← Quay lại trang sách

TẠM BIỆT ẤU THƠ

Đáng lý hôm nay tôi được đi chăn gia súc! Mở đầu buổi lao động đầu tiên trong cuộc đời kiến người của tôi. Tức là tôi bắt đầu làm lụng chăm chỉ! Nhưng bỗng dưng, có lệnh hoãn lại. Vì sao?

Tôi chạy thốc tháo đi tìm Dặt Dẹo với Bướng. Chúng nó cũng bị hoãn, và cũng đang bực bội. Chưa ai kịp giải thích cho cả ba. Từ sớm tinh mơ, lũ chúng tôi đã dậy, đứa nào đi ra trại gia súc của đứa nấy, đã được chỉ định trước. Tới đó trời còn tối. Chờ mãi mới rạng đông. Trại gia súc mở cổng. Đứa nào cũng nhận được một câu gọn lỏn:

— Có lệnh hoãn!

— Vì sao?

— Không biết!

Thằng Bướng mới phản ứng tợn:

— Tại sao lại không biết?

— Gớm nhỉ!

— Chả phải gớm ghê gì sất! Bướng vung tay ra. Có lệnh thì phải có giải thích!

— Thôi đi ông mãnh! Có thứ lệnh có giải thích! Mà cũng có thứ lệnh không giải thích!

— Đừng có mà bịa!

— Tao thèm bia. Hỉ mũi chưa sạch, mày đã biết gì?

Thằng Bướng hục hặc đi. Nó gặp tôi với Dặt Dẹo ở ngã tư phố Hy Lạp. Mặt nó đỏ hầm hầm, trông như một cái chậu tiết tươi:

— Tao đi kiện đây!

— Bình tĩnh! Tôi can nó.

— Bình tĩnh cái củ thìu... Tao lên Thường trực làng. Tao kiện.

Tôi nghĩ ba tích tắc. Sự bình tĩnh của tôi cũng không tìm ra giải pháp nào hơn sự nóng nảy của nó:

— Ừ, đi! Nhưng mày phải bình tĩnh lại.

Ba thằng kéo đi trong các phố xá vắng lặng, vì là giờ làm việc. Nhưng lại nhiều tuần cảnh hơn ngày thường. Hơn nữa có nhiều tốp vác búa chim, xẻng, cuốc láo nháo đi về cổng làng từ các phía... Không khí có những điều gì bí mật, căng thẳng.

Bọn tôi háo đi chăn gia súc là phải! Chả cứ chăn gia súc! Bất cứ việc gì, miễn là ra được khỏi cổng làng... Trở về trước, chúng tôi đều bị tù cẳng trong làng. May mà còn được một cái làng to! Một cái làng cổ, và đẹp nữa! Chả là lệ làng cấm tiệt: trẻ con không được ra khỏi làng một bước! Làng cũng có lý của làng! Chúng tôi còn bé. Mà ngoài kia gió máy! Cái nắng, cái mưa nó không biết bảo vệ trẻ con! Nó phải làm phận sự nắng mưa của nó! Vả lại còn nhiều hiểm nghèo khác nữa... Các bà Cóc! Các ông kiến Sư Tử!

Bò qua các trạm gác không phải dễ. Một lần tôi đã lẩn vào đám gia súc. Các bác chăn thả sơ ý lùa đàn gia súc ra Cổng Đông. Thoát rồi! Một sự mông mênh lóe sáng xanh xanh! Xanh da trời... Xanh lá cây... Tôi chưa kịp hiểu cái đống lù lù trước mặt tôi kia là đống gì.

— Ông mãnh! Một tiếng quát bằng sấm.

Một bàn tay to xù nhấc tôi ra khỏi đám gia súc, như nhấc một cái lông.

— Đau cháu! Bác kiến Rỗ!

— Đau với đớn gì! Gớm! Mưu với mẹo của ông kiến Gầy! Có gan ăn cắp, có gan chịu đòn!

— Cháu xin lỗi bác!

— Tôi không dám! Đã có cái roi đây! Mời ông xin lỗi nó!

— Vâng ạ. Roi ạ. Tôi xin lỗi roi ạ...

Bác kiến Rỗ cười như sấm rền... Xong, bác đã nghiêm mặt lại. Bác không quát mà tôi cứ ù đặc cả tai!

— Lần sau thì đừng có hòng tao tha! Vào ngay!

— Bác cho cháu đứng ở chỗ trạm gác này vậy.

— Vào!

— Một tí thôi.

— Và... ào!

— Hắc thế?

Tôi ù té chạy, sợ bác đuổi đánh. Được một quãng xa, tôi mới ngoái cổ lại: bác kiến Rỗ đang giơ lưỡi búa lên dọa tôi, mà miệng lại cười. Trông như một ông Thiên Lôi giơ lưỡi tầm sét! Bác cười nguếch ra, miệng sồ sề bằng cái rổ. Đó là một bác kiến đầu to. Đúng là một cái bồ, chứ không phải đầu nữa! Bác kiến Rỗ phụ trách tiểu đội gác Cổng Đông. Mới trông, bác có vẻ dữ tướng. Mặt bác váng lại từng vầng. Nhưng khi bác cười, bác giống hệt một đứa bé lên ba. Tính bác lành. Thường thường, đến phiên bác gác, bác cứ nằm dài ra, lấy cái đầu to tướng lấp kín cả cổng làng. Không còn một khe hở nhỏ! Một hạt bụi cũng khó lòng lọt qua. Đó là lối gác cổng chắc chắn nhất của tất cả các bác kiến đầu to. Ai ở ngoài về làng, cứ việc gõ vào cái đầu ấy. Cứ như gõ vào một cánh cổng lim! Rắn ôi là rắn! Có một lần, bác ngủ quên, các bác thợ đi làm về, lấy búa mà quai vào cái đầu lấp cổng ấy. Ba bác thợ vạm vỡ thay phiên nhau quai! Nửa giờ sau, cái đầu lim ấy mới tỉnh dậy.

— Vì tôi nghe thấy có cái gì buồn buồn ở thóp!

Ba chúng tôi đã tới thị sảnh. Một tòa nhà rộng, màu sành. Trông nó rắn, mộc mạc và mát. Các chú liên lạc chạy hối hả, đỏ ối cả sân. Thị sảnh không cần lính gác. Ra vào tự do.

— Tôi nhận khuyết điểm với các chú. Bác kiến Bay niềm nở tiếp chúng tôi. Trong bác cứ như bằng đồng hun. Bây giờ các chú yêu cầu gì? Giải thích phỏng? Các chú ngồi đây... Chả là đêm hôm qua, trinh sát ta báo là chiến tranh đã nổ ra ở mạn núi Đá Xám! Bọn kiến Đầu Beo kéo tới một vạn quân...

— Một vạn? Tôi mất bình tĩnh. Chiến tranh! Kiến Đầu Beo! Một cái tin đột ngột... Một vạn lấy gì làm nhiều?

— Ấy là tin tức đầu tiên. Tình hình như thế, chắc các chú hiểu lý do cái lệnh hoãn rồi chứ gì?

— Hai việc bận gì đến nhau mà hoãn? Bướng vặn.

— Bận chứ! Nhỡ các chú bị đột kích thình lình, thì sao?

— Thế kiến Đầu Beo nó có nể các bác chăn gia súc lớn không, bác kiến Bay? Tôi tiếp ứng cho Bướng.

— Các bác ấy có cách đối phó nếu không bị vướng các chú nhỏ. Bác kiến Bay đáp bình tĩnh.

Tôi bị cuống bởi vẻ bình tĩnh ấy. Cả Bướng nữa. Dặt Dẹo tấn công:

— Nếu vậy sẽ hoãn đến bao giờ?

— Đến khi nào có thể thôi.

— Nhỡ chiến tranh kéo dài thì sao, bác Bay? Chúng tôi chết già à? Có thể...

— Các chú khỏi phải lo. Kéo dài thì lại là bình thường hóa! Vả lại ta cũng chả cần đợi đến nước kéo dài. Cốt là ta nắm vững được tình hình bọn cướp ấy, mọi việc sẽ tiến hành như thường. Các chú bằng lòng rồi chứ?

Chúng tôi cũng đành phải bằng lòng. Khách quan nhiều khi có sức vô địch! Và buộc tất cả phải bằng lòng.

— Nội trong ba ngày, làng sẽ giải quyết công việc cho các chú. Bằng cách này, cách khác. Tôi hứa chắc như vậy. Thế nào? Đồng ý không? Cười à? Hả rồi chứ? Nếu vậy các chú kéo nhau ra bãi Cổ Loa mà chơi! Có đấu võ đấy! Từ giờ đến khi có lệnh mới, bất kể ngày đêm, lúc nào cũng có đấu võ ngoài bãi Cổ Loa đấy...

Khoan khoái! Trong phố, có ba thằng khoan khoái... Không được đi mà lại khoái! Một ông thường trực làng mà ăn nói với chúng tôi, lễ phép như thể với người lớn! Vả lại chiến tranh! Chúng tôi mới chỉ thấy mỗi cái mặt hùng ca của trò man rợ ấy!

— Tao sẽ làm liên lạc mặt trận!

— Tao sẽ chiến đấu hẳn hoi.

— Bé vậy ai cho mày chiến?

— Tao cho tao là được... Cứ việc xông bừa ra.

— Phải đấy!

— Cứ ba chúng mình hợp làm một. Sợ đếch gì thằng nào?

Chúng tôi vừa đi vừa xây với nhau những chương trình anh hùng. Tỉ mỉ cả kế hoạch, động tác chiến đấu! Ba thằng đánh một, cứ thế, cứ thế! Thằng Bướng, mày kém hợp đồng động tác! Cũng không ngại! Ba thằng mình đều khỏe, nhanh, bạo. Chúng tôi đi dọc phố Nấm. Phố che dù, che lọng cho chúng tôi... Bốp! Chát! Cứ thế, cứ thế! Thằng Bướng hay hở đít quá! Vì nó cứ húc lên một mình! Chát! Phố vắng... Chúng tôi múa quần thảo từ đầu tới cuối phố. Các thứ miếng múa võ... Đến nỗi cái thân cây hôm ấy, có đến vài chục cây bị thương với chúng tôi! Mãi đến lúc tôi bị một cú đấm tối sầm mặt mũi! Không biết đứa nào hợp đồng động tác khéo thế? Ngã tư rồi. Nghe chí chát tiếng vũ khí chạm nhau đằng xa. Chiến tranh thế này thì vui hơn ngày thường. Bãi Võ hiện ra, khổng lồ, xoáy trôn ốc, đỏ hung hung...

* * *

Xưởng sữa, xưởng mật. Tất cả các xưởng, các công trường đều bớt kiến người. Nam nữ xách vũ khí đổ ùa ra Bãi Võ. Lát nữa họ lại về làm việc. Tốp khác lại ra bãi. Làng tôi tất cả đều vừa là thợ, vừa là lính. Vũ khí của chúng tôi rất đặc biệt. Các sách khoa học gọi là răng: hai cái răng như hai cái càng, to nghều. Đúng là răng thật. Nhưng đồng thời là vũ khí, khi chiến đấu. Đồng thời là dụng cụ khi làm việc. Không ai giống ai. Làng tôi toàn dân lao động. Chúng tôi sinh ra, với những khí quan lao động: bay thợ nề, xẻng, cuốc, chạc sắt, cưa, rìu, búa! Không ai có gươm. Bọn kiến Đầu Beo thì lại khác. Chúng đã chuyên sống bằng cướp bóc, bắt nô lệ, từ lâu. Tính di truyền dần dần biến khí quan của chúng thành gươm! Toàn là gươm! Rất hiếm đứa còn na ná một cái liềm hái, một cái kéo xén cây! Khổ thân đời chúng! Kè kè một đôi gươm thì còn làm được nghề ngỗng gì nữa?

Tôi thì có một bộ cưa. Hình thù tối tân, sử dụng rất tiện lợi. Sống cưa thì dày, rắn câng, có thể gạt mã tấu. Lưỡi lại sắc lẹm như dao bào. Có nhẽ tôi nở đúng thợ cưa, nên bà Bệu yêu tôi hơn trẻ khác. Bà đi khoe với làng: “Thằng Gầy, rồi các bác xem! Tôi chưa thấy bộ cưa nào tối tân như của nó! Bác Thợ Nhất làng ta rồi đừng hòng nhất với nó nữa nhé!” Nhưng tôi chưa nghĩ tới cái nhất ấy. Tôi thèm đôi búa của thằng Bướng. Một đôi búa tạ. Đi đôi với thân hình tàu bò của nó mới đẹp chứ! Còn thằng Dặt Dẹo? Nó sử dụng một đôi mai đào thon thon, lúc nào cũng bóng, dài, rất lợi: Có thể đánh xa! Hèn gì thằng Bướng cứ phải lăn xả vào! Giáp lá cà thì búa nó tung hoành, bằng sấm đổ!

Cố nhiên vũ khí chúng tôi là vật bất ly thân. Khí quan thiên nhiên mà lại! Bình thuốc độc cũng kè kè trong người. Lại còn các đồ dùng cá nhân khác nữa: tất cả đều dính liền với thân thể. Bàn chải thì giắt ở chân. Bình đựng các thức ăn, đó là: cái diều. Chúng tôi ăn những thức ăn đặc, như các thứ hạt, thịt, hoa quả... Và thức ăn lỏng: mật, nhụy, sữa, ê-te. Bà con cứ việc đem bình của mình tới các quán mật, các quán sữa công cộng. Các cô phục vụ rót mật với sữa từ bình của các cô sang cho. Lại còn các cô khác, ặc è bình mật đầy, đi rong các phố. Một sự cung cấp đến tận nhà! Chúng tôi có cả kỹ nghệ chế biến thức ăn. Tất cả chúng tôi làm việc cho làng, tận sức. Chúng tôi ăn uống thả cửa.

Trai gái tuốt binh khí đỏ ối cả Bãi Võ. Những anh khỏe nhất được chọn làm: địch! Mỗi thằng địch quần thảo với một đám. Chiến thuật thông dụng của chúng tôi là: ba chọi một! Giữa các tổ ba người, lại cũng có liên hệ, ỷ giốc với nhau. Tức là một chiến thuật ăn chắc. Và rất quần chúng: bất kể yếu khỏe, trẻ già, nam nữ, ai cũng có thể chiến đấu được, không sót một lực lượng nhỏ! Đó, ba chị công nhân xưởng sữa khu Nhà Lá đang kẻ trước người sau, vây đánh anh Vẩu! Anh ta vào loại lực sĩ poa-lua 3 ! Đôi lưỡi rìu anh ta to, nặng, quay tròn như cái tán. Cũng chả lại. Một chị đâm chạc sắt ở đàng trước, một chị thúc lưỡi liềm bên sườn. Đét, chị thứ ba đã lấy mặt bản lưỡi hái, phát vào mông anh ta: “Chết rồi nhé!” Anh Vẩu cười như một cái mái hiên: “Bêu bều! Đánh đàng đít! Bêu!” Chị kia đỏ cả mặt, nguây nguẩy chạy đi: “Em không chơi nữa! Cứ dứ! Em không chơi nữa!”...

Kìm, lắc-lê 4 , bồ cào, đao dựa, xà beng, búa, láo nháo hàng cây số. Vũ khí của dân lao động, có bà ì ạch vác cả đôi đũa cả khuấy sữa ra trường đấu. Đó là bà Hồ Lô. Gọi là đũa cả! Cứ như một đôi bơi chèo. Bà ta phạt một cái, đủ để đứt ngang lưng... Đấy, bà ấy cứ đòi làm địch chứ! Để được: một chơi ba! Trông bà ấy thế kia, những mỡ là mỡ, ai ngờ? Ba anh thanh niên bở hơi tai quần một cái Hồ Lô!

Bác kiến Đô là khiếp nhất. Một mình bác chọi chín thanh niên nam nữ! Hai cái lắc-lê to xù của bác lợi hại thật. Có lúc bác quặp trong lắc-lê, binh khí của cả ba anh. Huýp! Bác lẳng một cái, cả ba ngã quay lơ. Không khéo mà chém phải nhau! Bác đỡ đàng trước, gạt đằng sau, chân đá cũng hiểm hóc. Đá toàn vào huyệt cả! “Chết rồi nhé!” Một anh ra. Anh khác nhảy bổ vào thế chỗ ngay: vẫn đủ chín người! Suốt một giờ bác không bị lấy một vết thương. Mà bên ta “chết” mất sáu! Trông bác cứ như tướng La Hán. Đỏ sẫm, vạm vỡ, bác đánh đỡ, nhẹ như chơi. Hai cái lắc-lê ấy thì cứ phải gặp lưỡi búa bác kiến Rỗ! Thế họ mới hả sức! Tôi đã có lần thấy bác kiến Rỗ đấu với mười sáu thanh niên. Bác cứ gạt một cái, đủ bắn tít xa hai người... Chúng tôi đi trong tiếng loảng xoảng của trường đấu. Đứa nào cũng ngứa ngáy cả chân tay. Quẩn quanh thế nào, bỗng lại tới chỗ anh Vẩu.

— Xê ra! Các bố nhóc!

Đó là keo thứ ba của anh. Cô công nhân xấu hổ khi nãy, vẫn ngồi kia, dỗi. Chả ai có thì giờ dỗ cô ta. Hai chị, đánh với anh Vẩu. Anh chàng coi thường, cái kiểu: “Tôi huấn luyện cho các cô!” Lát cái, anh lại bẹo má được một cô. Lát cái anh lại nói: “Hở nách!” Các chị cứ bị bế xốc lên, kêu í a í ới.

— Xê ra! Các bố nhóc!

Thằng Bướng gai cả mắt: “Này! Xê ra này!” Nó húc có một cái, một tay búa gạt bỗng lưỡi rìu của anh Vẩu, một búa nữa đặt ngang đúng ức anh ta: “Chết rồi nhé!”

Cô công nhân dỗi ngồi kia khoái trí, thét rú như còi: “Hoan hô! Hoan hô!” Anh Vẩu đỏ dừ mặt, xông vào thằng Bướng. Tôi với Dặt Dẹo ra hiệu cho nhau: “Vào!”

Choang choang, tôi với Dặt Dẹo bổ luôn hai nhát cưa với mai, lưỡi rìu anh Vẩu mắc bận, thì thằng tàu bò đã húc xả vào, lần này đặt cả hai búa vào ngực anh. “Chết hai lần!” Các chị công nhân vừa thét vừa nhảy như choi choi. Một số chị khác với các anh khác ở gần đó, đâm chú ý cuộc đấu của chúng tôi. Tự ái rỏ từ hàm răng của anh Vẩu ra một thứ dãi sủi bọt. “Hừ...ừm!” Anh ta lồng lên.

Lưỡi rìu bổ xuống đầu thằng Bướng. Nó chập cả hai búa gạt xốc lên: chát! Một cơn mưa tia lửa! Anh Vẩu văng ra một bên. Cái tàu bò văng ra một bên. Nhanh như chớp, tôi đặt lưỡi cưa vào cổ anh Vẩu: “Chết ba lần nhé!”

Ba con hổ đực cũng không thể nào lồng lên bằng một mình anh Vẩu lúc bấy giờ. Đánh nhau mà nóng, chỉ tổ rước lấy cái thua. Tôi dùng đôi cưa kiềm chế anh rất dễ dàng. Còn đôi mai Dặt Dẹo cứ xoèn xoẹt bên thái dương anh chàng, làm anh ta phát rợn. Đôi búa của cái tàu bò nữa! Chùy đồng đấy! Xong chúng tôi không có đánh “chết” anh Vẩu thêm nữa làm gì. Quá tam ba bận rồi! Trai gái xô cả đến can. Cũng phải! Sát khí đã bốc lên, xám đen một góc Bãi Võ.

— Hôm nay mình thế nào ấy! Anh Vẩu nói, chữa thẹn.

— Tối qua lại mò đi đâu chứ gì? Anh Hiếng bạn thân của anh, gỡ thêm cho anh. Một cái cọc cho người chết đuối!

— Cũng có... Hí hí...

Cô công nhân dỗi ngồi đó, nguýt một cái nguýt dài bảy mét:

— Cái làng này ai người ta thèm. Báu lắm!

Anh Vẩu chìa cái mồm ra cười hề hề: thế là cô công nhân ấy bỗng dưng ngồi gọn lỏn dưới một cái mái hiên.

— Đó, cô xem! Cái làng này chỉ báu tôi mỗi cái mái hiên này! Đi chơi với tôi, chả sợ mưa!

— Phải gió cái anh này! Cô Thẹn ẩy anh ra. Cô công nhân hay dỗi ấy tên là Thẹn.

Ba bốn cô phục vụ Bãi Võ, đem bình sữa tới, rót cho các chiến binh.

— Ba ông bé hạt tiêu đâu rồi! Ra đây người ta cũng kênh nào! Anh Vẩu tìm quanh. Đâu rồi?

Chúng tôi đã nháy nhau, chuồn. Thế mới thượng võ chứ, phải không? Để anh Vẩu một mình, anh có thể dễ dàng tự bào chữa. Thậm chí khuếch lác. Nhưng anh Vẩu đã không hề khuếch lác một lời. Tính anh bộc tuệch, dễ quên.

* * *

Huỳnh huỵch, một đàn gia súc đi trong tinh mơ phố tôi. Tôi quay đầu vào tường, định ngủ lại. Nhưng có cái gì vương vướng trong dạ. À, phải, chiến tranh! Tôi quay ra cửa sổ. Một bình minh mát, xanh nhờ nhờ, đang nhả tơ trên cái làng cổ. Tôi ngỏm dậy, vươn vai. Ước gì vươn vai mà lớn được! Chưa lúc nào tôi muốn lớn mau như sáng hôm nay. Từ tầng cao tôi dòm xuống phố. Vẫn vẻ lem luốc trữ tình của mọi buổi sớm đi làm. Lem luốc mà sạch. Chưa có hạt bụi nào. Không khí trong trong như thạch. Nếu không có một tốp người đang sửa lại công sự ở góc phố, suýt nữa tôi quên: đang có chiến tranh!

Thong dong, ba cô hàng sữa tới phố. Họ đem sữa tươi đến rót từng nhà. Chả đợi họ, tôi đảm bổ xuống. Tôi uống sữa mát ngay trong lòng phố mát... Dòng người đi làm đã vãn. Phố sớm tông tênh. Tôi súc miệng mấy ngụm sương.

— Ối làng nước ôi! Tiếng bà Bệu kêu trên gác. Nghe như ở phòng trẻ. Một tiếng kêu thất thanh!

Tôi ba chân bốn cẳng nhảy lên cầu thang. Ba bậc một. Trên kia vẫn những tiếng kêu thất thanh. Những tiếng kêu lọt thỏm trong lòng thang gác, dài, hẹp, lượn vòng... Tôi chỉ còn thiếu một nước bay. Một vòng lượn... Hai vòng... Bỗng, đó, một hình thù cổ quái đứng ở đầu vòng lượn thứ hai cầu thang: lùn, xõa tóc, mồm đỏ lòm! Một tay nó ôm một ấu trùng kiến, một tay nó giơ ra đen sì, nhọn móng dọa tôi. Tôi xốc thắng lên. Một nhát cưa, đầu nó văng ra, nhe răng, be bét máu. Tôi ôm lấy ấu trùng: em bé tái xanh tái tử, khóc lặng đi. Tôi đã lại bay lên, em bé ôm tay. Trên kia có tiếng xô xát, tiếng chân chạy đổ sàn... Chúng tới cướp vườn trẻ rồi. Các ấu trùng khóc như ri...

Tôi thét lên một tiếng: “Con đây!” Cả một sảnh đường máu. Bảo mẫu tôi đang tử chiến với một đống quỷ lùn! Ba... bảy... mười một... Bảo mẫu tôi chém đứa ở đàng Đông, đàng Tây đã có đứa vớ lấy một ấu trùng, bỏ vào mồm nhai ráu. Bảo mẫu tôi chậm chạp, xoay tròn mà kêu. Thấy tôi, bà rú lên: “Con ôi!”... Bà chưa kịp kêu hết tiếng, tôi đã cưa rụng ba cái đầu xõa tóc. Bà mừng quá, đôi dao be bé của bà phóng ra một cái, đâm trúng ngực một con quỷ! Từ nãy, bà chưa giết được đứa nào. Tôi nhanh bằng tất cả mười lăm, mười bảy con quỷ lùn kia cộng lại. Chúng chỉ có răng nanh và móng vuốt. Đứa nào tới được bên tôi mà răng với móng! Tôi chém một thôi, năm cái đầu xõa tóc đỏ lòm nữa. Bảo mẫu của tôi vững trí giết thêm được hai đứa. Chúng dạt cả lại, đổ xô ra cửa, giẫm lên nhau, chí chóe. Tôi đuổi theo.

Tôi chém chết hai đứa nữa, trước khi chúng tụt xuống thang gác. Tôi đuổi. Chúng chạy nhanh như kẻ tháo chết. Hút một cái, cả lũ đã đổ xuống phố, chui thỏm vào một cái lỗ. Lỗ bé quá. Một phần mười cái thân gầy của tôi cũng không chui xuống lọt. Phố vắng... Các bác sửa công sự đã đi. Nhà vắng...

Bộ cưa của tôi lần đầu nhuốm máu. Thang gác vắng. Tôi đi lên. Với một bộ cưa nhuốm máu lần đầu. Tanh như máu cá. Những xác chết lùn, những đầu lâu to xõa tóc nằm rải rác cầu thang, sàn gác. Bảo mẫu của tôi khóc trong sảnh đường máu... Ấu trùng cũng khóc như ri...

Ở lâu đài tím, cô nữ Chúa ngất trong cơn hoảng loạn khủng khiếp! Tai nạn đổ ập xuống lâu đài cũng thình lình như ở phố tôi. Không ai đoán trước nổi... Như thường lệ, cô nữ Chúa một mình quặn đau trong phòng. Cái lệ, tuyệt đối không được ai vào trong lúc nữ Chúa sinh hạ. Ngoài kia, đoàn dũng sĩ canh gác, đi lại bình thản. Từ chòi tháp tới thềm đá, chỗ nào cũng có con mắt và binh khí. Sương sớm còn đọng lòng phố, các vách tường, vòm mái. Trước cổng lâu đài, có đến ba chục bà bảo mẫu xếp hàng dài, im phăng phắc. Một sớm tinh mơ hồi hộp. Một dòng người dài, cái dài vô tận của đợi chờ...

Làng Mận mường tượng muôn vẻ cái đau xé ruột của cô kiến Chúa kiêu hãnh. Thân ngà thon mảnh... Cái tim tím của cấm cung... Lứa trứng mẩy, chắc, hây hây... Chưa một lần nào nghe thấy cô thét dù chỉ một tiếng! Chưa ai thấy cô rên! Sau giây phút sinh nở thiêng liêng, người ta chỉ thấy trên bộ mặt trái xoan của cô, một nụ cười gượng, đau đớn, man mác... Nhưng lần này, cấm cung vọng ra một tiếng thét rùng rợn! Bốn dũng sĩ chồm vào: một cái thân nõn ngất trên bàn ngày đầu tóc xõa xuống! Một cảnh địa ngục: bọn quỷ lùn láo nháo tứ phía, mồm đỏ lòm, nhai trứng, đập vỡ nhoe nhoét, lại còn lấy trứng ném nhau.

Làng Mận đánh giết bọn quỷ lùn không khó. Không đến ba tích tắc. Những đứa hút chết lần chui xuống những cái lỗ nhỏ, lỗ chỗ ngay trên mặt sàn cấm cung... Một bọn quỷ độn thổ! Chúng xuất hiện và tẩu thoát bằng những thứ tu-nen lỗ chuột! Để lại những xác lùn, những đầu lâu mồm đỏ, và cả một gian buồng bầy nhầy trứng chết! Cả làng để tang cái buổi tinh mơ hôm ấy! Lúa trứng ở lâu đài tím, những ấu trùng ở các vườn trẻ, khắp làng... Thôi thế! Chỉ một sớm mai, làng Mận đã tổn thất cả một thế hệ! Mà lại vào giữa lúc này! Một tai họa bỗng dưng...

Bãi Võ nghỉ, vắng ngắt, đỏ hung hung... Một số xưởng đóng cửa... Các công trường xa cũng sẽ bớt bà con về làng... Cả một cái làng bị thương xáo đảo lên, săn bắt quỷ lùn. Thế mà ban nãy, tôi ngỡ một cuộc đột nhập phá phách của kiến Đầu Beo! Không phải! Làng Mận gọi lũ quỷ này là quỷ Lùn! Hoặc quỷ Mồm Đỏ! Làng Mận phải đào xới tất cả các tầng, để giết chúng trong hang, ngoài hang. Phải tìm bắt từng hạt trứng của chúng! Một cuộc tổng càn quét. Một cuộc tổng tẩy uế cái thành phố ngầm mông mênh trên mười vạn dân...

Bọn nhóc chúng tôi đi lẫn với các tốp người lớn. Phố xá be bét ra. Từng đống xác quỷ lùn bề bộn khắp mọi nẻo đường. Làng Mận phải khiêng chúng vứt đi thật xa, thật xa, giữa rừng... Tôi nghe người lớn nói chuyện. Tôi hỏi... Người lớn thì đào đất. Lũ nhóc chúng tôi thì rình. Cả làng săn bắt chúng, cơ man.

“Chiều hôm nay, các đàn gia súc về, phải xem xét cẩn thận, trước khi lùa vào làng!” Đó là một cái lệnh của bác Bay. Bác đào đất với bà con. Nhiều lúc, bác lại ngừng mũi xẻng để phái liên lạc mang đi những mệnh lệnh cần thiết. Người bác lấm từ đầu chí chân. Màu đất xoa lên màu đồng hun người bác, những vật nâu sẫm, nâu non, vàng đen. Bác vừa làm vừa suy ngẫm... “Bọn quỷ Mồm Đỏ ấy đã đẻ trứng vào đàn gia súc ngoài làng. Đàn gia súc bỗng dưng thành những chiếc xe vận tải, đưa những mầm sống quái ác đó về chuồng trong làng. Chúng đã nở thành cả một cái làng quỷ Lùn, đào hang, sống lân với dân làng Mận... Đã tới bốn đời nay, mới lại thấy tái hiện vậy...”

“Tất cả các khu có vườn trẻ phải tổ chức canh gác! Không để hớ hênh như trước nữa, cho tới khi có lệnh mới!” Bốn chú bé liên lạc lại mang đi các tầng phố, một cái lệnh nóng hổi, tại trận. Bác Bay lại hì hục đào. Dụng cụ của bác đối xẻng to như miệng cái máy xúc. Bác ấn xuống, ngọt như sắn bở. Mỗi xẻng bác xén lên, bằng ba bằng bày những xẻng khác, kiểu cổ lỗ sĩ. “Cứ xem đường tu-nen của chúng thì rõ! Bọn này mới nở cả thôi.” Bác Bay bàn tán với dân làng Mận...

Cái bọn quỷ Mồm Đỏ ấy! Các bạn thử tưởng tượng, sống chung trong thành phố của các bạn, một bọn lùn, lông lá, đứng đến đầu gối các bạn! Thoắt cái chúng hiện đến! Thoắt cái biến! Các bạn đi làm về, các bạn mở cửa buồng: một thằng lùn mồm đỏ đang nhai sống đứa con be bé của các bạn! Thế đó, đau thương và căm giận của bà con làng Mận! Dân làng Mận đang lo mất không một thế hệ! Đó đây đã nghe lác đác tiếng các cô kiến bàn mảnh với nhau: phải đến nước cố đẻ bù vào, khi làng chưa có nữ Chúa mới!

Cuộc săn bắt kéo tới đêm khuya, không nghỉ. Đa số bà con không ngừng lại để ăn lấy sức nữa. Loài kiến người chúng tôi bẩm sinh đã có cái sức làm như thế.

Đêm xuống như cái vung úp. Tôi trở về nhà. Tôi xuyên qua phố Gầm Cầu. Bóng tối dày đặc, đó đây nheo nhóc mấy tia sao. Tôi đi bước một, bước một rã rời. Cả ngày tôi làm việc. Một công việc thế nào chứ! Thần kinh căng ra. Những ý nghĩ nhoi nhói, từng lúc lại vụt đến châm chích vào cân não! Tôi nghĩ tới các đứa bé chết. Bao nhiêu... bao nhiêu! Những thợ nề, thợ ngõa, thợ gốm, hay thợ xẻ, như tôi! Bây giờ thì tôi không nghĩ tới điều ấy nữa. Cũng chẳng nghĩ gì sất. Tôi như một cái bã mía khô xác, khô xác...

Tôi ngồi bệt xuống chỗ bệ xây. Đêm xuống lao nhao. Dưới tôi là một cuốn cầu, huếch hoác. Tôi không để ý tới. Nhưng sự ngọ ngoậy rì rầm dưới đó, cứ tự nó lọt vào mắt, vào tai.

— Đi-i-i, em-m...

— Không đâu.

— Đi-i-i!

Dào, một cặp trai gái muôn thuở... Mọi khi, nghe đám bạn nhóc, chúng kể về những sự nhầy nhụa lộ thiên trong gầm cầu, tôi mới tò mò chứ! Nhưng lúc này, tôi chỉ muốn đi. Lặng lẽ tôi đứng dậy.

— Đi-i!

— Em đang chan chán là! Bao nhiêu em bé...

— Thế! Thế ta phải cố, mà bù vào chứ! Đi-i!

— Đồ tồi! Ái!..

Tôi đã đi xa... Quái thật! Một tai họa như thế! Đem ra dùng vào một việc như thế! Tôi đắng cả miệng. Tôi chưa biết buồn. Phố Gầm Cầu dài, âm u với những bí mật của nó... Đêm nay: những phút buồn bã đầu tiên... Tôi buồn không lý do? Hay có lý do? Ô hay! Sao thế nhỉ? Hay là tôi đã lớn rồi chăng?

Từ cầu thang lượn vòng, tôi đã nghe vẳng đến tiếng khóc. Tiếng bảo mẫu tôi. Sảnh đường sáng tù mù, vợi hẳn đi một nửa. Tôi nghẹn cổ. Như có chiếc thùng thắt nút, thắt nút... Tôi về buồng. Tôi cần một hạt nước mắt. Gian buồng nhí nhói một tia sao. Tôi ức. Nhưng tôi không khóc. Tôi cố nén. Tôi nuốt ừng ực những nức nở. Tất cả, lò sưởi, sàn gác, trần nhà, tất cả đều rưng rưng... Ôi chao! Những oan trái be bé! Phải đâu oan trái đầu tiên? Người ta cứ mất dần, mất dần những ngày thơ dại! Có nhẽ tuổi ấu thơ tôi, nó chấm hết, chính từ lúc này!