← Quay lại trang sách

GIỜ TUYÊN CHIẾN

Chiến tranh thế là đã nổ bùng giữa ba mươi chín làng chúng tôi với bọn Đầu Beo. Những đơn vị tiền tiêu của làng Chè, năm giờ chiều đã chạm trán với một sư đoàn Đầu Beo. Phòng tuyến Chè cách đây khoảng một trăm dặm. Bọn Đầu Beo tiến chớp nhoáng: mười hai giờ trưa, bọn chúng mới xuất hiện ở Đá Xám. Chưa giập bã trầu, chúng đã chiếm một loạt các làng biên thùy. Các mũi của chúng kéo càn đi các ngả. Thế là chiến tranh đã nổ, tự nhiên, không cần tối hậu thư.

Tôi nghe tin dữ, đang lúc đi chơi vô mục đích, giữa phố Hy Lạp. Trời mưa bụi. Mưa lâm thâm, lâm thâm từ chiều. Thế mà cả ngày hôm nay, nắng mới gắt chứ? Muốn như năm nay mùa thu đến sớm? Thời tiết lúc này luôn có những trận mưa rào, nhanh cơn, các kiểu mưa cuối hạ. Thi thoảng lại xen vào một vài cơn mưa bụi lắc rắc, dằng dai, báo hiệu mùa thu. Thì đó bảy giờ tối. Tôi đang đi trong màu tro nhá nhem của phố mưa bụi. Đài phát thanh bỗng dưng tuyên bố, kể từ phút này, coi như bắt đầu chiến tranh. Mưa lâm thâm, lâm thâm. Người qua lại lác đác. Một vài tốp tụ lại ở những ống loa có mái hiên. Đèn lửa quầng lên trong mưa. Người ta đứng rải rác, mỗi chỗ một ít. Câu chuyện không đáng ngạc nhiên. Nhưng người ta vẫn có cảm giác bị đột kích bởi một sự biến thình lình. Cái kiểu đến ú òa của tai họa. Dù đã chờ nó, nó vẫn đến bất chợt. Hay là tại làng tôi còn đang đeo đẳng khá nặng những cảm-nghĩ và thói-quen-thái-bình? Cũng có thể. Dù sao, người ta cũng đã chuẩn bị tác chiến rất gấp rút, mà chuẩn bị mấy vẫn không bằng thực sự.

Thôi! Thế là từ bảy giờ tối nay, chiến tranh đã thực sự rồi! Tôi nhìn bốn phía phố. Trước kia, chúng tôi đều mường tượng cái phút tuyên chiến, nó phải ghê gớm lắm. Xáo đảo! Rùng rợn! Đổ! Vỡ! Nhưng, không... Mọi sự vẫn bình thường... Hàng cây mưa, tường nhà mưa, đèn mưa. Vẫn cái phố Hy Lạp mọi khi, loang lổ, cũ nát. Từ chiều nó vẫn mưa lâm thâm. Bây giờ, chiến tranh thực sự rồi, nó vẫn thế. Nhưng trong không khí đã lởn vởn một cái gì khác. Sự phức tạp của đêm chiến tranh đầu. Những nét mặt căng căng. Những dáng đi lật đật, trên những hào hố bùn. Tôi rẽ một ngã ba. Lại một phố mưa khác, lâm thâm, lác đác người. Tôi biết làm gì đến mười giờ? Tôi vừa đưa Sứa đi họp, lúc nãy, lúc chưa tuyên chiến. Khoảng mười giờ, Sứa mới tan cuộc họp bất thường. Không biết vừa rồi, cái phút lịch sử vừa rồi, Sứa có nghĩ tới tôi không? Tôi thì: có! Thế mà mới tối qua thôi, tôi với Sứa còn đi đón một vầng trăng mười bảy. Tối qua đã lùi về một thời kỳ lịch sử khác rồi. Xa hun hút... Phố mưa... Lại một phố mưa nữa... Hàng đèn treo vàng lờ... Chương trình của tôi với Sứa đêm nay? Đêm mai? Thế mới thật là xáo đảo! Tôi chưa kịp nghĩ tới mọi người. Với những chương trình của họ. Thế đó, bao nhiêu chương trình be bé bị nhỡ nhàng, thậm chí ngãng trở! Tôi đi trong mưa. Một thứ âm nhạc dầm dề. Chiến tranh nổ! Nó nổ vào lúc tôi chả cần dùng gì đến nó! Phố mưa. Tôi bước qua một hố tác chiến sũng sịu. Vả lại, có lúc nào chiến tranh nổ vào lúc người ta cần dùng đến nó không? Ai nói có? Lúc nào? Lúc ta đang ăn, đang ngủ? Đang hì hục ở xưởng máy? Hay đang hồi hộp đợi người yêu? Họa là bọn Đầu Beo! Chứ ngay lúc chán đời, người ta cũng chả cần đến cái trò sát nhân hàng loạt ấy! Tôi suýt trượt chân trên một gờ hào trơn. Một khung cửa sổ sáng: một nửa thân đàn ông, với cái đầu rối bù dòm phố! Tôi trèo qua một chiến lũy mưa. Chiến lũy cao lưng chừng mái nhà. Một khung cửa sổ sáng nữa: một cảnh sinh hoạt bình thường, người ta đang sum họp quanh bàn ăn. Lại một khung cửa sáng nữa. Tôi nhìn lơ đãng. Nhà ấy vắng. Mỗi ngọn đèn nghi ngút cháy một mình. Đêm đầu chiến tranh... Làng mưa... Mưa lâm thâm từ chiều. Tôi đi lang thang trong màu nâu chạng vạng của làng mưa.

Lật đật, không hàng lối, một đoàn lính thợ kéo qua phố, lếch thếch. Họ đi ra mặt trận nào? Họ trèo qua một chiến lũy mưa, rồi đi khuất về phía bên kia. Đêm nay, bao nhiêu cuộc hành binh! Ủy-ban-quân-sự-thống-nhất-39-làng mới thành lập từ tối hôm qua. Nó còn đỏ hỏn như đứa bé sơ sinh. Nó đã phải đương đầu với một đạo quân lớn trăm - vạn Đầu Beo. Những tên lính sinh nhai bằng nghề lưỡi lê. Những võ quan bách chiến. Không hiểu tại sao, tôi vẫn coi thường chúng. Chúng tấn công chúng tôi bất ngờ, tôi vẫn khinh thường. Chúng tôi chỉ có vẻn vẹn độ mươi ngày để chuẩn bị hớt hải, chống một cuộc xâm lược khổng lồ. Mươi ngày. Thế cũng coi như không. Cũng như bị đánh thình lình, giữa giấc ngủ.

Tôi bước lên cái lưng bùn lầy của một chiến lũy mưa... Tôi rẽ vào xóm La Tinh.

* * *

Ai kia, trông quen quen? Một ông hộ pháp ngồi xù xù góc quán Bò Tót, với một đôi dao quắm to, ghếch ngược. Mặt ông ta đỏ gắt, bự rượu. Quần áo lấm be bét, vết bùn đã khô, vết còn tươi.

— Khổng à?

— Hừ! Ai gọi tao đó?

— Tao!

Nó nghển cái cổ bò mộng đỏ ra phía cửa quán, đầu lắc lư say, vênh váo.

— A! Ngỡ ai? Vào đây, vào đây! Đêm nay phải đánh ngã Bảy Vò Bố. Không thì đừng gọi là chiến binh nữa! Nó nói bè nhè.

Hai chúng tôi vồ lấy nhau như chỗ cố tri. Cái tình của mặt trận. Thế đó! Người ta dễ thân nhau, sâu sắc, tận tụy. Nhưng cũng có khi ngược lại. Ở hỏa tuyến, mà đã ghét nhau, khinh nhau, thì thành một khinh ghét đời. Một thứ khinh ghét tạc chìm, cố định, bất di dịch. Hai chúng tôi chén chú chén anh. Chúng tôi tu ngay trong vò. Khổng ghé mồm vào miệng chiếc vò sành, nốt ực ực.

— Bem nhé! Hừ-m! Tao về... hừ... Tao lĩnh hai trăm binh! H-ừm... Bem đấy! Mười giờ xuất phát! Suỵt! Bem...

Nó cứ lắc lư, mồm thì nói tông tổng ra, ngón tay lại đưa lên “bem” với “suỵt” như muốn khóa cái mồm trống hơ trống hoác lại.

— Mày nên mua lấy cái nắp! Tôi nói.

— Hử-ử?

— Để mà đậy cái thùng!

— H-ử? Thùng gì?

— Cái thùng mồm mày ấy!

— Há! Há! Thằng đểu! Há!

Nó tu một vò nữa. Có lẽ vò thứ năm rồi. Cu cậu ở tiền tuyến về, báo cáo xong, bèn mò tới quán Bò Tót ngay. Làm một chầu ra chầu! Mày tính! Tám giờ rồi! Mười hai giờ tao lại đi... Hừ... Mẹ nó! Đến vò thứ sáu thì cu cậu chả còn bem với suỵt gì nữa.

— Mẹ nó! Thống chế Híp ấy! Suýt nữa tao bị hớ với nó! May có con Hóng! Hừ... Chả có con Hóng thì tao cũng sẽ biết... Mày tính...

— Hóng nào?

— Quên rồi à? Cô gái nâu thành Lạc Đà ấy thôi? H-ừ! Mẹ cái thằng thống chế Híp! Mày chưa biết mặt nó nhỉ. Nó cao. Nó chột. Chột mắt bên phải. Còn mắt bên trái thì lại hiếng. Cái thằng đại gian hùng! H-ừ...

Khổng kể lại, nhát gừng, nhát tỏi. Mà xen nhiều tiếng chửi, với tiếng hừm hừ của kẻ say. Những báo cáo điện về làng mâu thuẫn nhau. Mấy ngày hôm trước cơ. Chứ bây giờ thì rõ rồi. Thoạt đầu bọn Đầu Beo giả tảng dừng binh, để dẹp chiến binh địa phương. Bất thình lình, chúng tiến ba mũi. “Mẹ nó!” Mưu mẹo thống chế Híp. Bây giờ Khổng đã vớ được cái kế hoạch mới của Híp. “Mày đừng tưởng bở nhé. Mẹ nó! Nó dụng binh quỷ quyệt. Hừm... Cái thằng tướng chột ấy! Trong một lúc, nó có bốn năm kế hoạch liền. Đó! Đi mà đoán thực hư với nó đi! Trong khi đó nó đã tới sát nách anh rồi! Hừ...”

— Làm quái gì!

— Mày không hiểu à? Bất ngờ! Yếu tố bất ngờ!

— Bất ngờ tức là đánh trộm chứ quái gì! Chấp nó đánh trộm!

— H-ừ... Cố nhiên! Chả chấp thì nó cũng đã cứ thế. Cắn trộm! Mẹ nó! Hừm! Phen này tao sẽ đục thủng bụng nó ra Hai trăm binh, mày tính! Mà toàn binh-thợ cả nhé! Chơi vào với dân làng Mận! Khổng lấy tay xoắn khoáy lại như mũi khoan máy. Mày hiểu chứ gì? Đục khoét hậu phương Híp! Vận động nô lệ nổi loạn! Vũ trang tuyên truyền! Tình báo! H-ừ! Hai trăm binh không phải chuyện chơi nhé! Rồi mày xem! Mẹ nó! Quỷ kế với ông à? Há! Há!

Hai chúng tôi say muốn đổ quán Bò Tót. Mười giờ hơn hai đứa mới chân nam đá chân xiêu đi ra phố. Vẫn những phố mưa lâm thâm. Khổng trượt chân xuống một cái hố. Nó lóp ngóp lên. Tôi giơ tay cho nó bíu. Hai đứa đi chuệch choạc trong phố mưa. Những ngọn đèn mưa phun ánh sáng phì phì...

— Mày... mày... say à? Tôi hỏi nó.

— Đ-â-âu?

— Chả say mà lại ngã hố?

— Đ-â-âu? Có mày say, mày nhìn nhầm thì có.

Tôi tưởng thật. Tôi hỏi:

— Thế ai ngã đấy?

— Cái thằng chó nào, ai mà biết được?

— Hai thằng hay một thằng?

— Ba thằng ngã chứ!

— Tao kéo một thằng lên. Mày kéo hai thằng lên phỏng?

— Ai mà nhớ được nữa!

Xóm La Tinh mưa. Đèn sáng cái thứ ánh sáng đìu hiu của mưa phùn. Hai thằng chia tay. Mỗi thằng thất thểu rẽ vào một phố. Một thứ phố hai-ba phố chồng nhau lòe nhòe, lòe nhòe...

* * *

Đại lộ Mùa Thu... Một đại lộ thôi! Không phải hai, ba nữa. Tôi vừa bước rảo, vừa ngửa mặt hứng nước mưa, cho nó dã rượu. Những hạt mưa như bốc men. Cả hàng đèn nữa. Ánh sáng vãi tóe ra những hạt vàng nhạt, những tia tím, biếc, nâu, lộn bậy dài ngắn, bù xù bờm xờm. Tôi vẫn say. Phía đầu thì nhẹ tênh, phía chân thì nặng, như kiểu con lật đật. Phía chân tuy nặng, những bước lại nhẹ bỗng. Tôi suýt ngã mấy lần. Biệt thự Đá Đỏ đây rồi. Một biệt thự! Thế tức là tôi không say, phải không? Tôi vào một cái cổng màu ớt, qua một cái sân xào xạo sỏi trắng. Tôi trèo một cái cầu thang gạch non. Một vòng cuốn. Hai, ba vòng cuốn. Nhiều thế? Hay là cơn say lộn lại? Tôi đứng nghỉ, nín hơi, tựa vào lan can. Mười giờ mười bảy phút! Tôi lỡ hẹn mười bảy phút. Mà lại say sưa, thất thố thế này. Lỡ mười bảy phút đối với một cô gái chính xác từng tích tắc một? Ba đời cái thằng Khổng. Tại nó cả. Tôi vã nước mưa một lần nữa. Tôi ẩy cửa. Tôi vào.

Căn buồng đỏ: đỏ mông mênh, đỏ vắng tanh. Ngọn đèn trăm bạch lạp cháy một mình. Có nhẽ cuộc họp chưa tan. Tròng trành sàn son tươi, trần đỏ, hàng cột lòng đào. Một con tàu dập dềnh! Tôi ngã nhòe nhòe vào lòng một-hai-ba. Cái ghế gạch cua. Chả phải say đâu! Tôi tự bảo. Tại gió đấy, chả phải say... Tôi ngất. Một thứ ngất vẫn còn tỉnh. Tôi nôn trên sàn gác son tươi. Tôi ngất. Tôi bơi trong những đường sóng mờ, nhiều màu, nhiều âm thanh không kêu. Tôi ngủ.

Không biết tôi ngủ mấy tiếng? Tỉnh ra, he hé mắt, thấy bóng dáng trắng thon của Sứa, tôi lại nhắm tịt lại. Lúc nãy trong giấc mê chập chờn, tôi vẫn biết là có Sứa chăm sóc.

Nhưng tôi không tài nào tỉnh hẳn lại được. Bây giờ thì tôi tỉnh rồi. Tôi hé mắt hai ba lần, rồi lại nhắm. Tôi xấu hổ.

— Ghét thế!

Tôi mở hẳn mắt ra, đứng vụt dậy: tay chân đầy những dấu vôi! Cái thứ thuốc trị rượu ấy! Thế này thì còn mặt mũi nào? Tôi cứ nhìn Sứa, một cái nhìn chả ra thế nào.

— Ghét thế!

Trông cô như sắp sửa đi trận. Những đường cong gọn ghẽ. Giày ủng. Ba lô với túi cứu thương. Tất cả nịt bó sát thịt, bộ ngực vẫn sống nhí nhói với cặp đùi dài.

— Đẹp thế! Tôi kêu lên.

— Đừng đánh trống lảng!

— Đẹp thế mà cứ mắng người ta.

— Dơ dơ là! Bận sau thì tôi chả tha! Cảm tử quân, đẹp mặt!

Ngoài kia vẫn mưa. Mưa phùn chênh chếch phố. Cô ấy mắng tôi như thể tôi đã... đã... thuộc về cô ấy chẳng bằng! Tôi nói ý nghĩ đó ra. Cô ấy cười: Tán sát như anh, có là một! Tôi nói: Rõ rành ra đó, em còn cãi! Cô ấy bảo: Thật à? Tôi bảo: Thật! Tôi lại nói thêm: Sứa cứ làm như hai đứa chúng mình đã thành vợ chồng rồi ấy! Cô ấy bảo: Người đâu có người chủ quan? Tôi bảo: Người đâu có người hay chối? Cô ấy nói: Thôi! Em sắp đi đây!

Phố vẫn mưa lâm thâm. Đôi lúc nó tạnh một chút. Rồi lại tầm tã, tầm tã. Căn buồng nhỏ rưng rưng lên. Như có một tiếng kêu cứu trong veo, thanh thanh. Tôi sắp đi đây! Tôi nhìn Sứa. Sứa nhìn tôi.

— Thật à?

Căn buồng im lặng đỏ.

— Chậm mất năm phút rồi.

Im lặng. Tôi đứng như một cột đèn mưa.

— Mười một rưỡi thì trạm em xuất phát.

Im lặng.

— Chúc Sứa... làm tròn nhiệm vụ...

Cô ấy nhìn tôi, sâu thẳm, tan nát.

— Trạm 999... anh nhớ chưa?

— Nhớ!

— Trạm 999 nhé. Ba con chín. Anh nhớ chứ?

— Anh có say nữa đâu? Ba con chín. Được. Nhưng mà hỏi tên ai?

— Sứa! Anh ngạc nhiên à? Em đã lấy tên ấy làm tên chính thức...

Cô nói rất điềm nhiên. Một thổ lộ thẳm sâu như thế! Cô chỉ hơi chơm chớp mắt. Người tôi chứa toàn điện, sóng sánh. Tôi bước tới bên cô.

— Để anh tiễn Sứa đi nhé.

— Không!

— Vấn đề nguyên tắc! Ta chia tay nhau ở đây thôi. Em đi nhé.

Tôi nắm tay Sứa. Cô ấy hơi cưỡng lại.

— Em đi nhé. Chậm mất tám phút của em rồi.

Tôi kéo Sứa lại. Một con nai trắng run run. Cô ấy không cưỡng. Ánh mắt dài bốc hơi, đôi môi hàm tiếu! Giá tôi hút nhụy đôi môi kia! Tôi nôn nao. Tôi kéo sát Sứa lại. Loay hoay thế nào mà tôi lại nói:

— Sứa có yêu tôi không?

Trắng bong, ngọn đèn vãi tung tia bạc. Căn buồng tròng trành: tôi bị hẩy ra! Nà nõn, con nai thoát khỏi vòng tay tôi, vút xa ra ba bước. Cô đứng run run...

— Thôi, em đi nhá.

Con nai thoắt đi như một tia sao. Sứa ơi! Vòng tay tôi trống không, một cô gái trắng đã bốc thành hơi! Tôi vụng về quá. Giá tôi cứ húp đôi môi tôi vào đôi môi hàm tiếu ấy! Sứa ơi! Đại lộ mưa lâm thâm... Em đi be bé, dài đùi... Hào mưa, hố mưa, chiến lũy mưa... Em ơi... Đêm đầu chiến tranh... Tôi ngồi trong màu đỏ bàng hoàng căn buồng đỏ. Lát sau, tôi đã lại đâm đầu vào phố mưa. Tôi đi vô mục đích.

* * *

Ba chúng tôi ngồi quanh một chiếc bàn lim tròn, quán Tím. Lâu lắm mới lại có một cuộc thù tạc tay ba thế này. Kỷ niệm tỏa quanh chúng tôi một quầng điện. Một tiệc rượu bất ngờ. Tôi vừa ở biệt thự Đá Đỏ ra thì gặp Bướng với Tùng Xòe giữa quảng trường mưa. Chúng nháo lên đi tìm tôi. Tới nhà không thấy, Bướng đoán: “Nó lại chui vào cái biệt thự Đá Đỏ đấy thôi.” Hai thằng bèn kéo đến: chúng định mời cả Sứa đi một thể. Cũng may tôi gặp chúng nó trên quảng trường. Đi đâu bây giờ? Đêm mưa thế này, chỉ có ra Cổng Bắc! Quán Tím là thú vị nhất! Ý kiến của Bướng! Cô Xinh chả đi làm tầm đêm. Cu cậu rỗi. Còn Tùng Xòe thì ít lâu nay gần như bị chúng tôi bỏ rơi. Nào ai muốn thế? Bướng đi với cô Xinh của nó. Tôi đi với người-hy-vọng của tôi. Thế là để lại Tùng Xòe bùng nhùng một mình trong cõi mông-mênh-dở-hơi của nó. Ấy là nói theo danh từ của Bướng! Một thứ dở-hơi-nâu, bù xù bờm xờm.

— Còn mày nữa! Bướng bảo tôi. Húc vào boong-ke. Mày có vỡ đầu, cả làng chả ai thương.

— Chưa đến nỗi phải khóc!

Quán Tím bốc hơi men. Chỗ nào cũng chum, cóng, ang sành, vại sứ. Hàng trăm thứ rượu. Xếp lù lù cả lối đi, hành lang, khắp quán. Ngoài kia mưa rơi tím dầm dề, lê thê. Đêm đầu chiến tranh! Ba thằng say. Không ai nhắc đến, mà kỷ niệm cứ quầng lên bốn xung quanh. Không khí bấu vào chỗ nào, cũng rung động. Tình bạn ba chúng tôi đã kéo một lèo trên vài trăm cây-số-tích-tắc. Những tích tắc ấu thơ, với những giận dỗi chốc lát, những đùa nhả vô tư, những bóng mây thoáng qua, và sự đằm thắm bền chặt. Chúng tôi lại sắp tử sinh có nhau trong một cuộc chiến tranh nhoe nhoét máu. Câu chuyện ba đứa lúc này cứ nhảy như hươu đực. Tin tức mới nhất. Phán đoán đường tiến binh của địch. Trêu nhau. Ngoài kia mưa phùn mười hai giờ: những cuộc hành binh sấp mải. Những đổ vỡ be bé trong các cuộc đời, trong các thói quen.

— Thằng Kềnh đi rồi!

— Thằng Thạch cũng đi rồi. Lúc nãy tao gặp hai vợ chồng nó ở quán Hút. Vợ nó làm một cân ruốc bỏ vào ba lô chồng.

Bàn xa xa, góc quán có một ông như nhà triết học, râu xồm, tóc bù, đang ngồi nhấm nháp một mình. Xế bên, có ba anh như kiểu kỹ thuật viên gì đó. Họ cứ vừa uống, vừa vẽ nguệch lên mặt bàn những hình kỷ hà với những con số. Còn thì toàn là những chiếc bàn vắng. Một thứ vắng hút đi, có mùi mưa phùn và mùi chiến tranh. Đúng vậy, tôi ngửi thấy mùi binh sĩ ra trận, những đoàn quân lội bùn. Mùi những chiến trường tanh. Hình như chia ly cũng có mùi thì phải? Tôi nói ý nghĩ đó ra. Bướng nói: Ừ! Mùi “thối”! Tôi nói: Mẹ mày! Nó cười. Vò rượu sành chuyền tay. Chúng tôi uống bằng bát. Những cái bát bằng đất nung.

— Lúc nãy bu Sứa mày thế nào?

— Cảm động.

— Nhưng nó có cho mày “hít” không?

— Bố mày!

— Còn cái thằng này nữa? Bướng vỗ vai Lùng Tùng Xòe. Phải tìm lấy một “bu” đi chứ? Xông bừa đi. Chứ đợi á? Con nào nó đưa đến tận mồm cho mày mà đợi?

— Chả có món nào mà xông!

— Lên phố Hàng Gà thì thiếu giống!

Tùng Xòe ngoác ra một nụ cười nâu, hồn nhiên. Mà Bướng nó nói vậy, không phải hoàn toàn chỉ để đùa không. Cái tên phố mới trớ trêu chứ? Đầu phố có một trường kiến nữ sinh. Giữa phố cả một khu nhà nữ công nhân. Thanh niên lượn quanh phố suốt ngày. Xưa kia đó là cái chợ gà vịt. Bướng ta hồi trước chả mấy chiều không đến phố Hàng Gà. Về sau nó đậu vào cô Xinh, thì thôi. Ai nhắc lại chuyện cũ, cu cậu thẹn:

— Hì! Nghĩ đến cái hồi ấy... Hì... Chả khác một con chó dái! Có thằng chỉ đi qua đường thôi mà nước dãi rỏ thành vệt, suốt phố.

— Mày đấy chứ thằng nào?

— Thì là tao... Hì...

Không khí cái quán Tím rùng rùng những sóng men, sóng kỷ niệm. Với một thứ sóng gì đó: đêm đầu chiến tranh. Ngoài kia, Cổng Bắc vẫn phun màu tím man mác của nó, pha nhòe trong mưa. Tưởng như đã vào thu. Mà cái mùa đìu hiu ấy cũng chẳng còn xa gì. Một vò nữa đây! Men ngấm một giờ khuya. Chúng tôi nhất định đánh ngã đêm đầu chiến tranh ở lòng quán rượu này. Một vò nữa! Men ngấm hai giờ. Quán vắng. Tôi nghe những tiếng động nhốn nháo một làng động binh đêm. Quân đi. Óc ách mưa rơi. Không biết Sứa của tôi đang nghĩ gì? Đôi chân be bé, đường ra mặt trận... Mới chỉ lúc nãy thôi, hai đứa chia tay. Thế mà như đã lùi về thế kỷ trước. Cái giờ trong chiến tranh! Nó nhồi, nó nén bao nhiêu tích tắc trong một tích tắc. Sứa ơi! Trạm ba con chín ở đâu? Ở một địa đầu heo hút nào? Tôi mặc kệ Bướng với tâm tư của nó. Mặc kệ Tùng Xòe! Mưa rơi cheo chéo cửa quán từng vật tím nhòe, tím sáng, tím trong, tím hoa heo... Sao đêm nay tôi ích kỷ thế này? Trong đổ vỡ chung, tôi chỉ loay hoay nhiều nhất về sự đổ vỡ be bé của riêng tôi. Tôi nóng ra trận. Nóng sôi lên được. Nhưng một phần cũng chỉ vì cái “ba con chín” quái ác. Biết đâu chả gặp? Dù sao cũng nhiều khả năng gặp gỡ hơn. Không nữa thì cứ đi về phía ấy, cũng ấm ruột! Những ki lô mét nhớ! Tôi có thể thu ngắn được bao nhiêu ki lô mét nhớ! Tích tắc! Tích tắc! Mưa phùn đêm chiến tranh đầu vùi ba đứa chúng tôi trong nấm mộ dầm dề của nó. Ba cái mặt bự rượu... Làng mưa... Chúng tôi nghe những lối chân hành binh. Quân đi một đêm nay, ước chừng phải hơn một vạn. Trai gái các xưởng, các công trường. Toàn là binh thợ! Chưa đến lượt chúng tôi. Quán mưa ba giờ. Cả một làng động binh mưa... Chúng tôi ngồi ngốn những tích tắc ướt át, đang trôi dần về phía rạng đông...