tôi sờ soạng đi trên gác. Cộc đầu vào cổng, tôi cũng kệ, nhất định mù. Tới lúc trượt chân, ngã lăn sầm xuống thang gác đau quá, tôi mới đành mở mắt ra, ngồi xuýt xoa.

— Dại ôi, trần đời là dại! Bà Bệu quở tôi.

— Con làm mù...

— Ai đời lại đi ước cái khổ ấy vào thân! Ai cũng muốn sáng, chứ ai muốn tối! Thằng ngốc!

— Con thích làm mù...

— Khỉ con! Mày mà còn thích nữa, đã có roi.

Nhưng rồi tôi cũng chỉ thích làm mù có vài bận nữa thôi.

Quả là tôi giống một con khỉ con thật. Về sau tôi lại thích làm què. Rồi làm điếc! Bây giờ đây, tôi lại đang thích làm hiệp sĩ Áo Đỏ! Xông pha cái thân gầy gò vào các cuộc phiêu lưu, cứu khổ trừ gian. Tôi chưa hiểu hết mọi lời cụ Mây kể. Tôi cứ lục soát người tôi xem có giống hiệp sĩ Áo Đỏ hay không? Anh ấy có gươm. Tôi lại có cưa! Khác mất rồi! Tôi tảng lờ cái điểm ấy, vội vàng chạy làng sang mặt khác! Gầy! Tôi cũng gầy như hiệp sĩ Áo Đỏ. Rắn, tôi cũng chả thua! Gan góc, táo bạo, được cả! Vậy còn gì nữa? Sáng suốt? Sáng suốt là thế nào? À, lại còn bình tĩnh nữa! Tôi sẽ học bình tĩnh.

Tôi đi lại, cử động khoan thai. Bà Bệu gọi tôi dăm lần bảy lượt, tôi mới lừ đừ đi tới, mặt lạnh như tiền.

— Khỉ con! Mày giở chứng thế nào vậy?

— Con học... bình tĩnh!

— Bình tĩnh gì như cái thằng chết trôi thế?

— Kệ con!

Cụ Mây thì chuyên kể về kiến, phong tục, sự làm ăn của các giống, kẻ thù bên ngoài và bên trong! Ngoài ra, cụ Mây cũng hay kể về tổ tiên chúng tôi, với cuộc đại-di-cư qua sa mạc và thảo nguyên. Về mục này thì chả riêng mình cụ. Cả làng, ai cũng kể. Bà Bệu tôi cũng kể... Cụ Mây đã già hơn tất cả mọi người già. Vậy mà, ban ngày cụ vẫn đi làm. Mặc dù cụ đã quá hạn tuổi lao động từ lâu... Nhưng nghe đâu, đại hội làng đã phê bình cụ với một số cụ khác nữa. Làng sẽ cưỡng bức các cụ phải nghỉ ngơi! Ngay như cái món kể truyện cổ tích, làng cũng sẽ đặt thành quy chế hẳn hoi! Chỉ có bọn nhóc chúng tôi là phớt đều quyền lợi của các cụ.

* * *

Cụ Mây mãi mới tìm về được tới làng đấy chứ! Chả là sau một cuộc đánh cướp trên thảo nguyên, bọn kiến Đầu Beo bắt được của bên tôi mấy trăm tù binh. Chúng bắt về làm nô lệ. Chúng chia vụn số tù binh đó ra, dưới sự kìm kẹp gay gắt của chúng. Nhưng cũng bằng thừa! Sự đau khổ và căm thù của những kiếp nô lệ đó vẫn là một. Họ ngấm ngầm, tụm năm, tụm ba. Cho đến buổi đi khai thác rừng hôm ấy, họ nổi lên một cuộc đánh phá có tổ chức. Thế là sổng tù. Trừ một số đã bị chết trong cơ cực quãng ngày nô lệ, với số bị hy sinh trong cuộc nổi loạn giữa rừng... Tất cả còn được ngót ba trăm mạng: còm nhỏm còm nhom cả. Trời đã sẩm tối. Cụ kiến Bất Khuất cầm đầu đoàn sổng tù ốm yếu ấy. Họ trốn chạy theo kiểu một đoàn quân. Những kẻ mạnh sức nhất đi hậu vệ, sẵn sàng ghìm chậm bọn truy kích lại, hoặc đánh tan chúng, tùy theo điều kiện. Bộ phận hậu vệ đó khoảng sáu chục dũng sĩ. Còn thì lốc nhốc chạy trước: đàn bà, trẻ con, những kẻ yếu. Chả là các bà khi đi làm, đều phải mang trẻ đi. Chứ để ở nhà, ai trông? Lại còn bọn nhóc Đầu Beo chúng bắt nạt! Hơn nữa, cuộc nổi loạn đã có hẹn trước. Thành thử không sót lại một ai... Họ chạy suốt đêm, bíu dìu nhau mà chạy. Đêm tối là bạn của những kẻ sổng tù... Bọn truy kích tiến rất chậm, lò dò như sên, sợ bị chặn đánh. Mà chúng bị một trận đánh tan tành thật! Sáu chục dũng sĩ bên nô lệ đánh vỡ cả một đạo quân do dự của chúng năm trăm tên! Bên nô lệ bị thương có ba... Và chết một.

Sau một đêm thì đoàn tù sổng đã chạy khá xa. Có thánh truy kích cũng chả lại! Ba trăm sinh mạng đói khổ bắt đầu một cuộc chìm nổi khác... Đã hai mùa đông rồi! Biết đâu làng phương nào? Bốn phía toàn là thảo nguyên với những hiểm nghèo của nó. Những đám cướp. Những cơn rét và nắng... Đoàn tù sổng lênh đênh trên đồng cỏ. Họ trở thành một bộ tộc du mục bất đắc dĩ. Họ nhớ làng. Nhớ day dứt. Nhưng biết làng lênh đênh nơi đâu? Cứ như thế bốn mùa đông du mục: một đàn chim tìm một đàn chim...

Cuối cùng, họ cũng gặp được một nơi đất lành. Họ lập làng. Họ xây nhà. Tất cả còn non hai trăm mống. Họ vội vã sinh con nở cái. Đám con gái tự đến với con trai. Con trai thì khỏi phải bàn. Tổ tiên chúng tôi đã đẻ như một nhiệm vụ.

Quanh đó, cũng có hai cái làng con. Ba làng sống với nhau, thân thiện.

Cái làng rơi rụng nhỏ nhoi đó của chúng tôi cũng lớn dần lên. Đời cụ đời kỵ rồi đến đời ông. Ông sinh ra cha. Cha sinh con. Con sinh cháu. Cháu sinh chắt. Cứ thế, đến đời cụ Mây đã là đời thứ chín. Làng đã có tới non một nghìn đinh! Không một đời nào không bị đánh cướp. Mỗi đời ít nhất phải rời làng một lần. Lại vẫn cái bọn cướp kiến Đầu Beo! Có đời mất làng tới sáu lần. Được một nghìn đinh đã là quá may! Ôi làng còn phải cái nạn mất giống! Dù sao tới đời cụ Mây, thì cái làng lưu vong đó mới chính thức được gọi tên là làng Mận. Ôi chao! Sự sung sướng có được một cái làng, ra cái làng! Nó bảo vệ ta khỏi khổ nhục của kiếp bơ vơ, của kiếp nô lệ! Thế là bộ phận lưu vong nhập về với sự đầm ấm của nòi giống. Chúng tôi qua chín đời còn nhận được mặt nhau. Kiến Lửa! Nòi giống kiến người chúng tôi đó! Cũng không phải riêng một bộ phận cụ Mây ấy! Cuộc đại di cư của chúng tôi rơi rụng lại nhiều bộ phận khác, nhỏ hơn! Có bộ phận đã về sớm hơn, hai ba đời trước. Có bộ phận về sau. Có bộ phận nào chưa về không? Điều ấy, ai mà rõ được? Cuộc đại di cư chúng tôi đi: bảy vạn rưỡi. Tới nơi đây, còn một dúm: ba nghìn! Tại sao đại di cư? Cũng vẫn tại chỉ vì bọn cướp: kiến Đầu Beo!

Mỗi lần có một bộ phận về, làng Mận lại mở hội. Sự sáp nhập diễn ra trong không khí hát xướng, hò hét. Có bà chảy nước mắt. Đám trai gái thì có những cái thú khác của họ, hơn là khóc... Lương thực đổ vào kho chung. Các hạt trứng, với kén nằm chung trong các vườn trẻ... Người ta chia nhau nhà ở, chờ đợi xây thêm nhà... Hôm sau người ta đã ra cả hiện trường làm chung.

Tình đoàn kết thấm thía vậy, vẫn không ngăn nổi những xích mích vụn vặt. Dân cũ, dân mới, hai cái tên tai hại ấy tự dưng mọc lên, từ những sự khác nhau trong tập quán làm ăn, chơi bời... Bao nhiêu đời, bao nhiêu pha tạp rồi còn gì! Cứ như sáp nhập hai dân tộc! Cụ kiến Mây hồi ấy đang trai. Cụ làm bằng bốn người và ve gái bằng tám người. Thế đâm ra tị hiềm với một vài anh làng Mận. Xích mích cá nhân, mà lại mang màu sắc xích mích bộ phận: dân cũ nó đánh dân mới! Làng cứ đổ bồ hôi mà giải quyết các vụ. Khó nhất là thói quen làm ăn. Dân mới thạo trồng cây và chăn nuôi, chẳng hạn. Họ vấp phải dân cũ thạo chế biến mật từ những nguyên liệu khai thác đại quy mô... Nhưng rồi tình đoàn kết trên quyền lợi chung, bao giờ nó cũng đủ sáng kiến đằm thắm để giải quyết mọi xung đột! Làng Mận chóng lớn lên một phần cũng là nhờ ở các cuộc xung đột ấy! Có thể nói một làng bách nghệ, với một nền đại kỹ nghệ chế biến mật!

Bây giờ ba chúng tôi, Bướng, Dặt Dẹo, với Gầy, đang quay về nhà. Chúng tôi đi trong màn tím sang thu của đường Cổng Bắc. Đứa nào cũng cứ như vừa mới uống rượu xong. Cái cảm giác say sưa một đêm lùi về cổ tích!

— Quấy nhỉ!

— Cái gì quấy?

— Cây già ấy!

— Nhưng mà tao không thích Cây già cứ hay dài dòng giáo dục!

— Chỉ có cụ kiến Heo là nhộn nhất! Đấy mới chính là Cây cù!

— Nhưng mà cứ cù mãi cũng chán.

— Mày thì có trời cũng chả chiều được mày.

Trời mới đổ xuống một trận mưa nhanh cơn. Đường ướt. Tia sao đọng lại nhễ nhại từng vũng. Quá khuya rồi. Rầm rập đi qua ngã tư, một tốp tuần cảnh. Xóm La Tinh im lìm. Một thứ im lìm đen sì. Ngõ Mễ Tây Cơ nằm thẳng đờ, như một xác chết. Lại một tốp tuần cảnh khác, vũ khí tuốt trần. Không khí có cái gì khác thường, gay gay...