← Quay lại trang sách

SỨA

Chí cha chí chách, công trường Khai thác rừng đang ngả nốt khu vực 9. Một khu vực hắc búa!

Những tán cổ thụ, cội già... Anh nào cưa cùn, búa gỉ, chỉ có ngồi mà khóc. Người ta đã phải điều động tới những cưa, rìu, xà beng, búa vào loại tối tân. Tôi với Bướng cùng làm một chỗ.

Công việc đốn cây khởi đầu bằng cưa. Tôi xèo xèo cho cưa chạy một đường. Hết cây này sang cây khác. Hễ tôi vừa đi khỏi, một anh thứ hai bèn vác rìu tiếp ngay đến. “Ông cho mày mấy nhát!” Thế là thân cây bị một vết thương, một cái khấc, sâu nông tùy cây. Người thứ ba đến, tức là Bướng, nó húc cái tàu bò nó vào, cả thân cây đổ vật xuống, giãy đành đạch trước khi nằm yên. Mọi tốp khác cũng làm việc có phân công như vậy. Công trường bốc lên những tiếng động hùng dũng của cây đổ, với cái bè đậm khục khặc của cưa, rìu, búa.

— Sao hôm nay mày vui thế? Bướng hỏi tôi.

— Thật à?

— Mày vui bằng cả bốn năm năm cộng lại. Mà vui kiểu thế nào chứ? Cứ toe tóe, toe toét...

— Thật à?

— Tao biết thừa. Đừng ngây thơ cụ nữa.

— Biết thừa, còn hỏi làm gì?

— Mày có chịu nói không?

— Tao không.

— Được, được... Tao đố mày giữ được! Cái trò trai gái ấy mà đòi giữ! Rồi nó khoét thủng bụng mày ra...

— Thật à?

Xoèn xoẹt lưỡi cưa tôi chạy. Mùn gỗ bắn tóe như tia hàn xì. Có cái là nó không sáng! Nó nâu sẫm, vàng, đỏ... Nói đến đỏ! Tối nay tôi sẽ lại đến... nơi ấy. Nơi quê hương của màu đỏ! Rắc! Cái tán cây tôi đang cưa bỗng gãy rắc, lảo đảo ngã! Hừ, mình cưa quá tay! Có nhẽ triển vọng. Tôi đối thoại với tôi. Hai cái tôi nói chuyện. Một đứa nói: “Không ăn thua đâu! Gặp gỡ đầu tiên cái kiểu ấy, hỏng rồi!” Một đứa cãi lại: “Ăn thua chứ! Đây nhé, cô ấy đi làm chậm mất bảy tích tắc... Cô ấy lại bảo: chả nhẽ bắt đền anh!” Ôi chao thú! Bắt đền nghĩa là... Bộp! Bướng vỗ vai tôi:

— Mày lẩm bẩm “bắt đền” cái gì đấy?

— Thật à?

Mặt trời đã ngả. Hoa cà hoa cải toe toét cửa rừng. Pháo cây bông của buổi chiều lao động! Hôm nay tôi báo công nhầm. Chín mươi tư cây lại báo cáo hụt xuống bảy mươi hai! Bướng nó bổ sung lại, và cả anh bổ rìu nữa. Thế đấy! Toán học với tình yêu kỵ nhau! Công trường tan vào lúc sẩm tối. Tôi sẽ tắm rửa thật nhanh. Rồi chạy ào đến đó. Hai đứa sẽ đi ăn với nhau...

— Bướng này!

— Sao?

— Mày có biết cô... cô... Tao không nhớ tên.

— Nó ở đâu?

— Đại lộ Mùa Thu ấy. Biệt thự Đá Đỏ.

— Cái con đùi dài bằng ba con đùi dài ấy phải không?

— Từ giờ tao cấm mày không được gọi cô ấy là con.

— Ái chà! Xót nhau... Ừ thì cô vậy.

— Tên cô ấy là gì nhỉ?

— Tao không biết! Mày hỏi tên người ta làm gì?

Cho nên tôi có muốn tâm sự với nó đâu? Để nó độp cho à? Tôi phóng đi. Tôi chen. Đoàn thợ từ rừng đổ về làng từ các ngả. Ngả nào tôi cũng chen. “Ơ hay cái anh này!” “Trật tự!” “Nếp sống mới để đâu?”... Xin lỗi các bác nhé! Tôi chạy như chạy thi một trăm mét kiến. Tôi tới Cổng Đông trước nhất.

— Mở cổng! Bác Rỗ ơi!

Cái đầu lim không nhúc nhích. Bố tôi lại ngủ khì rồi. Tôi vận hết sức đấm ra một đấm. Boong! Cái đầu lim nhấc lên. Tôi vào: một ông Thiên Lôi đứng to lớn, đang xoa đầu, và kêu ôồm ôồm: “Ôi! Như cái chuông thế này!”

— Cháu xin lỗi! Cháu vội quá!

Ông Thiên Lôi giường tròn con mắt ốc nhồi:

— Ô hay! Gầy đấy à?

— Vâng!

— Mày đấm hay ai đấm thế?

— Cháu ngỡ bác ngủ.

Tôi chào vội, rồi chạy biến. Ông Thiên Lôi vẫn đứng sững, lọng óc và ngạc nhiên. Chưa bao giờ cái đầu lim lấp cổng của ngài được gõ thành chuông! Tôi về tới nhà mới thấy nhức tay. Nhìn xuống, thấy nó đã sưng tím.

* * *

Một tảng đất nâu, ngồi xù xù giữa buồng tôi! Mấy hôm nay tôi chưa gặp nó.

— Tùng Xòe! Làm sao trông mày buồn thế? Mấy hôm nay mày ở đâu?

Tùng Xòe giơ cái bàn tay xù xì, chỉ về mạn Cổ Loa. Rồi lại chỉ về phía Cổng Bắc, khua khua lên thành một vòng nâu. Tôi hiểu ý. Tức là nó đào đất ở Bãi Võ. Rồi đi trinh sát về mạn núi Đá Xám.

— Đông không?

Nó lắc đầu. Cả một khối nâu lúc lắc.

— Ăn cướp phỏng?

Nó gật khẽ. Có cái thằng tiết kiệm lời nói như nó là một.

— Cướp làng nào?

— Làng Đào...

Ngỡ câm! Tùng Xòe nó nâu sẫm đến nỗi hình như lời nói nó phun ra cũng thành một luồng nâu... Nó làm nghề thổ! Đào móng xây nhà này, đào hào, đào giếng này, bất cứ chỗ nào cần đào xới bới lộn, là có nó! Càng lớn lên, nó càng phục phịch. Đôi mai của nó lạ lắm. Thon và sắc lẹm ở đầu, nhưng càng vào trong, càng to xù mầm mập ra. Khỏe như cái máy xúc. Mà dài. Trông nó đào đất thì phải mê đi. Đây nhé, nó đứng phốp pháp, dún cái mai dài như cái cần trục xuống, thế là đất bở ra như khoai bột... Nhẹ như chơi. Thế mà hồi bé, nó trắng mà vừa người chứ! Hay tại cái nghề đào đất? Nó vạm vỡ ra, và nâu sạm đi?

— Thế thì có gì mà mày phải buồn?

Tôi đã tắm xong. Tôi đang chải quần áo cho mượt. Tôi phải tranh thủ từng tích tắc một.

— Không hiểu nữa! Tảng đất nâu nói, như vọng lên tự dưới đất sâu. Không khí gian buồng đầy những luồng âm thanh đặc cả ra... Đây nhé! Tao đi với thằng Kềnh. Nó cứ hát với huýt sáo suốt. Mày tính, các làng chạy, tiếng khóc cứ như ri. Trẻ con mới thảm chứ! Thế, sao nó vẫn vô tư được? Tao không hiểu...

— Tính nó thế!

— Mình nó đâu? Tao nói chuyện với mày. Mày cũng coi như không có gì xảy ra! Mày đi tắm. Mày chải chuốt. Mặt mày điềm nhiên. Cũng chả khác gì tao báo cho mày một cái tin tầm phơ, chẳng hạn: tao đi chơi tếu về đây!

— Ừ nhỉ!

— Từ chiều tới giờ cơ... Cô Thảo, anh Vẩu, bác Rồng Nâu! Toàn những người tốt cả chứ. Nhưng ai cũng đều như mày cả. Bằng an vô sự... Tại sao thế? Thói quen à? Tao đánh mày cái tát. Mai tao lại đánh nữa. Mày cần bao nhiêu ngày thì quen? Tao chả quen được. Mỗi lần đứt tay, tao lại đau một lần...

Kể nó nói cũng có lý. Cái thằng Tùng Xòe ấy lắm lúc nó xáo cả óc người ta! Vả lại, có mùa nào không có vài vụ cướp bóc của kiến Đầu Beo ở mạn Đá Xám? Chúng còn kiềng cái mạn núi Đá Tía này! Kiến Đầu Beo chỉ gờm có mỗi dân kiến Lửa làng Mận! Đá Xám với Đá Tía cách nhau ba chục dặm kiến. Bên ấy luôn có chiến tranh. Bên tôi mới chỉ có đề phòng. Thế hệ tôi lớn lên trong đe dọa đổ máu. Lâu dần, chính tôi cũng đã lấy làm thường...

— Mày cứ hay quan tâm tới lắm thứ quá! Tôi mắng yêu Tùng Xòe. Cứ đi rước cái lo cái nghĩ vào thân!

Nó ngồi phục phịch. Quanh người nó, tỏa ra một cái quầng nâu... Nó ngồi im như đất. Mà đúng nó là đất. Bốn mùa bao nhiêu lốt bước chân giẫm lên. Nó nghĩ nhiều. Tôi chịu. Không ai giải quyết được cho nó... Tôi ôm đôi vai to bè của nó. Tảng đất ẩy tôi ra. Tôi vọt đi. Lát sau tôi đã tới đại lộ của tôi...

* * *

Tôi xăm xăm vào biệt thự Đá Đỏ. Tôi khua mảnh sân rào rạo sỏi trắng. Tôi trèo cầu thang gạch non, nhiều vòng cuốn.

Tôi nhảy bổ vào gian buồng đỏ. Cũng con đường ấy, mà xúc động khác hôm qua. Tôi chỉ lo nhỡ mình đến chậm.

— Ai?

— Tôi.

— Anh đợi một chút nhé.

Cô ấy đang tắm. May tôi! Giá không có tiếng: “Ai?” tôi đã sục vào các buồng. Cái tính tự nhiên của chúng tôi! Tôi sẽ thấy cô: trắng nõn, tông hông. Nếu vậy, đường đột quá. Tôi ngồi sung sướng và hồi hộp trong màu gạch cua chiếc ghế hôm qua. Tôi chuẩn bị lại lần nữa cái “thiếp mời” đã thảo đi thảo lại trong đầu.

Cô ấy bước ra, thơm, sạch, một nõn huệ đọng sương sớm!

— Anh về sớm thế?

— Tôi chạy.

— Tôi đã hẹn anh hôm qua rồi thôi.

— Tôi phòng xa.

Im lặng đỏ trùm lên tôi, hồi hộp, đậm đà... Tôi loay hoay xem đã nên đưa cái “thiếp mời” ra chưa.

— Chắc anh chưa ăn?

— Vâng.

— Thế ta cùng đi ăn nhé.

— Vâng! Tôi cũng đang định mời cô.

Tôi thở phào trong màu đỏ lạc quan, man mác của gian buồng. Câu chuyện xảy ra giản dị, chỉ có thế... Vậy mà lúc nãy, từ chiều, tôi cứ viết rồi xé “thiếp mời” trong óc tôi, có đến bao nhiêu là thiếp. “Tôi có thể được cái hân hạnh...” không! “cái may mắn đi ăn với cô bữa tối không?”... Đấy! Đại khái cầu kỳ thế đấy!

Chúng tôi ăn ở quán Gà Trống phố Bồ Đào. Tôi ăn bằng ba người. Cô ta cứ nhìn tôi. Thạch, sứa, mầm hạt, mật, rượu... Cô ấy cũng ăn tự nhiên. Nhưng mà vẫn nhỏ nhé. Chứ lại phàm phu như tôi á? Tuy vậy, tôi vẫn cứ phải để ý. Tôi ăn một cách thế nào đó, để có thể đáp nếu câu hỏi đến đột nhiên, giữa miếng nhai.

— Tay anh làm sao sưng thế kia?

Tôi kể lại. Hôm nay tôi đã hoạt bát hơn. Cô ấy không tin.

— Tùy.

Tôi lại ăn. Quán Gà Trống mát mẻ. Bàn chúng tôi ngồi, kê ở lan can. Quanh tôi, bàn thì một-mình, bàn ba bốn-mình... Cũng có bàn hai-mình như tôi. Chỉ có bàn hai-mình là sướng. Tôi nói ý nghĩ ấy ra. Cô ta bảo: Chưa chắc! Tôi lại ăn. Lúc ăn là tôi dễ tính nhất. Ai nói gì quá, tôi cũng bỏ qua. Tôi lại nói ý nghĩ đó ra. Tôi bèn hỏi: Cô có thế không?... Cô ấy đáp: Có! Tôi bèn nói: Vậy tôi với cô cũng có điểm gặp nhau! Cô ấy nói: Chưa chắc!

Tôi lại ăn. Tôi hơi buồn. Mấy lần rồi cô ấy nói: chưa chắc! Cô ấy ngồi đây, sát ngay tôi, mà tôi như ngồi bên một cái gì vô định. Nó có thể bốc thành hơi. Thành khói, mây... Chẳng phải tôi nói văn chương. Mà đúng vậy. Một cảm giác rất vật chất. Đôi mắt xa lắc xa lơ kia, cái mong manh của các đường cong dài, bum búp, nõn... Tôi cứ ngỡ chỉ giây lát nữa thôi, tất cả người cô sẽ tan thành mộng tưởng.

— Cô... cô...

Im lặng. Im lặng của tia mắt, cánh mũi be bé.

— Tôi không biết tên. Hóa ra khó gọi quá. Cô bí mật cái gì chứ bí mật cái tên, bất tiện lắm! Tôi nói ý hơi dỗi. Cô ấy cười.

— Thì tùy anh. Anh đặt cho tôi một cái tên đi vậy.

— Được, để tôi nghĩ đã. Tôi lại ăn... Hà, Sâm, Ngọt, Mưa... Tôi tìm, Mây... Hồng...

— Hay cô tự đặt ra.

— Không, anh cơ.

Cô ta đếm: một, hai, ba... Tôi càng cuống. Chín... mười một... Hòa? Thảo? Dung...?

— Anh cứ bình tĩnh. Tôi sẽ đếm đến khi nào anh tìm ra...

Ba mươi... Ba mươi nhăm... Tôi đã vứt đi đến ba bốn thúng tên... Khổ! Từ vựng của tôi sao mà nghèo? Mà tại làm sao tôi khó tính vậy? Sáu mươi... Một trăm linh ba... Cô ta đếm, điềm nhiên như thời gian đếm tích tắc... Xa, Trúc, Bằng, Hương, Ớt, Lờ... Tôi nhìn cô. Ôi chao! Một cái trò chơi quái ác! Cả người cô trong trong, nhìn thấu qua được hết, mà vẫn không nhìn được gì. Một miếng thạch, sâu xa, dễ tan... Hai trăm lẻ một... Tôi xướng liều lên:

— Sứa!

Thế là thành tên.

— Từ giờ anh cứ gọi tôi là Sứa!

— Cô có thích không?

— Anh có thích không?

— Có

— Tôi cũng vậy.

Phố Bồ Đào thơm lựng, chúng tôi đi. Cô ấy thấp đến cằm tôi, mà đùi cao ngang đùi tôi. Tôi bí mật ướm xem: cao hơn cơ chứ! Một con nai! Hây hây, thon, trẻ, dài! Cô đi ung dung mà nhanh... Những tia chớp cặp đùi trắng!.. Sứa ơi!

— Tối nay, cô có chương trình gì không?

— Có.

— Tức là mấy giờ tôi phải... phải... một mình?

— Bảy tích tắc nữa...

— Thật à?

— Thật.

— Mai tôi có hy vọng gì không?

— Mai ta sẽ lại ăn cơm tối. Và đi chơi lâu hơn.

— Lâu hơn mấy tích tắc? Tôi nói dỗi.

— Bao giờ anh chán thì thôi. Thế nhé. Đồng ý chưa?

Cô bắt tay tôi ở ngã tư phố Én. Con nai đi vút đi!.. Một bốc hơi trăng trắng! Tôi còn lại với một phân vân đọng lại. Không buồn, không vui... Một sự vô định không bờ... Dù sao tôi cũng còn được một tia hy vọng: tối mai!

* * *

Hốp... l-ơ! Hoôp-lơ-ơ! Choắt đánh nhịp một cái “bằng”.

Công Quán biến thành chỗ tỉ sức. Người ta quây tròn quanh một cái bàn, trên đó đang kéo co nhau hai cánh tay: Lùng Tùng Xòe và kiến Kềnh! Một cánh tay nâu, một cánh tay vàng đồng thau. Tùng Xòe đã được hai keo. Người ta chơi năm keo... Không khí cuộc hội võ đã rục rịch, làm cho mọi người ngứa ngáy, bứt rứt.

Tôi rẽ vòng người. Nói là nhập cuộc vào đó đúng hơn. Tùng Xòe ngồi như một quả gò, vững chắc. Mặt nó điềm nhiên. Không thấy nổi một đường gân nào. Kiến Kềnh thì ngược lại. Một thanh niên béo bệu như nó mà lúc này: toàn gân! Cứ như một cửa hàng thừng! Cổ nó có một bó chão. Tay một bó chão. Đùi một bó chão... Nhìn qua cuộc đấu, tôi cũng đã rõ kết quả. Chả phải mình tôi. Cả cái băng híp-lơ, hốp-là đó, người ta vừa cổ vũ kiến Kềnh, vừa hoan hô trước chiến thắng của Tùng Xòe. Tay nó như cái cần trục thong thả dún cái tay hộ pháp màu đồng thau kia xuống. Nó thắng 3-0. Tối nay nó đã thắng mấy chục anh rồi. Người ta tung bổng nó lên. Một khối nâu sẫm bay ngùng nguềnh, rơi xuống, lại bốc lên.

— Khoan đã!

Một ông khổng lồ đứng thét giữa của Công Quán. Đám đông hạ Tùng Xòe xuống, quay nhìn về tiếng thét. Anh chàng khổng lồ oai vệ bước vào, vênh váo. Kiến Khổng đấy!

— Có ta đây mà!

Tôi không có cảm tình với kiến Khổng! Tôi cũng chả hiểu rõ nó. Chỉ ghét cái dáng vênh vênh, cái kiểu “triết lý sức mạnh”!

— Có tôi đây!

Tôi bước lên.

— Mày được mấy nả? Nó nói vênh váo.

— Đủ để thắng mày. Tôi đáp.

Người ta dọn một cái bàn chắc nhất cho chúng tôi. Thằng Choắt đứng làm trọng tài. Nó chạy long tong, dẹp vòng đám người, miệng cứ chí chép: “Nảy lửa nhé! Nảy lửa nhé!”

Kiến Khổng đặt một cây lim lên bàn, tôi đặt một thanh sắt nguội. Hai cánh tay khèo nhau... Theo tinh thần thượng võ, tôi để nó tấn trước. Thằng đểu! Nó định tranh thủ bất ngờ, dúi tôi xuống. Tay tôi bị ngả mất mười lăm độ... Nhưng thế thôi, ông bạn nhé! Bất ngờ chỉ có tác dụng đến đó thôi! Dừng lại! Đây mới là tất nhiên này! Tôi phản công. Tôi điềm tĩnh phản công... Cứ ung dung như khi cưa súc lim. Cu cậu chắc là đau. Trán cu cậu nhăn lên bốn luống. Hai cánh tay trở về vị trí lương thiện ban đầu rồi. Khúc lim run rùng rùng... Cẩn thận! Tôi tấn công đây này. Tôi tấn ung dung, ung dung... Cái băng híp-lơ đánh nhịp cho tôi. Cái súc lim tháo bồ hôi, lảo đảo, ngã.

— Gầy - Khổng 1-0! Gầy - Khổng 1-0! Trọng tài Choắt reo. Nó reo như bảo mẫu nó khi xưa đem bánh đường ở chợ về. Cả hội quán híp-ồồ híp-àà kiến Khổng. Số đông chỉ muốn nó thua. Tôi tự bảo, tôi sẽ thỏa mãn yêu cầu của đa số.

Ông khổng lồ tu một bình sữa. Ngài nói chữa thẹn: “Ăn tiêu về chiều...” Người ngài đã tháo bồ hôi... Không biết ngài đau ở đâu? Tôi vẫn như thường. Chỉ có cái là nhức. Lúc nghỉ thế này, tôi mới thấy nhức. Cảm giác của tôi nó chậm thế đấy. Máu cứ tụ mãi lại ở cái vết tím. Là cái vết đã gõ vào đầu ông Thiên Lôi gác cổng ấy.

Keo hai. Tôi tấn từ đầu. Tôi ung dung tấn. Một thứ ung dung nhức buốt ở vết tím. Còn khối lim nó cứ giật khỉ đành đạch. Cái lối ăn gian. Một... hai...

— Ba lần nhích khỉ rồi! Trọng tài Choắt reo. Nó reo như bảo mẫu nó khi xưa đem bánh mật chợ về... Gầy - Khổng 2-0! Gầy - Khổng 2-0!

Keo ba. Kiến Khổng mặt như chậu máu đặc. Giữa con thua, nó ấn ăn gian đầu gối vào chân bàn. Rắc, cái bàn gãy! Không ai biết, ngoài tôi. Nhưng tôi không cáo giác. Cáo giác làm gì, cho nó bẩn mồm? Vết tím tay tôi đã nhức quá thể... Người ta đổi bàn. Đấu lại. Tôi tự bảo: phải thắng nhanh, cho đỡ nhức...

Bây giờ thì mặt kiến Khổng lại như cái chậu sứ trắng đã long men, lam nham, bẩn. Mắt nó nhìn tôi, vừa thù, vừa sợ.

Tôi cũng không có cách nào cứu nó. Tôi đâm thương. Nhưng tôi buốt quá rồi. Tay nó đã ngả ba mươi độ... Ba lăm độ... Nó nghiến răng như một cái cối xay... Ba mươi bảy độ... Tôi buốt quá... Thình lình!

— Hỏa tốc! Hỏa tốc!

Một chú liên lạc chạy xé vào quán. Cuộc đấu tức khắc ngừng lại: tôi đứng dậy, tha cho đối thủ!

— Anh Gầy với anh Khổng! Lên thị sảnh ngay tức khắc! Bác Bay phái mười lăm liên lạc đi tìm hai anh. May tôi gặp đây.

Tôi với Khổng nhìn nhau. Vừa đây, hai bên hầm hè... Bây giờ, một nhiệm vụ gọi cả hai đứa. Chúng tôi phải cộng tác với nhau. Tự dưng tôi quên hết. Tôi đá đổ cái bàn.

— Ta đi thôi!

Con mắt kiến Khổng, tôi thấy cũng dịu hẳn. Nó trở thành con mắt anh em.

— Đi!

Cả hội quán hoan hô sự làm lành của chúng tôi. Hai đứa phóng như trái phá về phía thị sảnh...

Bác Bay hòa nhã giao nhiệm vụ cho chúng tôi. Thị sảnh đêm nay nườm nượp người. Tốp hai vào, tốp ba ra. Người ta lần lượt nhận công tác khẩn... Tôi với Khổng ngồi nghe bác Bay. Bác nói như người đóng đinh vào trí nhớ anh, rõ, giản dị, khó quên. Anh tha hồ mà hỏi, nếu anh còn mơ hồ điểm nào. Thái độ bác khích lệ anh rất hồn nhiên. Tôi yêu bác. Cả thế hệ tôi tin cậy bác.

— Các anh sẽ xuất phát đúng mười giờ! Còn một tiếng nữa, có muốn từ biệt ai thì từ biệt. Hôm nay mười ba. Các anh cố báo cáo về càng sớm càng tốt.

— Từ nãy, mấy lần tôi nóng ruột. Sứa mà! Bác Bay để thừa cho tôi cả một tiếng hậu hĩnh. Nhưng biết Sứa ở đâu? Chúng tôi không trùng trình. Một tiếng “Rõ”, cả hai thằng đã vọt ra, đứng giữa phố.

— Đúng mười giờ nhé! Ở Cổng Bắc!

Tôi ừ. Mỗi thằng tranh thủ một ngả. Sự cần thiết của thanh niên. Tôi vừa nóng gặp Sứa, vừa nóng đi một nhiệm vụ khẩn cấp, hứng thú. Hai sự cần thiết nóng ran người.

Tôi chạy. Tôi trèo phố. Tôi leo các tầng. May ra Sứa đã về biệt thự Đá Đỏ. Cái nghề vội. Tôi va phải bảy tám người rồi. Người ta chửi tôi đồ mù. Đồ nếp sống cũ. Đồ khỉ. Tôi kệ. Tôi chạy. Muốn đồ gì thì đồ. Chả ai mắng đúng khuyết điểm của tôi. Tôi bật cười. Giá có ai mắng tôi: “Cái đồ vội!” hoặc trúng hơn: “Cái đồ vội đi tìm Sứa!” tôi sẽ bái phục biết mấy!

Gặp? Không gặp? Các ngọn đèn tỏa quầng trong các lòng phố lờm xờm, như những búi rơm. Không gặp thì sao? Chào! Cốt nhất là phải gặp! Tôi đã chìm vào đại lộ Mùa Thu... Ở đây người ta có thể bay, chứ không phải chạy nữa! Mà quái! Sao lúc này tôi cứ nghĩ, hệt như Sứa đã là tình nhân đằm thắm của tôi? Cuộc chia tay sẽ chia-tay một cách cổ điển hay lãng mạn? Sứa ơi!

Tôi nhảy xổ vào căn phòng đỏ. Một tia sét đánh vào mắt tôi! Tôi hoa mắt ở sàn buồng đỏ sẫm, ở các bức tường ớt, ở hàng cột lòng đào. Tôi hoa mắt ở cái ghế bành gạch cua... Đó, một anh, à không, một ông... Không! Một anh hơi già, với tí ria mép, đầu trọc. Người to kiểu võ sĩ cử tạ. Bàn tay hắn to xù đang nắm một bàn tay be bé... Cái nõn huệ trắng! Ôi chao! Sứa ngồi kia, mưa về phía tôi một cơn mưa tia mắt. Điềm nhiên, không phân trần... Tôi quay đi. Tôi đi trong đại lộ. Tôi đi dưới sự rúc rích các chùm đèn. Tôi về nhà. Tôi từ biệt bảo mẫu tôi.

— Con nhận nhiệm vụ. Thế nào mà trông buồn thế con?

— Con có buồn về công tác đâu.

— Khổ thân con! Lại con bé ranh nào chứ gì! Thiếu gì đứa chứ...

— Không phải! Tôi hơi gắt.

Mẹ vẫn mềm mỏng:

— Con trai như con thì thiếu giống đứa! Con xua đi chả hết... Mẹ tiễn tôi ra cổng. Con đi cẩn thận nhé!

Tôi đi trong các phố tối. Còn những năm mươi phút. Tôi đi vào xóm La Tinh. Đèn sáng biếc đi. Sáng trắng ra. Càng khuya nó càng sáng. Tôi không muốn gặp đứa nào. Tôi chỉ muốn gặp sự xô bồ chung. Rồi tôi lại muốn gặp: sự vắng lặng. Tôi rẽ vào phố Gầm Cầu. Còn những ba mươi sáu phút! Tôi tạt vào một quán ăn. Tôi vừa ăn, tôi vừa ghen. Tôi cũng chả cần nghĩ tôi có cái quyền ấy không? Tôi cứ ghen... Còn hai mươi phút. Tôi lững thững đi về phía Cổng Bắc. Thà ra sớm đó còn hơn! Ôi chao! Tôi có thừa cơ man là tích tắc... Vô tận! Tôi có thừa cả tôi, lúc này.