← Quay lại trang sách

PHÒNG TUYẾN CHÈM

Đêm hôm qua, ba chúng tôi đã nằm ở phòng tuyến Chèm...

Công sự đã đào xong. Có cả mái che. Mưa mà chỉ lăn phăn như thế này thôi, chúng tôi sẽ không ướt. Phòng tuyến chìm trong bóng tối. Thời tiết muốn sang thu. Nhìn ra ngoài công sự, chỉ thấy công sự. Và mưa phùn. Tất cả bồng bềnh trong bóng đêm.

— Tùng Xòe, mày ngủ sớm thế? Kiến Ngựa hỏi. Tổ Ngựa, tổ Xích với tổ tôi cùng một khuỷu chiến hào.

Tùng Xòe không đáp. Nó trải bạt lăn ra ngủ.

— Đêm qua, chúng tao thức trắng. Tôi nói. Ba chúng tao uống rượu suốt đêm ở quán Tím.

— Thế đã lấy gì làm mệt? Kiến Ngựa nói. Nó xòe cả hai bàn tay ra. Tao: mười đêm trắng rồi nhé! Mười đêm liền.

— Công tác gì mà mười đêm liền?

— Hì... Nó cười ngoác. “Tư tác”... Vợ tao ý mà... Hề! Chị chàng biết tao sắp đi, chị chàng gỡ...

— Mẹ mày! Bướng chửi đùa. Lại đi đổ cho vợ!

— Thật đấy! Hề... Chúng mày không biết! Vợ tao, cứ là đêm bảy ngày ba.

Kiến Ngựa nhe cả bộ hàm to sều. Khuỷu chiến hào cười rộ. Chỉ có kiến Hỏa là không. Trong cái anh chàng ngồi đĩnh đạc kia kìa, toàn thân màu lửa, vẻ mặt khôi ngô... Kiến Hỏa đấy! Đó là chân ra-đi-ô của khuỷu hào này. Tính nó nghiêm, nhưng không khắc nghiệt. Nó hiểu được cái vui tếu của lính, và mọi trò tục tĩu khác, nhưng nó không tham gia.

— A lô! Này tổ Gầy! Hỏa truyền đạt. Lệnh của bác Rỗ: mười hai giờ đêm tổ cậu đi cuỗm tài liệu sống.

— Rõ.

Phòng tuyến địch ở trước mặt chúng tôi kia. Khoảng cách khoảng ba dặm. Chúng đã đóng đinh hạ trại từ ban trưa. Ban chiều, lữ đoàn chúng tôi mới tới bèn tức tốc lập phòng tuyến. Hai bên mặt đối mặt, gầm ghè. Một vài cuộc xô xát nhỏ nổ bép xép, đó đây. Tứ phía trong đêm, phập phồng những đống lửa. Mưa phùn lăn phăn.

— Ta cắt gác đi, Kiến Xích đề nghị.

— Cậu cắt! Tôi đáp.

Ba tổ ghép thành một tiểu đội. Tôi: tiểu đội trưởng, Xích: phó. Tiểu đội chúng tôi giữ khuỷu hào này. Tiểu đội 1, khuỷu hào 1! Đây như một cái đồn ải tiền tiêu. Công sự mới chỉ gọi là để tác chiến. Chứ để ở thì chưa ổn. Chúng tôi sẽ sang sửa dần. Cả một ngày hành quân cấp tốc. Lại đào hào đắp công sự cấp tốc nữa.

— Cậu nào mệt thì nói nhé! Kiến Xích đứng giữa hàn cắt gác. Mặt anh chàng tứ thời đỏ ối. Cái tên kiến Xích thật không ngoa. Người ta còn gọi anh là kiến Mặt Đỏ. Anh là phân đội trưởng một phân đội khẩn hoang. Anh thửa một đôi rìu nặng, bóng loáng. Đôi rìu ấy đã tung hoành ở mạn rừng phía Bắc làng chúng tôi. Anh đã đánh đổ từng vạt rừng cổ thụ. Một thứ “thanh niên nghìn cây”! Người ta nói anh ta nóng tính, nhưng bộc trực, khá nhiều lúc võ đoán, nhưng mà cả quyết và chắc chắn.

— Cậu nào mệt cứ nói. Để tôi còn liệu cắt đặt.

— Tôi mệt.

— Tôi mệt.

Binh sĩ nhao nhao lên. Cả tiểu đội mệt? Để mà trêu tiểu đội phó chơi thôi!

— Vậy tức là một đều, Xích nói nghiêm nghị. Thế thì ta cắt gác đều vậy!

Tiểu đội cười ầm...

Ban sáng, bình minh bắt gặp ba chúng tôi đứa thức, đứa ngủ, ở quán Tím. Đài phát thanh gọi cảm tử quân tập hợp ở thị sảnh. Chúng tôi vùng đi. Ngáp ngang ngáp dọc mấy cái ngáp sặc mùi rượu, chúng tôi đâm bổ vào phố mưa. Cả một làng động binh. Trống đánh bùng bục. Chúng tôi tới thị sảnh không sớm, không muộn. Người ta lĩnh các thứ quân trang quân dụng. Người ta trút bộ áo thợ, vận bộ áo vẽ.

— Đổi lốt!

— Không! Đổi cả ruột nữa!

— Tao không đổi.

— Đấy rồi mày xem.

Lính mới nhìn lính mới. Cả một làng động binh mưa. Thị sảnh ồn ào. Những sự nhầm lẫn của giấy tờ. Những trò gian lận và đánh tráo các kiểu.

— Bá Phình!

— Có tôi!

Một anh bé loắt choắt, mặt bấu ra sữa, chạy vào hàng ngũ lính cảm tử.

Bảy phút sau, một thanh niên khổng lồ, to như cả một cổng làng, chạy xộc vào thị sảnh:

— Ơ kìa? Sao mãi chưa gọi tôi?

— Tên đồng chí là gì?

— Bá Phình!

— Gọi rồi thôi!

— Đâu?

Có thánh mà moi đâu ra được cái anh bé choắt lậu tên lúc nãy. Lĩnh quân trang rồi! Đi rồi! Đi với sư đoàn 72 ấy!

Ba chúng tôi biên chế vào đội cảm tử của lữ đoàn 999. Lữ đoàn bác Phó Nhất chỉ huy. Đội cảm tử chúng tôi: trăm hai! Bác Rỗ làm đại đội trưởng. Đại đội cảm tử trực thuộc lữ đoàn. Người ta sẽ dùng nó vào những nhiệm vụ đặc biệt. Những nhiệm vụ cảm tử.

Tôi vui lộ ra mặt. Lữ đoàn ba con chín mà! Thế tức là chúng tôi ở gần nhau. Tôi sẽ tìm Sứa khi nào có thể. Tôi sẽ tạo ra cả cái có-thể ấy nữa. Hai đứa cùng ở một phòng tuyến! Lại cùng một lữ đoàn! Thế là của hiếm có lắm, phải không? Số mệnh xem ra có nhiều tây vị tôi. Nếu tôi là số mệnh, khỏi phải nói, tôi sẽ tây vị ra mặt đối với những người yêu nhau.

Không khí của thị sảnh lúc ấy! Mưa rơi lăn tăn trên mái sành, cột sành, các khối sành. Cả thị sảnh to mập khắc vào ký ức người ta. Lính đông như nêm. Anh thì giờ đủ mọi mẹo để được đi. Kẻ ngược lại, giả ốm. Làng kiến tiễn biệt nhau. Nước mắt của các cặp tình tang! Một ngày mưa phùn như thế này. Tiếng gọi nhau. Tiếng cười. Tiếng trống đập bùng bục.

— Anh Bướng ơi! Anh Bướ...

Các tiếng động chen chúc nhau, xóa lẫn nhau. Kết cục chỉ còn lại một tiếng ồn ào chung. Nhưng không! Những cặp trong cuộc, họ thích lạ. Họ nghe thấy tiếng nhau bằng gân, bằng trực giác thế nào ấy! Đó, Thằng Bướng nó nhìn Đông, ngó Tây. Nó gạt tẽ mọi người ra mà nhìn.

— Anh Bướng ơi! Cô Xinh chạy nháo nhào. Cô vừa ở xưởng sữa ra. Nghe đài gọi cảm tử quân, cô hớt hải chạy ra thị sảnh. Anh Bướng ơi...

— Đây! anh đây! Một anh chàng mặt xanh như chàm đổ nhận vơ. Kìa! Hí!

— Anh Bư-ớ...

— Xi-i-i-nh...

Họ ngã vào tay nhau giữa cảnh chợ vỡ.

Cô Xinh khóc. Áo lính vải dày, nước mắt thấm... thấm... Suốt cuộc hành quân, Bướng đi như cái tàu bò sục cả đất! Hơi tí nó đã cáu.

Chúng tôi đốt một đống lửa trong chiến hào. Mưa phùn, kiểu mưa thu rồi.

— Hề... Kiến Ngựa cười. Nói ra chúng mày lại bảo vợ chồng ngựa. Hề... Lúc ở thị sảnh ấy! Thấy còn sớm, tao phóng tốc ngay về nhà. Vợ tao nó cười. Hề... Chúng tao tranh thủ luôn.

— Đồ chó!

— Hai lần nhé. Tao phi ra thị sảnh. Tạo lĩnh quân trang quân dụng. Đơn vị chưa xuất phát. Tao lại phi về. Hề! Vợ tao nó lại cười. Thế là ba lần nhé!

— Mẹ mày! Bướng chửi.

— Lần này, vợ tao nó theo tao ra. Lúc ấy bác Rỗ đang huấn thị. Tao lén vào vị trí. Hề... Đáng lý đi... Ma-ay quá! Bác Phó Nhất gọi bác Rỗ. Thế là đơn vị đợi. Lúc tám giờ ấy! Chúng mày không biết à? Hề... Vợ tao nó lại cười. Chúng tao kéo nhau vào chỗ chuồng xí gần đấy. Hề... Bốn lần nhé!

— Tiên sư mày! Câm!

— Hỏng! Vợ mày ở nhà thế thì hỏng!

— Việc gì mà hỏng? Hề... Cái ấy thì... thì... bao giờ nó chả thế? Hề... Có mòn đi đâu mà hỏng? Hề...

— Trần đời có thằng trơ như mày là một.

Đêm chiến hào ren rét. Tôi với Bướng đi ngủ, đi ngủ mười hai giờ chúng tôi sẽ mò sang phòng tuyến địch. Tầm đêm của chúng tôi! Mưa phùn... Nhìn ra ngoài công sự, chỉ thấy: công sự! Và đêm...

* * *

Tiểu đội tôi có một cô “nữ-sinh-đực”.

Tức là kiến Lý ở tổ Ngựa. Còn đang đi học. Cu cậu ỏn ẻn quá con gái. Da trắng, mặt trái xoan, giá mà lên kịch đóng vai nữ phải biết! Ối anh mê.

— Sao cậu chưa ngủ?

Tôi tỉnh dậy thấy kiến Lý ngồi bên đống lửa.

— Nhớ nhà hả? Lý thẹn, má đỏ ửng.

— Rồi nó quen đi. Ai chả nhớ?

— Không.

— Thế sao? Đi ngủ đi.

— Không.

— Thế sao? Phải giữ sức chứ!

— Tôi đề nghị cho tôi sang tổ khác!

— Tố nào chả thế?

— Không.

Má Lý đỏ ửng. Tôi gặng mãi, Lý mới nói:

— Kiến Ngựa nó đểu lắm.

— Đểu? Nó rất tốt.

— Lại còn tốt? Nó... nó... lắp đít...

Hờ! Tai vạ! Mẹ cha cái thằng! Tôi không ngờ có chuyện ấy. Lý lịch của kiến Ngựa? Công nhân vận tải. Lao động tiên tiến. Luôn luôn có thành tích vượt tải. Ban chỉ huy đoàn xe nhận xét: Có tinh thần trách nhiệm và dũng cảm. Khuyết điểm: Sỗ sàng! Có vậy thôi. Suýt nữa tôi phì cười.

— Thôi được! Để phê bình sau. Khuyết điểm sinh hoạt mà. Kiến Ngựa nó tốt. Đúng vậy! Cậu sang tổ Xích mà ngủ? Hay tổ tôi cũng được?

— Tôi sang tổ anh vậy!

Nửa đêm rồi. Vẫn mưa phùn. Vầng trăng mười chín đã mọc. Ánh trăng tai tái, nhòe mưa...

— Dậy! Bướng! Xòe! Tầm đêm, tầm đêm... mau lên... Tôi rờ phải một cái lò than. Tùng Xòe ốm. Trên bốn mươi độ chứ không ít. Nó cứ ú ớ ú ớ bất tỉnh nhân sự.

— Dậy! Dậy! Gọi y tá mau! Tiểu đội phó Xích đánh thức Hỏa.

— A lô!

Tỉnh ngủ như kiến Hỏa có là một. Hình như nó vẫn nghe thấy mọi thứ trong khi ngủ. Ngỏm dậy, nó đã làm việc ngay lập tức. Tỉnh như sáo.

— Cậu ngủ có một nửa người thôi hay sao?

— Một góc chứ chả được một nửa! Đài tôi nó vẫn làm việc.

Cái anh chàng ra-đi-ô ấy. Suốt về sau này cũng vậy, anh ta chỉ như treo vào giấc ngủ bằng một sợi tơ.

Loáng cái những anh em thức trong tiểu đội vừa thấy tôi với Bướng lao đi, đã thấy hai đứa quay về hào: hai tên Đầu Beo giãy giụa trong nách Bướng. Người ta đem trao chúng cho đại đội. Cơn sốt Tùng Xòe vẫn hầm hập. Dọc đường giải địch về hai chúng tôi đã tìm lá xông cho Tùng Xòe. Đó mới là việc khó hơn việc cuỗm tài liệu sống. Chúng tôi chỉ nhớ mang máng mặt lá. Chúng tôi cứ hái bừa phứa. Cả mặt hồ lá. Thằng tàu bò quắp hai tên Đầu Beo. Tôi quắp hai bó tướng lá xông. May mà kiến Xích lại thạo về món lá này. Nó chọn lấy một ít. Còn thiếu thức gì nó bằng đi hái thêm. Tôi đun nồi xông. Bướng lăn ra ngủ.

Lục sục một lát thế nào, kiến Lý lại từ tổ tôi bò ra đống lửa. Má Lý đỏ ửng.

— Thế nào?

— Anh Bướng anh í cứ ôm tôi. Không thở được!

— Hì... Ai bảo cậu giống nữ sinh? Thôi? Sang tổ Xích mà ngủ vậy?

— Tổ chó nào cũng thế! Kiến Lý bực. Tôi đến chết thôi.

— Cậu ngủ ở đống lửa này vậy! Mai rồi khoét một cái hàm ếch mà ngủ riêng.

— Cũng không được!

— Không được!

— Sao?

— Tôi mà ngủ riêng, thế nào thằng kiến Ngựa nó cũng mò sang...

— Hở!.. Tôi phân vân... Hờ... Bảo vệ cậu thế mà khó hơn bảo vệ gái tân. Để tôi tìm xem có cậu nào “đứng đắn”...

— Hay... hay... tôi ngủ với anh? Kiến Lý nói, đôi má đỏ ửng.

— Tôi á? Tôi cười phá lên. Ngủ với tôi, cũng không đảm bảo...

— Trông anh đứng đắn thế kia cơ mà?

— Hà! Nhưng mà cậu lại giống nữ sinh quá! Có Bụt cũng chưa chắc đảm bảo.

— Tôi chết mất.

Xông cho Lùng Tùng Xòe là một việc ra việc! Cứ như phải xông cho cả một quả đồi. Bồ hôi nó toát hàng chậu. Nhưng rồi cu cậu khoan khoái. Một tảng nâu quay về phía kiến Xích cười:

— Phiền quá...

— Vẽ! Xích nói. Ngủ đi.

Mưa rơi lăn phăn trên phòng tuyến Chèm. Những đống lửa phập phồng, nhòe mưa.

* * *

Ba giờ đêm, có tiếng hò hét inh ỏi bên phòng tuyến địch, về phía Tây Bắc, một ngọn lửa bốc đỏ lừng. Quân ta bò sang đột phá trại giặc. Chúng tôi thì cứ mong cho chúng bò sang. Nhưng chúng không dám.

Bắt đầu từ nay đổ đi, phòng tuyến Chèm chúng tôi sẽ “làm việc” suốt. Tầm đêm, tầm sáng, tầm chiều. Sẽ chả lúc nào ngơi tay ngơi chân. Mắt tôi thao láo trong hầm tối. Khó ngủ quá. Tôi rờ trán Tùng Xòe. Mát rồi.

— Cậu đi đâu về thế?

Kiến Ngựa nhảy chồm từ ngoài vào hào.

— Hề...

— Nói thật đi! Tôi bò ra đống lửa.

— Hề...

Mặt tôi đanh lại, tôi đứng như một kỷ luật sắt.

Im lặng.

— Bò vào làng, phải không?

Im lặng. Một im lặng thú nhận.

— Tôi... tôi mò vào làng...

— Làm gì?

— Tôi... tôi nhớ nhà tôi!

— Hiếp hả?

— Không! Cô ấy đồng ý... Ban chiều đi lĩnh cơm, tôi bấu cô í một cái. Cô í cười...

Im lặng.

— Nhân danh cảm tử quân, tôi không cho phép những việc ấy tái diễn nữa!

— Rõ.

— Cậu tự nhận một kỷ luật! Nghĩ đi!

Im lặng.

— Thế nào?

— Tôi xin một mình xông vào phá trại giặc.

— Đấy không phải là kỷ luật!

Im lặng.

— Tôi cảnh cáo cậu! Dù sao, cậu cũng đã thú nhận. Không nói dối! Kỷ luật sẽ chỉ có tôi với cậu biết!

— Rõ! Cảm ơn tiểu đội trưởng.

— Kiến Lý sẽ về hầm cậu! Tuyệt đối không được mó máy gì tới Lý nữa! Rõ chưa?

— Rõ!

Kiến Ngựa lao về hầm.

Tôi vẫn không tài nào chợp mắt nổi. Kiến Lý nằm bên tôi, mơn mởn, quay mặt vào tường hầm. Nữ sinh... Hờ... Lý nằm tin cậy, hơ hớ ra. Phòng tuyến Chèm mông mênh. Tôi không biết Sứa của tôi ở góc nào. Hào giao thông. Hầm. Công sự. Mưa phùn phòng tuyến Chèm. Đêm thứ hai của chiến tranh. Tôi điểm binh lại các giờ phút, các tích tắc. Ờ! Mới đêm thứ hai thôi à? Cả một dòng sông tích tắc, bao nhiêu, bao nhiêu. Em... Em... Lý ú ớ cái gì? Một cái đùi nõn gác lên người tôi. Hình như Lý gọi Hiên? Hay là Hiền, Hiến? Chắc một cô nữ sinh nào đó! Oái oăm! Hai cánh tay non non của Lý ôm lấy tôi, ghì miết tôi trong giấc mê. Khỉ! Hóa ra tôi thành một cô nữ sinh bung xung thế này à? Tôi gỡ Lý ra. Lý chợt tỉnh. Thẹn quá, kiến Lý quay mặt vào tường hầm. Vẫn đám cháy đỏ lừng bên phòng tuyến giặc.

Bên này: phòng tuyến Chèm, quân ta ngủ kềnh.

* * *

Bình minh đến với chúng tôi ướt át, chạng vạng. Mưa phun phì phì. Mây mắc lổn nhổn trên các chạc cây, các nóc gác, các khối quân sự. Cứ như những cụm bông bẩn. Quân ta đã láo nháo xẻng cuốc, tốp đào hào giao thông, tốp đào hầm ở.

Phòng tuyến Chèm trong ban ngày mới thấy nó dữ. Ầm ầm như một khu công nghiệp nặng. Một cái lò sát sinh khổng lồ lộ thiên. Máy móc đen nhẻm, cua-roa chạy xè xè, răng cưa, biên, trục thép. Hình thế mỗi khu mỗi khác. Khu Thánh Gió kia kìa... Cứ như một đàn máy cày, máy húc, máy đục núi. Cờ lệnh phất, cả đàn máy ấy sẽ đâm xình ra, sục nát hàng vạn giặc.

— Chơi vào! Bướng tức cảnh, văng ra một tiếng thách.

— Đừng chủ quan!

Ở hào số 2, vang vang một câu chọc ngang.

— Thằng nào đấy?

— Tao! Ngược Đời đây!

— À! Mẹ anh! Ngỡ ai? Không xuống mà đào hầm đi à? Vắt vẻo trên ấy làm gì?

Các tiểu đội đều đang lem luốc đào hầm. Lính ta gọi thế là “xây nhà”. Có anh khoe: “Biệt thự của tao đây?” Anh khác mẽ hơn: “Lâu đài hàm ếch này! Chúng mày trông này!”

Riêng kiến Ngược Đời chẳng chịu xây nhà xây cửa gì hết. Nó vắt vẻo tít trên ngọn cây đa.

— Mày không xây nhà, đừng hòng ai cho ở nhờ! Người ta dọa nó.

— Tao không thèm.

Mỗi chúng tôi phải moi khoét lấy một nhà. Ba bốn nhà xúm xùm nhau thành một tổ. Ba bốn tổ xúm xùm nhau thành một tiểu đội. Cứ thế, trên phòng tuyến Chèm, dần dần mọc lên chi chít những xóm, những ngõ, những phố dọc phố ngang.

— Mẹ mày! Xuống mà xây nhà đi! Bướng vừa làm, vừa chửi vắt sang tiểu đội 2. Ngược Đời ở tiểu đội 2 bên ấy, ở tổ anh Thông mặt trắng.

— Tao không xây.

— Tư tưởng mày! Mày chỉ lăm le chạy. Bỏ phòng tuyến Chèm này hử?

— Tao không chạy.

— Thì thể hiện ra đấy! Tư tưởng tạm bợ.

— Tao không tạm bợ.

Nơi cuốc nơi xẻng, í a í ới. Không ai để ý tới Ngược Đời nữa. Cái tính nó! Nó cứ phải làm khác mọi người, nó mới thích. Vì, làm như tất cả, tức là: xoàng! Dạo còn ở công trường khai hoang ấy! Hễ chúng tôi vác gỗ thì nó quắp. Chúng tôi quắp, thì nó lăn. Chúng tôi lăn thì nó kéo. Người nó trông như con trăn xồm.

— Mày nhìn cô kia xem? Đẹp chưa?

— Đẹp lộ liễu thế mà đẹp? Đẹp-lô-liễu tức là xấu! Ngược Đời dều mồm ra.

— Hôm nay vui ghê.

— Xô bồ chứ không phải vui.

Về mục gì mà nó không có ý kiến khác mọi người thì nó khổ lắm. Một lần, người ta mới nó ăn tiệc. Đủ thức sơn hào hải vị. Ai cũng khen: nào thơm, nào ngon.

— Thơm gì? Hắc thì có!

— Các thức món này, có ngon cũng chỉ là ngon một cái mùi vị quen thuộc. Thường cả rồi!

Chủ nhà đã bố trí trước. Người ta bưng lên một món gọi là “thủm-thum-thum”. Thôi thì đủ các thức thiu thối, đem trộn cả vào, xào nóng lên.

Cả bàn tiệc bịt mũi, khạc nhổ.

— Thối quá!

— Như cứt thế này?

Kiến Ngược Đời vồ lấy cả cái đĩa ấy.

— Xin phép quý vị! Nó ngửi.

— Cái mũi của quý vị! Khí vô phép, chính các vị mới là ngược đời.

Nó ăn. Nó khen lấy khen để:

— Mùi vị khác thường! Khác thường.

Bàn tiệc không thể cáng đáng nổi cái mùi vị khác thường ấy. Người ta phải “cách ly” nó sang một bàn riêng. Nó ngồi lắc lư ngốn sạch cả đĩa.

— Hiếm có! Mùi vị độc đáo! Khác thường.

Mưa rơi lăn phăn trên một xóm mới lập. Lính ở xa nhà, khen nhau, chê nhau.

— Xoàng hết!

Mọi người ngước nhìn lên ngọn đa. “Hừ! Hờ!..” Một cái nhà treo, trên kia... Vòm lá xanh đậm, rèm rủ tua rua bốn xung quanh bằng các thứ rễ, ở trong thấp thoáng một chiếc võng điều.

— Khớ! Mẹ bố cái thằng này! Thế mà khớ! Bướng thét khoái trá.

— Chưa xong nhé! Ngược Đời nói vọng xuống. Đấy mới là phòng ngủ! Còn phòng khách! Còn phòng ăn!

— Ừ! Cứ làm xong cái phòng ăn đi! Tao sẽ thưởng cho mày cái món “thủm-thùm-thum”.

Cô y tá đại đội đến, võ phục, béo nây, mặt tròn như cái đĩa. Cô đi đến đâu, lính cứ rú lên đến đấy.

— Khéo mà lún cả hào của người ta ra bây giờ?

— Bở thế?

— Nhờ chị lăn hộ anh em cái chỗ đất này! Một “thí” thôi mà...

— Bở thế?

— Chị Thà ơi!

— Xẻo cho tôi xin tí thuốc mỡ.

— Đừng hòng!

Có anh vạch cả rốn ra, cứ nằng nặc đòi chị Thà “quệt” cho một tí “thuốc đỏ”. Chị gái mà công tác với lính thì phải biết! Đẹp cũng khổ, xí cũng khổ.

— Anh Tùng Xòe đã đỡ chưa anh?

— Chết nghẻo rồi còn hỏi, Bướng đáp.

— Thái độ anh nhé!

— Ừ...

— Khỉ gió cái anh này!

Tùng Xòe đã yên vị trong căn nhà mới. Chúng tôi khoét cho nó. Căn nhà to, màu da lươn. Tùng Xòe nằm lẫn với màu hầm. Cơn sốt đã lui, để lại một khối nâu một thứ đắng miệng, chê cả cháo.

— Sốt ác liệt đây mà, chị Thà chẩn bệnh.

— Có phải khiêng đi bệnh xá không chị? Bướng hỏi. Ở đây chị biết đấy, vị trí tiền tiêu.

— Để xem xem hẵng.

— Tôi bận phân phối công tác cho tiểu đội. Phải dựng chòi viễn tiêu cao hơn nữa. Hào xuất kích chưa nhẵn.

— Chị đừng chần chừ. Địch nó đến bất thần. Người ốm nằm đây: chúa bất tiện! Bướng nằn nì. Nó lo cho Tùng Xòe.

— Để qua ngày hôm nay xem sao hẵng. Nếu anh ấy không sốt nữa, thì thôi.

— Không! Chị cứ cho anh ấy đi viện đi. Địch nó không đợi anh ấy khỏi nó mới đến. Kìa! Thế nào chị?

— Hơi tí đã tống lên trạm, trạm sẽ phê bình tôi ỷ lại.

— Tùy chứ! Vị trí tiền tiêu cơ mà? Hay là... Ừ. Thế này vậy! Chị cứ cho tôi sẵn giấy giới thiệu. Hễ anh Tùng Xòe lên cơn sốt nữa, chúng tôi sẽ khiêng thẳng đến trạm.

— Anh có biết địa điểm không?

— Chị vạch đường cho tôi.

Một cái giấy giới thiệu, Bướng đã nắm được, cùng với đường đi. Cu cậu nhảy chồm ra khỏi hầm. Tôi đang cùng anh em sửa chòi viễn tiêu. Cái chòi cao ngất.

— Êu ơi! Chòi tướng đâu mà phải dựng cao thế?

Bướng đứng dưới thét lên tôi. Miệng nó cứ tủm tỉm.

— Gầy à! Xong chưa? Tao bảo.

— Lên đây mà nhìn này! Tôi trêu nó. Bướng này! Trông thấy cả phố Hy Lạp!

— Mẹ anh! Được rồi, đã thế, ông không cho cái này nữa!

Nó cứ tủm tỉm.

— Gì thế?

Nó vẫn tủm tỉm. Không bao giờ nó giữ được một điều gì bí mật. Điều bí mật cứ tủm tỉm trên mặt nó.

— Mẹ mày! Đây này! Nó giơ cái giấy lên. Bu mày ở đây này! Trạm ba con chín đây này!

Mưa phùn phì phì hoa cà hoa cải. Một cái màng phớt hồng, phớt hồng bọc lên màu đen tái xám của phòng tuyến Chèm. Tôi đứng sững trên chòi. Một cú hạnh phúc. Tôi bị một cú hạnh phúc. Choáng quá!

— Thôi anh! Xuống đây! Còn làm bộ!