CHIẾN BINH
Trở về làng, tôi như kẻ khác hẳn. Cố nhiên không tuyệt đối. Nhưng mà khác. Vẫn cái Cổng Đông, tôi nhìn: đúng là nó, mà không phải nó... Một tuần lễ ở mặt trận còn gì? Kể cũng lạ, cái thời giờ ở mặt trận... Nó ăm ắp sự kiện. Nó dài mà lại trôi nhanh! Tôi có một cảm xúc cụ thể: có cái gì mọc ở trong người. Kinh nghiệm chiến đấu? Tinh thần quả cảm? Căm thù? Trách nhiệm? Hay cái gì? Tóm lại, một thứ chất-chiến-binh!
Bây giờ, chỉ còn một tổ nhỏ bốn chiến sĩ bám sát địch. Khổng phụ trách. Trong số, có một cái đài rất mạnh. Tổ trinh sát báo cáo và xin chỉ thị làng, bằng điện đài. Choắt cũng đã về làng, trước tôi một ngày. Bây giờ, sáu giờ tối tôi tới Cổng Đông, mình mẩy lem luốc và khét mùi trận mạc.
— Bác Rỗ ôi! Cho cháu vào!
Cái đầu lim nhấc lên, và ông Thiên Lôi vồ lấy tôi. Bác hỏi một lúc, cả một tràng sấm câu hỏi. Tôi đáp. Tôi kể. “Kể nữa đi! Nữa đi!” Tôi trút bằng hết... Tự dưng bụng tôi nó rỗng ra. Hết cả rồi. Tôi chán... Có lẽ anh thứ hai nào đó nữa hỏi tôi, tôi sẽ không kể. Không bao giờ kể nữa chắc? Cái thứ chuyện hỏa tuyến, chém giết, tanh tưởi ấy! Giá mà đừng có nó, để khỏi phải người kể, người nghe... Tôi nói ý nghĩ đó ra, bác Rỗ mắng tôi:
— Ô hay! Thanh niên!
— Nghĩ thế sai ư, bác Rỗ?
— Còn phải hỏi! Giặc đến nhà, chỉ có nói đánh thôi! Hay... Hay là cháu dao động?
— Không!
Tầng ba mươi ba... Buồng tháp đất thó... Tôi tẩy uế người tôi. Cũng tắm đấy, cũng căn buồng từ thời thơ ấu, mà cảm giác xa lạ. Vừa quen quen, vừa xa lạ thì đúng hơn...
Lại cái chất-chiến-binh! Bảo mẫu tôi đi vắng. Không biết đi đâu? Tôi đi ra phố. Giữa tôi với mọi ai qua đường, với đèn lửa, nhà, ngã tư, vỉa hè, giữa tôi với tất cả, hình như có một bức bình phong. Lúc đó cứng đặc tưởng bằng gỗ. Lúc đó mong manh, một cái màng lụa... Thế đó, cái chất-chiến-binh! Con mắt tôi nhìn sao thế này, mắt chiến-binh-hóa à? Tôi vừa sung sướng bởi trong cái đầm ấm cần lao của làng. Vừa bực mình: nó còn yên ổn quá. Cũng có một vài chuẩn bị chiến đấu, nhưng nói chung vẫn thanh bình. Ngược lại, tôi vốn không mong chiến tranh lan tới đây... Phức tạp! Tôi rẽ một ngã tư.
— Đi tìm Sứa đi!
— Thèm vào!
— Cứ thèm! Đừng có làm bộ!
Hai thằng cãi nhau trong bụng tôi. Hai thằng đều có lý. Tôi chả biết nghe thằng nào. Tôi tự thấy mình ở xóm La Tinh. Đèn lửa nhấm nhẳn, trắng, xanh, đỏ... Tôi đi dưới sự oanh tạc, ngạt ngào của ánh sáng... Rầm rầm có tiếng chân chạy. Tôi quay lại. Một tốp bắt cóc tôi vào quán Ngựa Vằn.
Miễn cưỡng, thằng-chiến-binh-tôi, đứng trên cái bàn ròng rọc xanh đỏ, vàng... Tôi kể. Tôi kể chung chung. Tôi kể tào lao, cho xong. Bốn phía mưa rào câu hỏi: vậy mà đám đông cũng thú nghe cơ chứ! Tôi nhói một cái, ở ngực. Hay ở chỗ nào? Cái nõn huệ đùi dài ngồi kia! Sứa! Tôi gặp một tia mắt trong trong, xa lắc xa lơ... Tôi quay mặt đi. Tôi tháo lui.
— Tin cuối cùng! Bọn Đầu Beo hoãn tiến binh. Vì phong trào chiến binh đồng cỏ mạnh quá. Khắp cả làng, khắp các thành phố bị chiếm. Bọn Đầu Beo chủ trương dẹp chiến binh địa phương tới một mức nào đó, sẽ tiếp tục thực hiện nốt kế hoạch-thống-chế-Híp! Hết!
Tôi nhảy bổ xuống. Tôi chuồn. Tôi gạt hàng trăm cánh tay nắm tôi lại. Lúc này, đừng hòng có ai giữ được tôi. Tôi đi lừ lừ như cái xe húc.
— Thối thế? Ừ, thối đấy! Người ta đã nhìn mình... Người ta làm lành! Hai thằng lại cãi nhau trong bụng tôi… Tôi cứ bước dài, chẳng nghe thấy thằng nào hết.
* * *
Hố, ụ, giao thông hào... phố có, phố chưa... Tôi đi tùy hứng của đôi chân. Thế nào mà tôi lại tới đại lộ Mùa Thu thế này? Cô ấy cũng chả có đây mà ngại. Cô ấy vừa mới ở quán Ngựa Vằn. Chắc còn ngồi đó! Dù sao tôi cũng bước sải qua đại lộ cho nhanh... Đúng là đêm rằm. Tôi tới quảng trường Sáng Trăng. Một màu trắng bành bạch tãi trên kỳ đài, bậc, cuốn vòm, bãi trống... Không thấy vầng trăng! Chỉ thấy ánh bạc của nó, sự huyền ảo của nó. Một thứ huyền ảo mông mênh không có thủ phạm! Cảnh vật nơi đây khuyến khích chúng tôi đứng, ngồi, đi lại, chìm trong mơ mộng quảng trường... Thiên hạ tới đây, đa số đều hai-mình. Hiếm ai như tôi: một-mình! Tôi đi thẫn thờ trong hạnh phúc của người khác... Một người đã buồn, lại thêm nhàn rỗi. Đó là một người đã tới mức: ngụy-mình! Tôi chẳng biết nên dùng tôi vào cái việc gì lúc này.
— Tốt nhất, tới biệt thự đỏ.
— Nhưng mà...
— Đừng nhưng nữa...
— Hôm nọ mình đã dằn dỗi người ta thế, bây giờ lại còn vác mặt đến...
— Người ta đã nhìn những tia mắt làm lành rồi thôi?
Lại hai thằng cãi nhau trong bụng. Lôi thôi lắm! Tôi ngồi trên một bậc thềm xanh một vòm cuốn. Tôi ngả đầu vào đêm trăng. Kỷ niệm những đêm trinh sát, kỷ niệm căn buồng nhỏ, kỷ niệm! Tôi xua đi, xua đi... Đêm trăng với quảng trường, cả cõi mênh mông đón tôi, cho tôi là một bộ phận của nó. Tôi thiu thiu... Sứa ơi!
— Mai nhé!
— Chưa chắc!
Tôi giật mình. Một đôi ở dưới vòm cuốn. Tiếng “chưa chắc” quen quen. Đúng rồi! Tia chớp trắng cặp đùi... Lại cái đầu trọc võ sĩ nữa! Họ đang chia tay nhau.
— Thấu ơi! Sao lại chưa chắc?
— Ừ thì chắc.
— Mấy giờ?
— Tám giờ đến chín giờ đúng?
— Ít quá, Thấu ạ!
— Không hơn một tích tắc nào nữa.
Họ đi... Cô ta đi, đúng hơn. Võ sĩ đầu trọc đứng lại nhìn theo... Chậc! Cái cảnh tượng cổ điển! Nhưng tại sao lại Thấu? Chắc lại: “Anh đặt cho tôi một cái tên!” Cái con bé lạ! Nó ngốn đàn ông à? Cái anh võ sĩ này, đầu trọc nhưng không có ria! Còn những anh nào nữa?... Tôi chợt nghĩ ra một điều: ờ sao mình không nghe ra từ trước nhỉ? Tôi đứng vọt lên. Tôi đi như một tia chớp. Tất cả. Chân dài xoàng xoạc trên đường những bước cà kheo...
* * *
Tôi thò cổ vào quán Mào Gà: không có! Tức thì tôi đi ngay. Trong một lúc, tôi sục ba cái quán liền... Vẫn không có! Tôi lao vào phố Bồ Xồ. Thằn Lằn Trắng ồn ào thứ-ồn-ào-mít-tinh... Chắc cu cậu ở đây thôi. Tôi nghển đầu qua bức tường kiến. Đúng rồi. Cu cậu kia! Đứng trên cái bàn mà nó chỉ cao hơn một anh kiến cao, khoảng một tấc! Nhưng giọng nó sang sảng, vang xa. Bé người mà to họng thế! Tôi đành chờ. Tôi núp kín vào đám đông mà chờ. Diễn giả: thằng Choắt! Nó nói có duyên tệ. Đêm đồng cỏ... Cảnh sinh hoạt bọn Đầu Beo... Cô gái nâu thành Lạc Đà... Những hồi-hộp và không-hồi-hộp của đời chiến binh! Sốt ruột như tôi mà vẫn bị hút! Từ hôm nó về, nó đã kể đi kể lại với hàng chục đám đông. Đám trăm, đám vài chục, đám dăm ba vị. Quán Thằn Lằn Trắng lúc này có tới hai trăm. Không khí bốc lên một mùi hùng ca rậm rựt. Họ tung bổng Choắt lên, cao tít trần nhà. Những tiếng thét của mộng dân kiến cần lao mà thượng võ. Tôi nhập vào đám tung bổng. Tôi cũng tung bổng! Loáng cái, đám đông thấy biến mất: Choắt! Người ta ngạc nhiên một lát, rồi đám đông lại tiếp tục công việc của đám đông: ồn ào, ba hoa trời đất... Nhanh thật! Nó lẩn đi đằng nào? Trinh sát mà lại chả nhanh! Ngỡ Choắt lủi. Oan nó! Tôi mới là thủ phạm. Tôi bắt cóc nó đi, ngay trước mặt cái hội-quán-vỡ-chợ! Chào, có gì lạ? Một chút trò quỷ thuật tôi đã học được của thằng Khổng! Tôi có khá nhiều trò tương tự thế nữa! Vậy mà tôi vẫn không thú cái nghề-chiến-binh. Gọi gì là nghề? Lạm dụng danh từ, phải không? Ít nhất cũng là một nghề bất đắc dĩ!
“Nỡm cái anh này! Sao lại bắt cóc người t-a-a!” Choắt nói giả giọng nữ, the thé, chua ngoa. Giữa chúng tôi, đã có một cái tình. Cái tình của những đêm trinh sát. Tôi kéo nó đi ăn. “Tao nhờ mày chút việc!” “Thì bỏ người ta ra đã nào! Cứ nắm chặt lấy người ta!” Nó vẫn giả nữ. Lát sau chúng tôi đã ngồi ở quán Hút. Vắng tanh trong quán. Và ngoài phố. Cô phục vụ bị câm, nói cứ ra hiệu. Chúng tôi làm một bình rượu ê-te.
— Chuyện này, mày đừng nói với ai nhé!
— Tôi chả dại. Đầu tôi chả cứng được như đầu bác Rỗ!
— Sao mày biết chuyện bác Rỗ? Ai nói?
— Cả làng nói...
— Ai nói mà làng biết?
— Ấy thế mới gọi là làng! Chả cần ai phao mà làng cũng biết! Nhưng mà chuyện gì chớ? Ấm ớ mãi!
— Hừ-ừ!.. Mày có biết... Hừ- ừ!.. Biệt thự Đá Đỏ ấy mà!
— Ngỡ gì? Eo ôi!.. Tao chả biết...
— Tao lạy mày.
— Ừ thì biết.
Tôi nói: “Tao muốn tìm hiểu...” Tôi cứ nóng bừng cả mặt. Nó nói: Lý lịch tao nắm trong tay đây... Tôi nói: Mày nói đi!
Nó nói: Đừng có mó vào đấy mà khổ. Tôi hỏi: Tại sao? Nó nói: Tao cũng không hiểu nữa! Khó nói lắm!..
Im lặng. Một thứ im lặng ghê rợn. Có cái gì đổ vỡ. Mà vẫn im lặng. Những tiếng động không kêu.
— Tên cô ta là gì?
— Thấu, Thám, Lành Canh, Chưa Chắc, Sò, Hà, Núm Sen, Hến... Một trăm tên chứ không ít.
— Sao lại lắm tên vậy?
— Nó ngốn đàn ông... Mỗi anh chỉ có lưu lại một cái tên. Vậy thôi.
— Không ai đi xa được hơn à?
— Không! Hình như nó ái nam ái nữ...
— Láo!
— Ấy là đoán vậy... Giả thuyết nào chả ít nhiều láo?
Tôi hỏi: Tuổi? Kém mày một! Công tác? Ở đội cốt-sắt! Thế ra cô ấy chuyên về môn xây-cao, xây-chắc... Có chăm không? Lao động tiên tiến đấy! Tính nết? Vui, láu, tế nhị, mà không hiểu... Những ai đã... đã... tìm hiểu cô ấy? Võ sĩ, cán bộ kỹ thuật, công trình sư, thi sĩ, kỹ sư... Còn tên thì không nói được... À quên! Và mày nữa! Tao mới... mới chú ý thôi.
— Thế thì nên thôi đi là hơn! Mó vào chỗ dễ hơn! Cái thứ tình-yêu phải-cạnh-tranh-nhiều, khổ lắm!
Tôi thở dài... À này! Cô ta tuyên bố là bao giờ em xây được ngàn rưởi cái nhà, thì em mới tính chuyện “đực-cái”. Bịa! Con gái nào nói cái chữ ấy! Đảm bảo! Đúng danh từ đực cái mới chết chứ!.. Thế cô ấy xây được bao nhiêu rồi? Tốc độ trung bình một năm tham gia xây dựng hai năm cái. Đã làm được ba năm. Vậy, tức là còn khoảng sáu chục năm nữa! Ngoẻo rồi còn gì?... Ôi chao, tôi nghĩ, con bé ấy mà chua! Sứa ơi! Chua để làm gì? Biết đâu?... Người ta chưa gặp ai vừa khẩu vị thì sao?... Cái khổ của một bông hoa phong nhụy đầu tường! Nhiều khách vãng lai quá! “Báo cáo, hết!” Choắt nói gọn lỏn. Tôi thì chưa muốn hết... Bất cứ một chi tiết nào về cô gái mình... mình để ý... nó đều ứ đọng cảm xúc... Chẳng hạn, cô ta có mấy tá mùi soa? Những ai lại hỏi thế? Thằng Choắt thì cứ toàn một giọng ngãng ra... “Sát phạt lắm! Lại đâm đầu vào thứ gái-sát-phạt thế!.. Thô-ô-ôi đi!”
Mười hai giờ, tôi về nhà tôi. Bữa ăn mẹ làm để thết tôi, đã nguội. Tôi không đói. Mẹ cứ đi hâm nóng lại. “Con ăn vã! Thạch tiến chúa đấy con ạ...” Mẹ ngắm tôi. Mẹ kêu tôi hốc hác. “Thì con vẫn thế!" Mẹ hỏi thăm các anh em khác. Tôi nói những điều về Khổng, Choắt, Sứa, Thông... Tính tình của họ. Kinh nghiệm của họ. Chuyện này thì tôi kể thú vị. Nếu mẹ hỏi sang những chuyện khác, tôi sẽ chỉ kể chung chung.
— Tí nữa mẹ quên! Lúc mười một giờ rưỡi, cô ấy lại đến tìm con! Từ khi con đi, cô ấy đến ba lần rồi... Với lị lần vừa rồi là bốn.
— Ai chứ mẹ?
— Bảo là Sứa!
Tôi bị một thứ sét êm ái.
— Ai vậy hử con?
— Bạn gái.
— Mẹ lại cứ ngỡ... Đừng dại con ạ! Trông cô ta sát tướng lắm!
— Sát tướng là thế nào, mẹ?
— Chả phải thì thôi!.. Mẹ già cả, ăn nói nó mê tín, theo cái lối cổ.
Mẹ đã già thật! Bao nhiêu lớp trẻ đã qua tay mẹ bế ẵm! Để họ lớn lên. Để mẹ già đi. Nhưng mẹ vẫn khỏe! Có đứa đã quên mẹ. Có đứa vẫn nhớ. Tôi thì tôi không quên.
— Một giờ rồi, con còn định đi đâu vậy?
— Con đến ngủ nhà thằng Tùng Xòe.
— Con ngủ nhà có hơn không?
— Con có việc, mẹ ạ.
Tôi nói dối mẹ. Tôi đi thẳng tới đại lộ Mùa Thu. Rặng đèn lồng về đêm, ngả màu vàng nhợt. Đại lộ đã lổn nhổn một ít hố tác chiến. Tôi xộc tới biệt thự Đá Đỏ. Cửa sổ không còn ánh đèn, Sứa đã ngủ. Tưởng bở! Một thằng giễu tôi trong bụng...
Tôi quay về nhà. Tôi rón rén trèo chiếc cầu thang lượn vòng. Tôi im lặng vào buồng.
* * *
Xèo xèo, tôi cho cưa chạy, đổ một vạt rừng. Hôm nay đẵn chỗ bở ăn quá. Cưa chạy một nửa, rồi Bướng nó đến dún một cái, cây ngã bổ chửng. Thứ cây này sẽ chở đến những xưởng chế biến lương thực. Mặt trời mới độ một con sào, chúng tôi đã xong quá nửa kế hoạch. Hôm nay sẽ vượt mức nhiều... Chí chách, phong trào thi đua bảo-đảm-định-mức sôi nổi, hùng dũng. Chúng tôi rút lao động và rút giờ: để kéo nhau ra Bãi Võ Cổ Loa. Chúng tôi vẫn bảo đảm định mức. Chúng tôi làm việc gấp đôi, gấp ba sức khỏe chúng tôi. Thế đó, chiến tranh! Rục! Những cây non, tôi chả cần cưa, cứ ôm thân mà bẻ. Nói là non! Có cây to bằng cột nhà! Hôm qua, Bướng nó đã phá kỷ lục của kiến Voi. Hôm nay, tôi kiên quyết đánh đổ kỷ lục của Bướng.
— Về từ tối hôm qua mà không đến trình diện tao! Láo toét!
— Khốn nỗi có thằng còn bận dỗ cô Xinh!
— Ai bảo?
— Họ đồn là cô ấy khóc bốn hôm rồi. Vì mày vào đội cảm tử!
— Tin đồn...
— Đúng không?
— Khóc có hai hôm thôi! Tin đồn nó nhân lên gấp đôi. Mẹ cái tin đồn!
Bướng, Lùng Tùng Xòe với tôi đều ghi tên vào cảm tử quân và đều được chấp nhận. Chúng tôi sẽ chiến đấu sát cánh. Chúng tôi muốn dùng tuổi thanh niên chúng tôi vào việc của nó. Ba ngàn thanh niên ghi. Nhưng đợt đầu làng chỉ cần năm trăm. Chiều nay chúng tôi sẽ ra Bãi Võ. Tổ 3: Bướng, Xòe với tôi sẽ thao diễn một trong nhiều lối đánh mạo hiểm. Bác Rỗ chỉ huy cảm tử quân. Bọn tôi tin ở bác.
— Mày cứ tủm tỉm cái gì? Thằng khỉ?
Nó ngỡ tôi cười nó. Không phải. Tôi đang nghĩ tới chương trình tối nay cơ... Tôi gặp một cái cây già. Đường cưa của tôi chạy bắn lóe tia mùn, hoa cà hoa cải, đỏ, tía, nâu, vàng...
— Nhất định tao đến!
— Đừng tưởng bở vội!
Hai thằng cãi nhau trong bụng. Vẫn một thằng ngãng ra. Một thằng hùn vào. Thằng này có vẻ đắc thế:
— Cô ta làm lành trước cơ mà!
— Nhưng nó bị chê nhiều lắm. Choắt này... Mẹ này...
— Có hai mà bảo nhiều! Vả lại chê chả có gì căn bản!
Vạt rừng thưa ra. Mặt trời như cái cam nhông sáng lòe vụt lên đỉnh. Tôi đã ngả nốt cái cây cuối cùng. Tôi bèn sang làm đỡ tổ khác. Hì hục chúng tôi vật nhau với rừng. Công trường hát tiếng hát của cưa, búa, đục... Người ta thay phiên nhau ra Bãi Võ. Đài phát thanh đã gọi đến tên chúng tôi. Quả là hôm nay tôi vượt kỷ lục của Bướng. Chúng tôi từ giã công trường đi về bãi Cổ Loa. Mặt trời nghỉ ở đỉnh một chút, như để bơm ét-xăng. Rồi chiếc cam nhông ấy tải lửa từ từ xuống dốc.
* * *
Bên địch bên ta đang huyết chiến, đỏ lòm Bãi Võ. Hai bên có tới hơn một ngàn. Bên địch thì vẫn cái chiến thuật hổ đói. Bên ta từng tốp năm - ba tấn lui đỡ đần nhau. Trận đánh đang găng.
— Tổ Gầy! Bác Rỗ thét.
— Có tôi!
— Tổ cậu Gầy có nhiệm vụ đánh thốc vào lòng địch. Chiếm quả gò có cắm cờ vàng! Đó là đại bản doanh của tướng Xồm!
— Rõ!
Tôi dắt tổ đi... Tức là bác Rỗ tung cái tổ cảm tử này, đánh thọc sâu. Tôi nhìn con đường tới chỗ cờ vàng: non một cây số sinh tử! Mỗi tấc đất trên chiến trường, đều có đến vài ông tử thần làm việc! Nữa là non cây số!
— Bướng! Mở đường trước!
Cái tàu bò húc đi xình xình. Tùng Xòe đi giữa. Tôi hậu vệ. Cứ vậy, chúng tôi sẽ thay phiên nhau. Tổ tôi đã vào lòng trận. Bốn bề địch. Cái tàu bò húc lên, đôi búa phăng tung từng đống Đầu Beo. Cái cần trục của Tùng Xòe lắc lư, gạt xúc... Tổ tôi như một thứ máy kỳ quặc: búa, cần trục, xúc, cưa! Nó xè xè tẽ ra một đường máu... Bọn Đầu Beo: đổ, ngã, chạt rạt... Cái máy lừ lữ đâm thẳng lên qua gò tướng Xồm!
— Hầ-à-â-mm!
Đại tướng Xồm nhảy xổ ra từ đại bản doanh. Ông La Hán kiến Đô đấy! Nhưng lúc này là chiến trường thực. Chúng tôi luyện mãi mới được cái quan điểm thực sự đó. Hồi đầu, cứ vừa đánh vừa cười. Mới gặp nhau, cũng đã cười xòa. Nhưng lúc này, chúng tôi chả biết kiến Đô nào hết! Tướng Xồm vung đôi lắc-lê mập xù! Hoộp... Hoặp... Cái máy tổ tôi sầm sầm lao đến, búa, cần trục, cưa... Tất cả gầm gừ, điềm nhiên, trùi trũi... Chưa kịp trở tay, tướng Xồm đã nằm rúm ró dưới cái máy gớm ghiếc đó. Chúng tôi đã làm chủ quả gò. Cờ vàng đỏ, cờ đỏ kéo lên đúng tim địch. Hàng ngũ bọn Đầu Beo rối loạn. Cái máy tổ tôi đánh khoét gan ruột chúng. Các tổ ngoài kia đánh cắt chúng, như cắt bánh. Năm phút sau, tình hình bọn Đầu Beo đã thành: một bát canh láo nháo.
* * *
Mặt trời đã lao cái cam nhông lửa xuống vực. Chỉ còn lại một chút ráng đỏ... Căn buồng đất thó của tôi chênh chênh một chút chiều muộn. Tôi đã tắm xong. Cái thú vị của một cơ thể sạch sẽ, thú vị thật! Dưới phố, tong tả đèn lên... Các con đường hát bài hát tan-giờ-làm-việc.
— Tối nay, người ta có hẹn rồi cơ mà?
— Hẹn tám giờ! Chứ hẹn đâu bây giờ? Mới sáu giờ lẻ năm tích tắc...
Tôi nghe cái thằng tôi hùn vào! Tôi phăm phăm tới đại lộ Mùa Thu. Hố, ụ, giao thông hào đã chọc be bét các phố. Đài phát thanh đang tường thuật cuộc du thuyết của phái đoàn bác Bay. Tôi vừa đi vừa nghe. Loa bắc khắp các ngã tư ngã ba Tin tức phái đoàn, chúng tôi háu nghe lắm. Một vấn đề thời sự dính líu đến số phận nhiều làng, nhiều dân kiến. Chả là làng Mận chúng tôi đứng ra kêu gọi lập Liên minh ba mươi chín làng, cả hai vùng Đá Xám, Đá Tía, chống bọn Đầu Beo. Phái đoàn gồm có: bác Bay trưởng đoàn, với cụ Mây, bác kiến Mù, cụ kiến Heo, bác Phó Nhất... Ba mươi chín làng không phải dễ thuyết phục! Mà gọi là làng? Quen mồm thì gọi thế thôi! Thực ra là ba mươi chín nước! Màu da khác nhau, lịch sử và phong tục khác hẳn nhau. Đó! Bây giờ có làng chủ chiến. Lại có làng chủ hòa, chủ chạy... Tôi vừa bước vào, vừa rướn ăng-ten, bắt luồng sóng tường thuật. Kia, phái đoàn đang đứng giữa đình làng Lù Đù.
— Chúng tôi cũng vậy, cụ Mây nói.
— Vậy các bác đến đây thuyết khách những gì?
— Chúng tôi tố cáo âm mưu bọn Đầu Beo... Đó: kế hoạch thống chế Híp! Còn quyết định ra sao, đấy là tùy bà con làng Lù Đù ta.
Phái đoàn trình bày cái kế hoạch nuốt sống Đá Xám, Đá Tía, nhãn hiệu Đầu Beo! Bà con Lù Đù ngó nhau, nửa sợ, nửa hãi, nửa phân vân... Có những em bé bò dưới đất, nghển đầu lên nghe. Tất cả đứng ngầm ngập sân đình.
— Chúng tôi sẽ di cư!
— Đàng trước ta là bọn Đầu Beo. Chúng đã chiếm hết đồng cỏ. Cụ Mây nói. Sau ta, đi quá Đá Tía là sa mạc. Bà con nghĩ xem? Con cái chúng ta sẽ bị nướng cháy trên cát bỏng. Cả chúng ta...
Phái đoàn lưu lại làng Lù Đù ba ngày. Mít tinh sân làng. Rồi phái đoàn tới một số gia đình. Những cuộc tranh cãi liên tiếp. Những hội nghị bàn tròn, bàn vuông, bàn bầu dục...
— Làng Lù Đù chúng tôi bằng lòng nhập khối Liên minh.
Nhưng với hai điều kiện.
— Xin để tùy bà con. Bác Bay nói.
— Thứ nhất, nếu một làng nào chạy, thì chúng tôi cũng sẽ chạy lập tức. Chúng tôi cam đoan không chạy đầu tiên. Chỉ chạy thứ hai, hoặc thứ ba thôi.
Điều kiện đó, người ta ghi vào dự thảo hiệp ước.
— Thứ hai nữa là chúng tôi chỉ chiến đấu có tính cách tự vệ.
— Xin làng nói rõ hơn, về khoản này.
— Tức là thế này. Bọn Đầu Beo đến thì chúng tôi đánh. Bất cứ là chúng tấn công làng chúng tôi, hay làng Chè, làng Ngăm, làng Me, làng Mận, tóm lại, nội trong ba mươi chín làng! Còn về sau này, nhỡ có ai lại kéo chúng tôi đi đánh đuổi bọn Đầu Beo rồi nhân đó chiếm cứ đất đai đồng cỏ chẳng hạn, hoặc xâm phạm bờ cõi nào đó, vân vân, có tính cách quân sự xâm lược, thì chúng tôi rút.
— Làng Mận chúng tôi cũng vậy. Chúng tôi muốn tất cả mọi làng, mọi xứ đều được sự sung sướng của hòa bình... Nhưng về cái khoản truy kích địch thì bà con Lù Đù ta có tham gia không?
— Trong vòng năm trăm dặm thôi! Xa nữa thì ai đảm bảo cho cuộc truy kích không biến thành cướp bóc, phá phách?
Những điều kiện đó được ghi vào dự thảo Hiệp ước liên minh quân sự ba mươi chín làng. “Dân Lù Đù chúng tôi, xin nói thẳng, là cái làng dạt trôi nổi nhiều. Chúng tôi phòng xa và nghi kỵ. Mất lòng trước, hơn được lòng sau!”
Dân kiến đứng tụ đông lại ở chiếc loa phóng thanh đầu ngã tư. Họ bàn tán. Ô hay! Tôi đứng ì ở ngã tư này từ lúc nào? Chết! Sáu giờ hai mươi rồi... Tôi phóng nhanh như xé phố. Tôi lao vào biệt thự Đá Đỏ. Tôi trèo ba bậc một cái cầu thang gạch non. Tôi xô cửa...