← Quay lại trang sách

PHỐ TRĂNG

— Ấy chết!

Tôi quay mặt ra. Một pho tượng ngà trong suốt, khỏa thân... Tôi đường đột quá. Tôi không gõ cửa. Cô ấy đang thay quần áo, một chút lụa mỏng vương trên sàn nhà, như một vẩn mây...

— Dơ con trai! Vào không gõ cửa!

Tôi lúng búng một cái gì như thể xin lỗi.

— Sứa đi ăn bữa tối với tôi nhé.

— Đồng ý! Nhưng sau đó thì sao?

— Sau đó hẵng hay.

— Không! Tôi muốn biết trước chương trình! Tám giờ, tôi có hẹn!

— Nếu vậy, thôi!.. Để khi khác vậy... Chào cô!..

Tôi quay ra. Tôi bước nhanh. Nhưng tôi mong có tiếng gọi lại.

— Anh Gầy!

Tôi tức tốc, quay đàng sau: quay!

— Anh hay dỗi lắm nhỉ.

— Vâng.

— Chương trình tối hôm nay của tôi để tùy anh vậy. Hết dỗi rồi chứ?

— Cô có hẹn tám giờ cơ mà!

— Không quan trọng...

Tôi đi bên Sứa như bên một vẩn mây. Một ngụm sương.

Đôi mắt xa lắc xa lơ... Tia chớp cặp đùi trắng... Cô ấy nói:

— Anh dơ thật đấy!.. Tôi nói: Vâng!.. Cô ấy cười. Tôi cũng cười... Anh cứ làm như... như... tôi đã... thuộc về... anh rồi í... Tôi lại nói: Vâng! Cô ấy cười: Bởi thế? Tôi nói: Bởi thế nghĩa là thế nào?... Cô ấy nói: Anh cứ vơ vào... Tôi nói: Cố nhiên tôi phải vơ vào. Cô ấy nói: Dơ đến là dơ!.. Tôi lại nói: Vâng!..

Hai chúng tôi ăn một bữa ăn sang trọng. Ở một mái hiên sang trọng. Quán Tóc Tiên Vàng. Bữa ăn cười bằng mắt. Đôi mắt cô đùng một cái, rất hiện diện, gần gũi. Đùng cái, lại xa, rất xa, hun hút đi. Tôi nhìn cô luôn. Ba tích tắc tôi lại nhìn. Một tai nạn: Cô ấy đánh rơi đũa! Tôi cúi xuống nhặt. Cặp đùi khép lại. Tôi lau đũa. Tôi đưa trả cô. Tay chạm tay. Những cái nõn măng. Hai đứa cùng cười... Bảy giờ rưỡi!

Chúng tôi đi đón vầng trăng mười sáu. Trăng chưa mọc. Quảng trường đó đây hai-mình, hai-mình, rồi một-mình, rồi lại hai-mình.

— Tôi đố Sứa này.

— Đố đi.

— Hừ... hừ...

— Đố gì mà cứ hừ hừ...

— Hừ... Ấy là tôi định đố... Nhưng lại chưa có câu đố!

Hai đứa cùng cười. Chúng tôi sóng bước trong không khí hồi hộp sắp-trăng-lên. Quảng trường pha một màu sữa. Trắng nhờ nhờ Đẹp quá!.. Cái gì đẹp? Trăng mọc!.. Chúng tôi nhìn sự huyền ảo về mạn Cổng Đông. Một nạm ngũ sắc, thiên về trắng. Một thứ trắng nuốt, nuột, trinh tuyết, mát... Bất cứ cái gì mọc cũng đẹp. Trăng mọc. Mặt trời mọc. Cây mọc. Kiến mọc..

— Ai nói kiến mọc bao giờ! Đẻ chứ?

— Không! Mọc cơ!..

Tôi giải thích cái chữ của tôi. Đây nhé. Tôi đi khai thác rừng, trước kia thì chưa. Thế là mọc trong tôi một công nhân khai thác rừng! Tôi sống bình thường, đùng cái bọn Đầu Beo đến. Tôi đi trinh sát. Tôi vào đội cảm tử. Thế là tôi đang mọc thành chiến binh. Phải không? Đẻ thì chỉ có một lần chứ mọc thì nhiều. Tôi đi chơi xóm La Tinh. Tôi đang bình yên: ăn được, ngủ được! Đùng cái tôi gặp một cô ở quán Ngựa Vằn. Thế là tôi mọc thành: kẻ-buồn-vui-thất-thường!

— Anh gặp ai thế?

— Sứa đấy!

— Dễ nghe nhỉ? Thế mà bảo thật thà!

Trăng sáng một nghìn bạch lạp: hai cái bóng của chúng tôi ngả dài mặt đường. Tôi đi thoai thoải. Tôi xích cái bóng của tôi lại. Cô nhìn thấy. Cô né ra... Chúng tôi ngồi ở một ghế đá, dưới cây xà cừ. Vầng trăng bị mắc trong vòm lá đen. Cả một vầng trăng, nõn như thịt sò. Quanh tôi là mông-mênh-quảng trường. Một thứ mông mênh bầu dục. Chúng tôi thành một bộ phận của im lặng đêm trăng. Tám giờ... Bỗng dưng Sứa nói:

— Ta về đi.

— Cô nhớ hẹn nhỉ.

— Ừ thì thôi... Ở lại vậy.

Tôi tức. Tôi gây chuyện:

— Suýt nữa tôi quên... Tám giờ tôi phải ra Cổng Bắc. Thôi nhé! Chào!

Tôi đứng dậy. Cô ấy nắm lấy tay tôi. Điện giật. Tôi phịch xuống ghế đá.

— Con trai đâu hơi tí đã dỗi!

Tôi như một cục im lặng.

— Anh Gầy!

— Gầy cái gì?

— Anh mà dỗi nữa, tôi về ngay tức khắc.

Thế là cô ấy dỗ được tôi rồi! Tôi rút lui cái mục dỗi. Già néo đứt dây, phải không? Tôi lập lại cái không khí đôi-ta... Đừng về nhé!

— Nhưng cấm dỗi cơ! Ừ!.. Có nghe chuyện mặt trận không? Có... Tôi kể... Vài câu thôi... Hai chúng tôi đã chuyển sang đầu đề khác. Những đầu đề vẩn vơ... Những đầu đề thơ-không-vần, chủng chẳng, man mác... Tôi sung sướng như chưa bao giờ sung sướng thế. Tôi ngồi trong từ trường của cô... Sóng điện. Tia mắt chơm chớp. Tôi xích lại. Hai chúng tôi chỉ còn cách nhau một khoảng cách nguy hiểm... Sứa... Sứa ơi...

— Đi quanh một chút đi!

Cô ấy kéo tôi đứng dậy. Tôi thẫn thờ. Hình như vỡ mất một thời cơ. Hai chúng tôi đi trên thềm đá kỳ đài. Một đường cong cây số. Trăng chênh mười giờ!.. Anh đã mỏi chưa? Chưa... Cô ấy muốn về. Nhưng không nói. Cô sợ tôi dỗi chăng? Ghế đá, bực kỳ đài, vòm cuốn... Mười một giờ hơn! Anh đã mỏi chưa? Chưa... Bao giờ anh, anh mới mỏi? Bao giờ Sứa mỏi, thì tôi mỏi... Thế là mỏi-theo-đuôi à? Ừ! Tôi mỏi rồi... Thế ta về nhé! Rặng đèn lồng chấm những chấm trắng, trên màu tàu bạch đêm trăng. Cô bước chuệch choạc. Sứa làm sao thế? Đôi giày! Tôi cúi xuống. Cô vội rụt chân, cúi xuống. Sao thế? Nó tuột khuy... Hai chúng tôi bước chậm. Cô đi khó khăn, chỉ chực chệch bước... Để tôi... tôi cõng Sứa nhé?... Dơ thế! Đài phát thanh thủ thỉ một dạ khúc. Nốt nhạc vãi ra, lả lơi lòng đại lộ... Tôi đưa Sứa tới cổng. Hai đứa đứng đó một lát. Tôi bần thần... Mai nhé! Một tiếng nói như sương tan. Cô chạy vút lên gác biệt thự. Tôi đi. Tôi nhìn cửa sổ đèn bật. Tôi bước qua một cái hào. Cửa sổ đèn tắt. Sứa đi nằm rồi. Tôi trở về nhà, qua những phố khuya vắng... Những phố ngây ngất!

Vầng trăng mười sáu đã thiu thiu...

* * *

Một cái cần trục nâu sẫm từ thang gác nhà tôi đi trở xuống lồng ngồng, chật hết lối.

— Khuya thế còn mò đi đâu, Tùng Xòe?

Nó khoa tay, lưỡi ríu lại: “May-ay... Maa-y quá!” Nó kéo tôi đi ngay. Bóng tối của cái phố cổ rung lên một không khí lo ngại. Vầng trăng mười hai giờ khuất sau những đầu hồi, chòi, tháp, vòm cuốn... Tất cả những kiến trúc lắt léo của một khu phố cổ.

— Tao đã dặn bảo mẫu mày. Hễ mày về thì bảo mày đi ngay. May lại gặp.

— Cái gì chứ?

— Thằng Bướng!

Nó khoa tay, đầu lúc lắc như kẻ kêu khổ. Tức là có tai nạn gì đã xảy đến với Bướng. Tùng Xòe đi rất nhanh. Cả một con trâu lăn bị đuổi! Tôi cò khẳng cò kheo theo nó. Lúc vầng trăng hiện, lúc biến. Nó bị nghẹn trong cái khối kỷ hà chật chội các phố.

— Cái gì mới được chứ?

— Cô Xinh!

— Làm sao?

— Ngấấất!

— Thế thì phải đi gọi đốc tờ chứ?

— Rồồồi!

Cuối phố Hy Lạp là nhà cô Xinh. Một căn nhà cổ, trong một khu phố cổ. Tôi vọt lên cái cầu thang đá rỗ. Tùng Xòe ục ịch theo sau. Nó cũng không rõ đầu đuôi câu chuyện thế nào. Tạt qua chơi với Bướng, nó đã thấy cô Xinh ngất! Vừa ngất xong. Nó bèn đi gọi đốc tờ. Rồi đi tìm tôi.

— Hu-u-u!..

Thằng tàu bò đứng thù lù giữa cửa, khóc. Tôi chưa được thấy núi khóc, bò mộng khóc, tờ-rắc-tơ 5 khóc. Bây giờ thì thấy rồi. Chỗ nó đứng, sũng sịu một vũng nước. Tôi ngỡ nước mắt. Về sau mới biết là nước đổ. Thỉnh thoảng nó lại sị-ịịt một cái. Tôi nhòm vào buồng. Một chấm đèn li ti. Cô Xinh nằm nhợt nhạt lòng giường, tóc xõa. Ông đốc tờ già, bé nhỏ, đang tiêm phát thuốc trợ tim thứ mấy, lịch kịch một mình. Đôi lúc, ông vẫy tay gọi Bướng, để sai vặt. Bướng ta vội đi lấy lửa hay chút nước, chân bước rón rén, nhưng mồm mũi lại khụt khịt liên hồi. Hễ xong việc nó lại ra đứng cửa. Cả cái thân hình tàu bò thút tha thút thít. Có mặt chúng tôi, nó cũng chả ngượng. Cứ khóc hoài. Ban nãy, lúc tôi đến, thấy tôi, nó bèn nức nở, òa lên, miệng mếu xệch. Chúng tôi đứng nép vào một góc hành lang. Một cảnh bi kịch! Dù thế nào nữa, vẫn là bi kịch. Không khí căn gác cổ, với những đường kẻ, cột trốn, long cuốn thủy... Nó cứ hun hút, lởn vởn những cảm xúc tối màu. Không hiểu tại sao tôi vẫn vững dạ. Yên trí! Yên trí! Tôi tự bảo. Một tai nạn nhì nhằng.

— Có tỉnh lần nào không? Tôi hỏi Tùng Xòe. Nó đứng nhòe vào bóng tối nâu đen.

— Tỉnh rồi lại ngất.

— Mấy tiếng rồi?

Tùng Xòe ra hiệu: hai tiếng! Tôi không biết gì hơn. Bằng mấy tài liệu đấy, tha hồ mà đoán mò. Cảm chắc? Không hẳn đúng! Hay là một cú xúc động? Đầu đuôi thế nào? Đó, “tang chủ” đó! Nó cứ sụt sịt. Không nên hỏi nó lúc này. Nếu không an ủi được nó, thà rằng đứng im lặng. Một thứ im lặng chia buồn.

— Không sao cả! Ông bác sĩ già đi về phía chúng tôi. Mặt ông nhiều vết nhăn, rúm ró đến nỗi không thể biết ông ta đang vui hay lo.

— Liệu... liệu... khi-ịt... Có việc gì không? Kh-ị-ịt... Bướng hỏi.

— Một cú thần kinh xoàng!

— Lại còn xoàng... Kh-ịt!

— Một mâu thuẫn dễ hiểu: một bên là y học, một bên là ái tình!

Ông bác sĩ không đáp mà cứ lọm khọm kéo cả ba chúng tôi ra xa, xuống mấy bực thang. Ông ta giao Bướng cho chúng tôi. Để nhờ các anh “dỗ dành anh ấy hộ”. Theo lời ông thì đáng lý bệnh nhân đã bình phục từ lâu! Nhưng mà “Ô là là! Chết tiệt!” Chỉ vì cái tiếng khóc của “tang chủ”! Hóa ra bệnh nhân mới ngất, tái đi tái lại... “Cái giống bệnh này, nó kỵ xúc động mạnh!” Dứt lời, ông đã lọm khọm quay về buồng.

Tôi để Tùng Xòe lại phụ việc bác sĩ. Rồi tôi kéo cái tàu bò đi. Nó hơi cưỡng lại. Nhưng rồi nó cũng ngoan ngoãn bước xuống cầu thang. Tôi dìu nó đến một chỗ vòm phố. Hai đứa ngồi trên một thềm bệ nhẵn. Cạnh đó có con kỳ lân. Nó có đây, tự mấy đời nay rồi? Trăng đã nghiêng nghiêng về cõi quá khuya. Bướng ta nín bặt. Nó cũng biết chỗ này là: giữa phố! Không nín thì quá thể lố bịch! Nhưng nó sốt ruột. Nó tựa đầu vào con kỳ lân đá, thẫn thờ.

— Mày có cam đoan ngồi nguyên đây, thì tao mới chạy về, xem tình hình thế nào?

Nó gật rất thiểu não. Ba bước tôi đã tới căn buồng bệnh nhân. Cô Xinh đã tỉnh dậy. Cô đang uống sữa. Cô nhìn quanh gian buồng với mọi người. Sắc mặt cô còn tái, nhưng con mắt không có chút gì dài dại nữa.

— Anh ấy đâu rồi? Cô ấy hỏi.

— Anh đây!

Bướng đã xuất hiện ở bực cửa. Nó xồng xộc tới nắm tay người yêu. Cô Xinh cười, sung sướng mà hơi thẹn. Bác sĩ nháy chúng tôi. Tất cả từ từ rút lui. Ra ngoài hành lang, bác sĩ bảo chúng tôi: “Một cú thần kinh! Chả có gì đáng lo cả!” Ông ta lọm khọm đi. Tôi với Tùng Xòe len lén đứng đợi ở dưới cổng. Nhỡ ra “đôi cú” thì sao? Mười lăm phút... Hai thằng vẫn đứng ì đó. Trăng đã lấp sau những tường gác. Bốn mươi phút... Trên kia bỗng nghe thấy tiếng rúc rích. Với tiếng cười ồm ồm của thằng tàu bò. Tôi với Tùng Xòe bèn nhún vai, lẳng lặng chia tay nhau về.

* * *

Một dòng kiến người vác gỗ từ rừng về làng. Kẻ vác một súc. Kẻ hai súc. Những súc gỗ to thì hai hoặc ba bốn anh khiêng. Tôi với Bướng, hai thằng làm cả một súc tổ bố. Tùng Xòe một mình quắp một cây lừng lững. Đúng là cả một đống nặng nhọc công việc! Rầm rầm, dòng kiến đổ từ rừng ra. Mặt trời chín giờ. Không ai hát! Bắp thịt: lim, cánh tay: táu, sồi, lưng trần: cần trục... Chúng tôi đi như một đoàn xe ục ịch. Trên màu da đồng hun, phết lên từng khối màu: đỏ tươi, nâu, vàng, các khối màu sần sùi của gỗ... Kia, một chị tuột tay bị cả một cây gỗ đè ngang lưng. Nó to bằng ba vòng ôm. Anh em vội xúm đến bẩy cây gỗ. Chị lại đứng dậy, ghé vai với bốn người khác, khiêng nó đi. Chị chỉ bị sầy da một chút.

— Chắc đang làm, lại nghĩ đến anh ấy chứ gì?

— Khỉ gió!

— Khéo khéo! Chị áo xanh kia kìa!

— Khéo mà xoạc ra, anh ấy lại bắt đền.

— Ô ồ- ồ ồ ồ!

Càng gặp những công việc nặng nhọc, người ta càng đùa nhả. Nói tục hay vặc nhau. Không sao! Cái vui ồ ạt của đoàn kiến người vác gỗ! Có cảm giác đứng trước những thần khổng lồ đội đá trong thần thoại! Bắp thịt, gỗ khối, sóng lưng... Những màu đi từ đỏ gắt, sang tía, vàng, nâu mốc... Mỗi cá thể mạnh thêm cái sức hùng tráng của cả dòng kiến.

— Mẹ nó!

— Mày cứ chửi mãi! Tôi mắng thằng tàu bò. Từ sáng, quên đi thì thôi, chợt nhớ đến, nó lại chửi. Những mẹ nó với mẹ cha cái tin đồn. Mà kể cũng kỳ! Làm sao mà đã oáng lên cái chuyện cô Xinh ngất với Bướng khóc? Mới đêm qua! Ai nói chứ? Ông bác sĩ già ấy à? Hay cô Xinh vui chuyện tâm sự với một cô bạn mau miệng nào? Chứ ba chúng tôi, thì tuyệt nhiên không. Dù sao, lúc tám giờ, câu chuyện đã ồn cả công trường Khai thác rừng. Với tất cả những chi tiết có thực và không có thực!

— Anh mà không rút tên khỏi đội cảm tử thì em... em...

— Em làm sao?

— Em ng-ất đây...

— Ồ!

— Một! Em đếm đến ba, không thì em ngất thực cho mà coi... Hai... Có rút tên không?

— Em kỳ quặc quá!

— Hai rưỡi... Thế nào?... Hai ba phần tư...

— Lạ thật!

— Ba!

Thế là cô Xinh đổ lăn đùng ra giữa sàn gác cổ! Ngất liền...

Thế đấy! Đi mà cải chính đi! “Mẹ nó!” Bướng uất quá! Người ta còn kể là Bướng khóc đầy một chậu thau. Rồi lấy nước ấy, vã khăn đắp cho người yêu... Khóc thì có khóc! Nhưng tin đồn bôi vào bức tranh Bướng khóc, những nét trò hề! Câu chuyện thực khác hẳn.

Nhưng ai có thể cãi lại được với tin đồn? Ức thật!

Đó: mười giờ tối qua, cô Xinh tan tầm làm... Cô đi qua một ngã tư. Bất đồ... rầm rầm kéo qua đường một đám đông... Người lớn, trẻ con, tiếng kêu nháo nhào cả.

— Cái gì đấy hử bác? Cô Xinh hỏi thăm một bác công nhân đi sau đám đông.

— Bị thương.

— Ai?

— Bướng.

— Bướng nào hở bác?

— Bướng ở tổ thọc sâu ấy!

Thế là cô gái yếu đuối lảo đảo. Cô tựa vào tường, nhợt nhạt. Đám đông đã biến hút, để lại một bệnh nhân lạc thần hồn. Cô bước lê lết theo vết đám đông, về phía bệnh viện. Dọc đường tin tức mới càng dữ dội: vỡ đầu! Mất một mảng sọ! Phọt cả óc! Sự tưởng tượng của đám đông mà! Nhưng Bướng nào chứ? Bướng bạn Tùng Xòe với Gầy ấy. Có ai nữa mà lẫn? Không biết mấy giờ cô tới bệnh viện. Cái cổng sắt xanh lọt một ngọn đèn thường trực.

— Không phải giờ thăm bệnh nhân! Ông cụ thường trực giữ nguyên tắc.

— Vì... vì... anh ấy bị thương... Vừa mới chở đến.

— Anh Bướng phỏng?

— Vâng.

— Cô với anh ấy là thế nào?

— Là... là... bạn...

— Mai cô đến.

Cô Xinh chưa chịu về. Cô cứ quanh quẩn vỉa hè bên kia. Phố vắng. Bệnh viện đêm tỏa một không khí âm hồn. Lát lát một chiếc xe cấp cứu lao vào cổng bệnh viện với một tiếng rú ghê rợn. Chân chạy. Băng ca. Một cái chân thò ra khỏi mảnh vải trắng. Cô Xinh che mặt, chạy về nhà, tóc xõa như người điên. Cô nghe gót giày cô, lại ngỡ có ai đuổi. Những chuyện rùng rợn nhà xác, với quỷ nhập tràng bay loạn xị khắp phố vắng. Cô càng chạy miết. Tưởng như đứt hơi. Khu phố cổ nguệch ngoạc những hình thù ma quỷ. Cô đâm xổ vào căn buồng nhá nhem ảnh trắng.

— Đi-i đ-đâu!.. Đê-ê-ể người taa đợ-ợ-ợi m-ã-ãi?... Giọng ồm ồm của cái tàu bò vọng lên từ đáy buồng. Một cảnh hồn hiện!

Thế là cô gái hoảng loạn rụng rời mớ dây thần kinh! Một cái thây tái nhợt đổ! Khổ thân cô! Một cuộc gặp bất ngờ ngoài phố! Có phải Bướng đâu! Đó là anh Búa, cũng là cảm tử quân! Tổ anh biểu diễn thọc sâu vào buổi tối ở Bãi Võ. Tới gò tướng Xồm, Búa bị một nhát xẻng toạc trán! Đã bé cái lầm chưa? Cô Xinh bị mệt cả đêm, nhưng hôm sau vẫn đi làm xưởng sữa. Cái cặp ấy đâm vẫn thành trò cười cho bà con. Họ cứ đi mãi vào địa hạt của tiếu lâm.

Dòng kiến vác gỗ tủa vào làng. Rồi tản đi về các xưởng, tùy theo chất gỗ. Có thứ để chế biến lương thực. Có thứ dựng nhà, chống hầm. Đài phát thanh báo một tin vui: tối nay, tám giờ đúng, khai mạc hội nghị ba mươi chín làng. Địa điểm: làng Chè. Một hiệp ước liên-minh-quân-sự sắp sửa khai sinh. Và lại, có tin bọn Đầu Beo rục rịch tiến quân. Tôi nghĩ tới cô gái nâu thành Lạc Đà. Cô có thể đánh cắp kế hoạch mới của bọn Đầu Beo? Bãi Võ Cổ Loa loảng xoảng tiếng binh khí chạm. Ngày đêm. Bất kể nắng mưa. Dạo này hay có những trận mưa cuối hạ, một thứ mưa tối sầm cả lại, nước đổ như thác cổng trời. Đùng cái lại đã tạnh. Lại nắng gay nắng gắt. Cuộc hội võ mùa hè của làng tôi năm nay hoãn. Người ta sẽ tỉ thí thực sự trên một chiến trường thực sự. Trong khi chờ đợi tổ tôi, Bướng - Gầy - Xòe cứ tạm thời trung hòa trên Bãi Võ. Cả làng tin cậy ba chúng tôi.

* * *

Lần này tôi gõ cửa tử tế. “Vào!” Tôi đã đứng giữa căn buồng lòng đỏ trứng. Không khí bốc một mùi dâu tươi, thơm, mát... - Cái gì thế Sứa? Tôi chỉ về một cái túi lụa. “Đố đấy!” Tôi lật cái túi lên. Một cái dấu thập đỏ! Có vậy mà cũng đố! “Em vào cứu thương hỏa tuyến phỏng?” Sứa gật. Gật tự nhiên như khi tôi hỏi: “Em ăn cơm chưa?” “Đó em xem, em đang mọc thành chiến binh!” “Thành gì nữa nào, đố anh đấy!” Cô ấy cười. Tia mắt trong trong.“Tôi nói sai đừng giận nhé!” “Thì cứ nói đi hẵng...” “Thành... thành... một cô gái có... có...” Tôi thẹn chín dừ... “Thế thì em hiểu rồi chứ?” “Dơ thế!” Sao mà tôi thích nghe câu mắng ấy! Tôi coi nó như một sự-tỏ-tình! Gian buồng đỏ, đỏ man mác; đỏ, màu chồng màu... Bên tôi, một cô gái đẹp. Sạch. Vừa tắm xong. Da thịt cô bốc một mùi gái-mùa-hạ. Thơm mát, nồng nàn...

Chúng tôi ăn bữa tối xong, lại đi đón vầng trăng mười bảy. Hai đứa đi trên đường Cổng Bắc. Đèn bật tím than, tím hoa cà, xi-cla-men, tím nhạt. Người ta nói tím là màu của mơ mộng, một thứ mơ mộng xa lắc xa lơ. Có nhẽ lắm. Vầng trăng mọc, hơi muộn, chín giờ. Một vầng trăng hơi lẹm, nõn nà trong lòng Cổng Bắc tím.

— Đố Sứa biết trên mặt trăng, có sinh vật không?

— Em không biết.

— Nghĩ đi rồi hẵng trả lời...

— Em không biết. Thế có không hử anh?

— Hình như có... Hình như không...

— Ỡm ờ thế!

— Vì anh cũng không biết.

— Không biết mà lại còn đố!

— Ấy vậy!

Lòng phố pha tím vào câu chuyện của chúng tôi, không đầu đề, nhiều im-lặng-biết-nói, và nhiều câu nói không-nói gì. Vầng trăng leo qua phố vắng. Nó đã sang phố Hy Lạp. Chúng tôi đi tìm nó. Tôi nói vài câu có duyên. Rồi lại nói vài câu vô duyên. Lẫn lộn cả... Sứa cũng không để ý. Hình như Sứa đã... đã... yêu tôi! Ấy là tôi cảm giác thấy thế. Qua những hào hố lổn nhổn, tôi đưa tay cho Sứa vịn. Có lúc cô vịn, có lúc không. Lắm chỗ nguy hiểm mà cô cứ nhảy thoăn thoắt. Trông như một con nai. Đùi dài, trắng, mẩy... Có lúc tôi tưởng đã nắm chắc được hạnh phúc. Có lúc lại thấy văng vắng.

Ngã tư, tôi suýt va vào một thanh niên nhỏ bé. Trông như quen.

— Choắt à!

— Gầy! Chào chị! Anh chị đi ngắm trăng phỏng? Thú nhỉ.

Mặt mũi nó vêu vao. Quai hàm bên phải sưng như một cái bìu. Quai bị à? Hay đánh nhau?

— Mày ở đâu ra mà mặt mũi thế kia?

— Tao vừa ục thằng kiến Cà Là Tàng. Mẹ nó! Xin lỗi chị! Tao đánh nó sưng quai hàm.

Tôi suýt phì cười. Choắt bèn kể, chả cần đợi mời. “Nghe nó nói, đến chó cũng không nghe được!” “Đây nhé, anh chị tính”. Tôi thú cái chữ “anh-chị” quá. Tôi nhìn Sứa. Cô vẫn điềm nhiên. Ba chúng tôi đứng ở góc ngã tư không trăng. “Tức ghê đi được! Nó diễn thuyết ở quán Ngựa Vằn. Cái thằng Cà Là Tàng ấy. Thuyết của nó... sao mà nó dám mở mồm nói được cái thuyết chó đểu ấy! Xin lỗi chị...”

— Thuyết gì hở anh? Sứa hỏi.

— Đây nhé, chị tính... Nó ngu quá! Chó cũng chả nghe được. Để tôi nói, xem chị có nghe được không?

— Anh đã bảo chó cũng không nghe được cơ mà...

— À... à... xin lỗi chị. Đây này, nó bảo... tôi tức lắm... nó bảo: tình yêu là bịa! Mẹ nó! Nó bảo chỉ có tính ích kỷ là có thực. Đồ chó thế! Xin lỗi chị. Ngoại giả ra, yêu người khác, hy sinh, tập thể tính vân vân, tất cả đều không có!

— Thế có ai nghe nó không? Sứa hỏi.

— Ai nghe? Cả quán huýt sáo, ném cà chua. Người ta vặn cổ nó, hàng nghìn câu hỏi. Mẹ nó! Đã ngu lại còn ngoan cố! Nó bảo: “Tôi vẫn bênh vực thuyết của tôi!” Rồi nó đi xuống.

— Thế thì anh tức giận với nó làm gì? Sứa nói với một giọng khinh bỉ điềm đạm. Anh cứ coi nó như một thằng rồ, cởi truồng đi ngoài phố! Kệ nó!

— Chị tính... Cái thằng chó đểu! Nó diễn thuyết nửa tiếng. Trong nửa tiếng, nó tước hết của mọi người tất cả mọi đức tốt, có thực. Tôi có cảm giác như bị kẻ cướp bóc lột. Mất hết mọi tài sản. Lúc nó xuống, đi qua bàn tôi, tôi bảo nó: “Đem mà vứt sọt rác!” Nó bảo: “Ra đây tranh cãi đã!” Tôi ra ngõ Mễ Tây Cơ cãi lộn với nó: “Thằng chó đểu!” Nó chạy làng, nó quỷ biện, đủ trò! Cuộc tranh cãi bằng lời chuyển sang tranh cãi bằng đấm đá. Người ta mà không can, tôi đánh chết nó chứ chả để.

Choắt vừa nói vừa vung tay vung chân. Mặt trăng lấp ló sau một khuỷu tường.

— Tôi làm thế anh chị tính, có đúng không? Giặc giã đến, lại có thằng mở mồm đi bênh vực chủ nghĩa cá nhân! Nó muốn nộp mạng chúng ta cho địch à?

Chúng tôi khen Choắt. Nó bắt tay chúng tôi. “Anh chị đi chơi nhé!” Chúng tôi đi dọc phố Nấm. Câu chuyện Cà Là Tàng, chúng tôi chả hề bận tâm. Tôi coi đó như một sự vu khống. Chẳng hạn: “Thằng X, nó chột đấy!” Không! X vẫn đủ cả hai mắt, sáng láng!

— Sứa này!

Cô gái ngước về tôi, một đôi-mắt-sáng-trăng.

— Sứa có tin là tôi yêu Sứa thế này, tức là tôi chỉ yêu độc có mình tôi thôi không?

— Tùy người! Anh thì không.

— Tôi khác mọi người Sứa biết à?

— Hình như khác... Hình như không...

— Ỡm ờ thế!

— Vì... vì... chính tôi cũng không biết nữa...

Ấy vậy! Lúc chúng tôi xưng anh em. Lúc lại xưng tôi cô. Chúng tôi đuổi theo vầng trăng qua ba bốn phố. Trăng phố Hy Lạp. Trăng phố Nấm. Trăng khu nhà lá.

— Sứa coi tôi là thế nào?

— Bạn...

— Có vậy thôi à?

— Bạn tốt...

— Có vậy thôi à?

— Bạn rất tốt...

— Không hơn?

— Con trai dơ thế! Cứ kì kèo người ta...

Chúng tôi đi trong quyền lực của đêm trăng. Có phố trăng đẹp. Có phố trăng xấu. Nà nõn, xanh lợt, âm u, bao nhiêu phố trăng? Cũng vẫn một vầng trăng ấy, mà nó đổi vẻ, tùy theo kiến trúc từng phố.

— Sứa có thích ngắm trăng không?

— Tùy từng lúc...

— Lúc này thì sao?

— Thích.

— Cẩn thận đấy! Trăng là thủ phạm của rất nhiều thứ.

— Ví dụ?

— Mơ mộng chẳng hạn... Nhớ chẳng hạn...

— Gì nữa?

— Thế cũng đã quá rồi còn cần gì thêm? Chắc Sứa chưa biết nhớ?

— Ai chả biết!

— Đây nhé... Sứa biết không? Tôi đi trinh sát. Bỗng dưng gặp vừng trăng khuya. Thế là nhớ năm trăm dặm nhớ.

— Thế có gì là lạ?

— Đây nữa nhé... Tôi đi sát bên Sứa. Trăng lên. Trăng chín giờ. Rồi trăng mười giờ. Trăng mười một giờ. Tôi vẫn đi cạnh Sứa. Thế mà tôi lại cứ nhớ thế nào ấy!

— Thế không phải là nhớ.

— Đúng là nhớ mới lạ chứ... Không thể gọi chữ gì khác...

— Thế là không ổn định. Vẩn vơ...

— Thì thế! Lại còn thêm những: văng vắng, xa lắc xa lơ, thiêu thiếu... Tóm lại, tức là nhớ.

— Không phải.

Chúng tôi cãi nhau về một danh từ. Về một cảm giác. Vầng trăng đã tới đỉnh dốc của đèn. Nó đã leo qua rất nhiều phố. Chúng tôi cũng vậy. Con nai trắng đã nhảy qua bao nhiêu hố, ụ, chiến lũy. Nay mai em sẽ là nữ cứu thương mặt trận. Em sẽ đi be bé, giữa gươm giáo. Con nai ngây thơ. Tôi đưa Sứa về. Một giờ. Trăng ngả xuống lưng chừng biệt thự đỏ. Chúng tôi chia tay nhau, một cách cũng chả khác gì đêm trước. Có thế thôi. Tôi bước đi, như nhớ, chuệch choạc. Không có âm nhạc khuya. Chỉ có phố trăng, nham nhở hào hố. Tôi trở về phố tôi.