← Quay lại trang sách

TÁC CHIẾN

Chúng tôi chưa kịp đưa Tùng Xòe đi trạm, đã có tin địch đến.

Đó! Kèn nhạc í e, cờ bát quái, thống chế Híp dàn quân loang lổ cả cánh đồng Chèm. Tên tướng chột mắt ấy! Nó cứ lấp ló các cửa trận, tay cầm kiếm lệnh, tóc xõa, miệng cười thé lên như phun dơi. Quân của nó dàn ra theo hình trận: một đàn hổ! Lúc nhúc những hổ xám, hổ vàng, hổ vằn. Con to, con nhỏ, chúng nhe móng vuốt, khiêu chiến.

— Kiến Lý.

— Có tôi.

— Cậu bảo vệ hầm anh Tùng Xòe.

— Rõ.

Kiến Lý xách chiếc cuốc chim thon nhọn tới ngồi ở trước hầm Tùng Xòe. Các đơn vị gấp rút chuẩn bị tác chiến.

Sư đoàn Thánh Mưa xuất hiện. Trống đánh thùng thùng. Bác Phó Nhất đứng đỏ ối chòi tướng. Quân ta dàn theo hình trận! Máy húc! Cờ xí nghiêm chỉnh, đỏ hồng. Những chiếc máy húc đen trùi trũi, gầm gừ tiến ra cánh đồng Chèm.

— Tổ anh Thông! Chọc đúng yết hầu đại đội Hổ Đen!

— Rõ!

Ngược Đời múa đôi dao quắm, vừa tiến vừa hét:

— Thế này thì thắng đến nơi rồi còn gì?

Anh Thông, tức kiến Mặt Trắng, hoa mũi thuốn, như hoa ngọn thương bạc. Trông kiến Mặt Trắng đi giữa trận! Đúng là tung hoa vãi tuyết. Ngược Đời đi bên trái. Kiến Tửu đi bên phải. Kiến Tửu sử một đôi vồ nặng, bằng đồng hun. Cái anh chàng bét rượu ấy! Hắn đi giữa trận, chân nam đá chân xiêu, mặt đỏ gắt.

Trên tháp cảm tử ông Thiên Lôi kiến Rỗ đứng với Choắt ra-đi-ô. Cờ lệnh chỉ trỏ. Choắt theo lệnh cờ đánh sóng điện đi. Các tổ chiến binh như những chiếc lò xo bị nén, chỉ chực bật tung.

Trên cánh đồng Chèm, máy húc quần nhau với đàn hổ. Trống đánh thùng thùng. Các tổ cảm tử được tung đi bất thần xộc vào những huyệt hiểm yếu, những huyệt hớ hênh của địch. Chỉ một tổ chiến binh bé bắt thế thôi. Một mũi khoan, một mũi kim. Đúng! Nhưng nó mà chích đúng huyệt xem? Đó! Tổ Thông đã chồm lên cổ đại đội Hổ Đen. Mũi thuốn của Thông xiên xoáy vào bản doanh đầu não. Con hổ đen lồng lộn, cuống cuồng. Đại đội Hổ Đen giãy đành đạch. Nó rống chết giữa cánh đồng Chèm.

Tổ tôi ế chắc? Bướng phanh cả cổ áo, lộ hẳn một cái cổ tàu bò.

Nhưng mà kìa! Cẩn thận! Đại đội Hổ Vằn gầm lên, lọt qua ba cái máy húc. Nó phóng xốc tới hào 1. Cẩn thận!

— Chị Thà! Đứng đấy làm gì?

— Em xem.

— Vào!

Cô nữ y tá miễn cưỡng chui vào hầm Tùng Xòe. Cô thò cái mặt béo phì ra cửa hầm, nhòm.

— Bướng! Lên!

— Có ng-ay!

Đại đội Hổ Vằn xoe móng chồm tới. Bướng quai ra một búa, huỵch! Trúng sọ! Máu vọt ra gờ hào, cả đại đội Đầu Beo họp xúm lại.

Một trận giáp lá cà.

Cưa tôi xoèn xoẹt một đường máy. Kiến Ngựa với đôi ma-ni-ven 6 của nó! Nó lồng lên “bao sân” suốt từ đầu hào tới cuối hào. Kiến Mặt Đỏ đánh rìu, chắc nịch. Trống đánh thùng thùng. Đại hội Hổ Vằn đó! Chỉ còn trơ lại có bốn tên, chúng chạy bán sống bán chết.

Tôi xoẹt một cưa: một thằng Đầu Beo đứt đôi, ngang đầu gối!

Lạ lùng! Chỉ còn có độc đầu gối trở lên, mà nó vẫn chạy! Một trăm mét nó mới đổ!

Mẹ nó! Chết rồi mà nó vẫn chạy được? Bướng gãi đầu gãi tai. Cái quân này! Nó lấy chạy làm đầu à?

Sư đoàn Thánh Mưa đã dùng máy húc húc chết từng đống đại đội hổ! Cánh đồng Chèm ngang ngổn những xác hổ đen, hổ vàng, hổ xám. Trống đánh thùng thùng. Bên địch bỏ chạy. Quân ta truy kích mãi tận trại giặc mới quay về.

* * *

Những xâu ếch tù binh Đầu Beo. Lính ta dắt chúng đi trong hào. Người ta đã bẻ cụt gươm chúng. Mưa phùn. Tôi xách bộ cưa tanh ngòm máu về. Cái cảnh rã đám, lính đi tốp năm tốp ba, lung tung. Gọi là quân hồi vô phèng! Có anh mò ra chiến trường “bóc lột” xác chết. Phòng tuyến Chèm hoen hoen những vệt máu. Thương binh đi trong hào với những cánh tay, những cái đầu bông bằng. Chín giờ.

— Xóm bên ấy thế nào?

— Chu toàn. Bên ấy bị kiến Tửu phỏng?

— Xoàng thôi!

Kiến Tửu bị một gươm toạc trán.

— Hì! Lúc ấy tôi mới thật tỉnh rượu! Hì...

— Đáng kiếp!

Kiến Ngựa cõng Lùng Tùng Xòe đi trạm ba con chín. Xòe lại lên cơn sốt. Khổ thân cái thằng! Nó cứ van anh em:

— Tôi không đi viện đâu!

Kiến Ngựa cõng nó dọc đường bị nó chửi suốt. Lúc quay về, kiến Ngựa đem khoe tiểu đội một cái bật lửa Đầu Beo.

— Tao đổi rượu cho một thằng tù binh.

Cái bật lửa có hình một cô Đầu Beo truồng. Kiến Ngựa bấm vào vú cô ta: ngọn lửa vọt xòe ra ở háng.

— Mẹ mày! Hay lắm đấy!

— H-ừ...

Phòng tuyến Chèm xình xình những khối máy của nó. Cua-roa, trục thép. Mỗi khu trận mỗi việc. Có khu trận đang sản xuất. Quân đội chúng tôi sản xuất ngay trên chiến trường. Một màu chàm đêm tái mét bao phủ tất cả. Mưa phùn.

Thình lình, ba pháo hiệu nổ. Khu trận màu xanh tái chuyển động. Sư đoàn Thánh Mật đùng đùng xuất binh. Cờ bay đỏ ối. Cả một đoàn máy bừa, tua tủa răng nhọn, lừng lững tiến sang trại giặc. Mười giờ. Trống đánh thòm thòm.

— Tổ nào xung phong? Tôi đứng giữa hào, bộ của chưa kịp chùi, vài giọt máu rỏ xuống thấm đất.

— Tổ tôi!

— Tổ tôi!

Kiến Xích, kiến Ngựa đều đòi đi. Bướng cũng không chịu:

— Tổ nào đi tôi cũng theo. Tiểu đội tôi, theo lệnh, chỉ được cử đi một tổ.

— Tổ Xích đi! Tôi quyết định. Bướng ở nhà.

Kiến Ngược Đời nằm trong võng điều trên ngọn cây. Nó hát om cả lên. Bài hát nào bất cứ hay dở nó cũng cố tình hát ngược lại. Nó mới hát được ba câu, sư đoàn Thánh Mật đã ầm ầm thu binh về, đầu lâu đại tướng Xồm cắm trên một chiếc chạc sắt.

Kiến Mặt Đỏ xuất hiện ở đầu hào, máu chảy ướt đẫm một bên vai.

— Bị thương ở đâu đấy?

— Khỉ thật! Vào ra các cửa trận không sao, về đến đây mới bị.

— Sao?

— Kinh nghiệm nhé! Đi qua chiến trường “Tầm sớm” kia kìa. Mình thấy một thằng quan ba Đầu Beo bị thương nằm trên! Chính sách mà: mình cúi xuống, định quắp về! Mẹ nó! Không tránh nhanh thì cụt đầu với nó rồi.

Chính sách của chúng tôi: cứu chữa cho cả thương binh địch.

— Cho nó về chầu tổ rồi chứ?

— Còn phải nói!

Tôi băng cho Mặt Đỏ. Vết chém sạt mất một miếng vai.

— Anh em thế nào?

— Chu toàn cả. Đang về.

— Có khá không?

— Khá lắm.

— Cậu nào nổi nhất?

— Kiến Chạc Sắt. Thanh niên công trường ấy. Nó phóng chạc sắt có một cái, tan cả một trung đội.

— Kiến Lang thế nào?

— Mình cứ lo nó chậm. Ai ngờ! Nhanh đáo để. Nó vừa nhận điện, vừa đánh xà beng, nhanh thoăn thoắt.

Kiến Lang là tay ra-đi-ô. Mặt cứ như củ khoai hà. Ngồi đâu, đứng đâu cứ lì ra, con ruồi bậu mép không buồn xua.

— Còn kiến Xẻng cũng mạnh lắm. Bác ta nhảy vào bản doanh đại tướng Xồm đầu tiên đấy. Phải cái là bác ta hơi chậm. Có nhẽ vì con mắt kèm nhèm.

Kiến Xẻng là công nhân đốt lò ở Viện thuốc Trường Sinh làng tôi. Chúng tôi gọi là: bác! Năm nay bác đã xấp xỉ lão niên. Thế mà cũng cảm tử quân, chả kém gì thanh niên. Khổ cái là đôi mắt bác bị kém, vừa toét lại vừa cận thị. Chúng tôi định là sẽ đề nghị lên đại đội giao công tác khác cho bác thích hợp hơn.

Ban trưa, tôi, Bướng với Hỏa, đi với sư đoàn Thánh Lửa. Những cái máy ngoạm màu đen tái, nhanh như tia chớp. Những đại đội Hổ Xám, Hổ Đen, Hổ Thọt chạy rống bái công.

Trại giặc hỗn loạn, xéo lên nhau mà chạy. Tổ tôi chồm vào đại bản doanh thống chế Híp. Vỡ tổ...

Trận Thánh Lửa này vang dội nhất trong ngày hôm ấy. Bác Phó Nhất đích thân chỉ huy. Phòng tuyến Đầu Beo bị sạt hẳn một góc, sém thui đi như bị sét giáng.

Trống đánh thòm thòm suốt ngày. Mưa phùn. Chúng tôi tấn công liên tiếp.

Phòng tuyến giặc vỡ không kịp hàn. Nhưng sao mà chúng đông? Chúng tôi chém mãi vẫn không thấy vợi. Xế chiều, bên ta lại làm thêm một chầu. Tổ Ngựa xin đi. Tôi gật. Kiến Ngựa cười nhe cả bộ hàm to xù. Sư đoàn Thánh Mộc dong cờ xuất trận. Mưa chiều lăn phăn đỏ ối trên màu cờ lụa hồng.

* * *

Tôi vừa lên báo cáo đại đội về. Hoàng hôn mưa nhập nhoạng. Tôi bước xăm xăm trong đường hào.

Bác kiến Rỗ đến biểu dương tiểu đội chúng tôi. Bác vừa nghe tôi báo cáo vừa chùi lưỡi tầm sét bết máu. Người bác còn khét mùi trận.

— Hôm nay mới chỉ như thể đánh làm quen thôi, cậu Gầy ạ! Phải chuẩn bị một tinh thần tác chiến bền bỉ, liên tục. Cậu ngồi đây.

Bác kiến Rỗ là tướng hổ thật đúng! Cái không khí chỗ bác nó có cái gì uy nghiêm, làm người ta nể sợ. Nhưng đồ đạc cần thiết lại hết sức sơ sài. Một chiếc bàn rộng bao la màu đỏ, bốn bức tường đỏ. Một tấm bản đồ to. Bác Rỗ chỉ cho tôi biết tình hình các mặt trận.

— Thế đấy! Tình hình chung, cậu thấy thế nào? Không lấy gì làm lạc quan lắm, phải không? Hừ...

— Các làng bị bất ngờ. Tôi đáp. Chúng ta thiếu chuẩn bị.

— Vì vậy!

Tôi theo bác Rỗ trên bản đồ. Những thành trì bị mất. Những phòng tuyến vỡ. Địch ồ đi như thác. Lác đác đã có một vài làng đầu hàng địch, không chiến đấu. Và đó, sự xuất hiện cứu tinh của phòng tuyến Chèm.

— Mệnh lệnh của ủy ban quân sự: chôn chân toán đại quân Đầu Beo ở đây. Bác Rỗ giơ một ngón tay mập xù: một tuần! Anh hiểu chứ?

Tôi gật. Tôi hiểu. Cho đến lúc này, nói chung chúng tôi vẫn chưa hiểu gì. Chúng tôi hộc tốc đến đây, để làm nhiệm vụ của người lính. Vì vậy chúng tôi vui. Giản đơn như vậy. Lữ đoàn chúng tôi là một lữ đoàn mạnh. Chúng tôi càng vui. Sư đoàn Thánh Gió, Thánh Lửa, Thánh Mưa, Thánh Mật, Thánh Mộc. Năm sư. Bây giờ thì tôi hiểu.

— Một tuần! Bác Rỗ đi đi lại lại trong trướng hổ. Tưởng như một ông Thiên Lôi ở đâu lạc vào đây, với lưỡi tầm sét còn khét khói. Nếu chúng ta có một tuần? Chúng ta sẽ có hết. Chúng ta sẽ củng cố được những chỗ xung yếu. Chúng ta sẽ lập được hàng lữ đoàn! Hàng quân đoàn. Và, đây này! Tôi nhìn lên bản đồ, tôi gặp một rặng núi tía trùng điệp với những thung lũng hồng, những cánh đồng son. Đây này! Một tuần thì phòng tuyến này sẽ xuất hiện! Đấy mới là phòng tuyến chứ! Phải không? Thiên niên vạn đại.

Tôi hiểu. Cái phòng tuyến phía Đông ấy! Sự hối-bất-cập của ba mươi chín làng. Xưa kia, người ta cho là không cần thiết, là đề phòng thừa. Bây giờ làng nọ trách làng kia. Địch tiến các ngả. Thế giặc mạnh như hùm. Chúng đốt phá, chém giết thả sức. Từng đoàn gái non bị chúng bắt về trại. Lột truồng, chụp ảnh. Phòng tuyến Chè vỡ. Phòng tuyến Lủ bị đánh quặt sau lưng. Thế phòng ngự liên minh các làng lung lay! Người dân ba mươi chín làng ngó nhau, bồng bế nhau, bỏ chạy tán loạn.

Mới chưa đầy ba ngày!

Ở làng Me, câu chuyện mới thảm! Mới buổi trưa hôm kia thôi. Trời nắng gắt. Bọn Đầu Beo gom tù binh các nơi lại, được một trung đội. Chúng trói ghì cánh khuỷu tất cả, lại còn xích thêm ở chân rồi đem áp giải ra bãi chợ.

Trước đó, bọn lính đã xách gươm đi các xóm. Chúng sục vào từng nhà, lùa dân ra chợ. Có đến một ngàn dân, đa số là các cụ già. Bọn Đầu Beo bổ vây bốn chung quanh, có đến hai ba vòng gươm. Bãi chợ trần trụi không cây. Nền đất vàng như da bò. Nắng gắt.

Trên nền đất bãi chợ, đã đào sẵn những cái lỗ to. Cứ bốn thằng Đầu Beo xúm lại kéo một chiến sĩ đã bị trói gò như vậy. Chúng bỏ vào lỗ. Đoàn tù bị chôn sống. Nhưng chỉ chôn tới cổ thôi. Đó! Trên nền đất vàng bò đã lấp nhẵn, lố nhố nhô lên những cái đầu trọc lốc. Có bộ mặt còn trẻ không. Nhiều bộ mặt trung niên. Nhiều bộ mặt thợ vuông vức, với những nét khỏe, bạnh hàm.

Tên quan ba Đầu Beo lấy roi quất lằn cả mặt họ. Họ vẫn không thèm chửi bới hay rên la. Đám đầu lâu trọc bị phơi nắng hàng giờ. Bà con đứng quanh chợ khóc thút thít. Tên quan ba vẫy tay, xì xồ cái gì? Thân nó cao dỏng, khô đét như con mắm.

Bọn quân hầu khiêng tới một đống đai sắt tua tủa gai, các cỡ.

— Chửi đi! Hay là khóc cũng được. Quan lớn sẽ tha cho!

Những bộ mặt bình thản vẫn lạnh lùng.

Thế là đai sắp chụp lên đầu. Hai tên đao phủ lực lưỡng thít chốt vòng đai lại. Máu rỉ loang những bộ mặt thản nhiên.

Bà con che mắt quay đi. Có người ngất bên rìa chợ. Tiếng khóc như ri. Vòng đai sắt, các cỡ, cứ thay nhau mà riết thủng thái dương những bộ mặt bình thản. Máu tràn sân chợ. Trời nắng chang chang. Dân làng đã xô đi xô lại mấy lần vẫn không thoát chạy được khỏi bãi chợ Diêm La này.

* * *

Bác Rỗ đi lại trong trướng hổ.

— Chặn đại quân Đầu Beo ở đây lấy hai ngày thôi! Đừng nói một tuần! Bác Rỗ cười. Hơn sáu chục vạn quân Đầu Beo cái mũi này! Với các thứ đại tướng, tiểu tướng... Hừ... Một tuần? Một tuần là việc không thể? Chúng ta sẽ làm được cái việc không thể ấy. Đó! Tôi nghếch tại về phía tiếng trống. Đó! Sư đoàn Thánh Lửa lại xuất binh. Cậu Gầy về ngay đi. Cậu dẫn một tổ tới gặp sư đoàn trưởng Lửa nhận lệnh! Tầm đêm của cậu! Các tổ khác phải ngủ lấy sức. Rõ chứ?

— Rõ!

Bác kiến Rỗ lao qua trướng xuất trận. Trống đánh thòm thòm. Suốt ngày hôm nay, trận nào cũng có mặt ông Thiên Lôi với lưỡi tầm sét bốc khói. Tôi phóng giữa đường hào. Đụng phải ai, mặc xác! Chứ lính mà cứ xin lỗi lính ở đây, chậc, hết cả thì giờ.

* * *

Kiến Xích gặp tôi ở đầu khuỷu hào tiểu đội 1.

— Có một ông đợi anh mãi. Bảo là nhà báo.

— Nhà báo?

— Ừ, ông ấy biên ra những tờ nhật trình í mà.

— À.

Một người béo lùn, trắng nần nẫn đang ngồi cạnh đống lửa. Thế mà kiến Xích gọi là ông? Thanh niên chứ già đâu? Anh ta đang nói chuyện với lính.

— Chào anh! Tôi là kiến Gầy. Anh đợi tôi một chút nhé? Bướng với Hỏa chuẩn bị đi với tôi. Tầm đêm. Cậu ở nhà phổ biến cho tiểu đội nhé? Tôi nói với kiến Xích. Ba điểm. Tôi vừa nói vừa buộc ghệt. Một! Tình hình chung khá bi quan. Nhưng chúng ta, ngược lại vẫn lạc quan. Lủ vỡ, Me mất, Ngắm mất, Chè vỡ, Sồi, Đào đầu hàng. Nhưng ngay ở những phòng tuyến vỡ, ở những thành trì mất, chiến sĩ ta vẫn lạc quan.

Kiến Xích gật:

— Được, đã có cậu sản xuất nhật trình ở đây rồi.

— Hai! Nhiệm vụ phòng tuyến Chèm là một nhiệm vụ cứu tinh! Ta sẽ cản đại quân Đầu Beo ở đây. Một tuần lễ! Để mà vực lại tình hình. Chủ yếu để cho phòng tuyến phía Đông đủ thì giờ xuất hiện. Đấy mới là phòng tuyến bền vững, không gì lay chuyển nổi! Nhưng nếu vỡ phòng tuyến Chèm trước một tuần, sẽ ngay lắm! Không thể có phòng tuyến phía Đông. Đã đành! Còn nguy hơn nữa! Bác Rỗ bảo: sẽ coi như phăng teo! Phăng teo!

— Điểm này, cậu nhật trình cũng đã nói lúc nãy.

— Ba! Tôi vuốt nếp quần áo, phủi một cái bụi bẩn trên bộ cưa sạch bóng của tôi. Ba! Các tổ thường xuyên sẵn sàng tác chiến. Mỗi người sẽ tự săn sóc lấy sức khỏe, cái ăn, cái ngủ của mình. Của bạn mình! Phải tranh thủ mà ngủ! Chỗ ở sửa sang cho tử tế. Bình thường hóa sinh hoạt chiến hào, nhưng vẫn võ phục mà ngủ. Lính Lửa phải là một người lính toàn diện. Ăn ngủ ra trò, đánh ra trò. Đánh thông một lèo năm ngày, bảy ngày, mười ngày.

— Rõ.

— Xong thì xua anh em đi ngủ ngay chứ?

— Được.

Đêm đổ xuống các chiến hào, từng xe bóng đen. Mưa phùn. Đống lửa phập phồng.

— Anh lại sắp đi hử? Cậu “Nhật Trình” nói với tôi. Được! Ta tranh thủ chớp nhoáng một tí thôi mà. Cậu Nhật Trình bèn giở ngay một quyển sổ ra, và bút. Tôi đã hỏi anh em cả rồi. Tôi chỉ cần hỏi anh một điểm.

Hai chúng tôi ngồi bên đống lửa. Trống đánh thòm thòm.

Một tí thôi của các bố Nhật Trình ấy! Cái gì các bố ấy cũng hỏi. Tí mà tỉ mẩn.

— Lúc ấy anh nghĩ gì?

Tôi đáp tào lao cho xong. Tôi chỉ còn không đầy mười phút nữa.

— Lúc ấy anh nghĩ gì?

— Tôi nghĩ...

Câu Hỏa gọi tôi... Anh chàng Nhật Trình thì cứ ghi lia lịa, làm cho cả một trang giấy. Mỗi lần tôi nói: “Lúc ấy tôi chả nghĩ gì cả”, bộ mặt béo tròn của cậu Nhật Trình lại đờ ra, mồm há, có vẻ thất vọng, hay tiếc một mất mát gì.

— Thế lúc về sau... anh nghĩ gì?

— Tôi nghĩ... thôi! Để lúc khác anh nhé!

Hỏa lại gọi tôi.

— Bác Rỗ bảo anh không phải gặp sư trưởng Lửa nữa. Cứ đi thẳng ra khu trận Nam. Các đơn vị Lửa sẽ đánh ở đó, tổ anh cứ xộc thẳng vào trong. Đột phá đằng sau lưng địch.

— Được. Càng hay. Cậu chuẩn bị bùi nhùi đi.

— Tôi chuẩn bị rồi, chỉ thiếu diêm.

— Hờ... Có cậu nào có diêm không? Tôi hỏi tiểu đội. Họ đang đứng ngồi rải rác.

Kiến Ngựa quăng ra cái bật lửa cô Đầu Beo truồng:

— Đấy, các cậu xem? “Con bé” này thế mà cũng được việc đấy chứ? Hề-ề .. Đừng đánh mất của tôi đấy nhé.

Cậu Nhật Trình có vẻ khoái cái “con bé” ấy, cứ bấm “thử” mãi. Mặt thừ ra không biết đang “nghĩ gì”? Bấm bảy tám cái rồi, cậu ta mới đưa cho Bướng, mồm phùng ra một tiếng chửi:

— Mẹ chúng nó!

* * *

Sư đoàn Thánh Lửa xuất binh lần này theo hình trận lò lửa.

Các chiến sĩ tiếp cận xong xuôi, mới cùng bật hồng lên nhất loạt. Hàng trăm lò lửa đỏ xông bừa vào trại giặc.

Các tổ cảm tử đã mò tít vào sâu lòng giặc từ trước. Tố tôi gặp một khu Đầu Beo đang chè chén và nhảy đầm truồng. Kèn nhạc í e. Kiến Hỏa đặt bùi nhùi tẩm xăng vào những mái trại, kho lương. Chúng tôi ngậm tăm trong bóng tối. Nghe tiếng trống trận nổi bên ngoài, Bướng bèn bấm nút “con bé”. Hàng chục đám cháy hậu địch bốc rực lên cùng một lúc. Ngoài kia cũng đã bắt đầu cháy lừng. Hai tuyến hỏa công.

Trống đánh thòm thòm.

Một cuộc hỗn chiến khổng lồ giữa một rừng lửa.

Đó! Một tên quan tư Đầu Beo mặt vằn đang hoa đao giữa một vòng vây năm chiến sĩ Lửa. Nó vừa đánh vừa thét, không chút sợ hãi. Những đứa khác chạy xéo lên nhau mà chết.

Một chiến sĩ Lửa, một mình, vác rìu đánh đuổi cả một đại đội Hổ Vàng đang chạy rống lên như một ngọn đuốc sống.

Một đại đội Hổ Đen cuống cuồng, chạy quanh, rồi bỗng dưng gầm thét đâm bổ vào một lò lửa, giãy đành đạch.

Tổ tôi xông xáo giữa cảnh Diêm La, tay vung ra thành đám cháy.

Bị một xà beng của kiến Hổ, một đại đội Hổ Trắng rống lên, chạy băng băng qua một trại lửa về phía một đại đội Hổ Xám: hai đại đội cắn xé nhau, kêu thét ầm trời.

Lửa bốc lừng lừng. Lính Lửa xuất hiện khắp các cửa trận, mặt đỏ bóng, lem luốc như những thợ lò.

Bướng phanh hở cả một khối ngực, vừa quai búa vừa thét:

— Lính Lửa đây! Ông tổ chúng mày đây!

Xác những tên Đầu Beo nằm cháy thui, khét lẹt. Người Bướng be bét máu:

— Lúc này, chúng mày “nghĩ gì”? Bướng cười sặc sặc. Nghĩ gì thì nhớ lấy! Kẻo rồi mai ông Nhật Trình ông í khảo, lại quên! H-à...

Cái thằng tàu bò ấy! Nó cứ luôn mồm. Búa nó đánh tung từng khối Đầu Beo.

— Ông tổ Lửa chúng mày đây!

Trống đánh thòm thòm.

Chúng tôi vào ra các cửa lửa. Bỗng dưng Bướng thét:

— Kìa! Gầy kìa!

— Cái gì?

— Bu mày kia kìa... Bướng thét vào tai tôi. Còn vờ?

Tôi lách một tia mắt qua rừng binh khí. Lửa cuốn ngồng ngồng. Sứa! Một bộ võ phục đỏ nịt dán vào thân, đùi dài, cô nữ cứu thương đi giữa các đám cháy, tay bé cầm một cái lá chắn bằng đồng.

— Sứa ơi!

— Anh Gầy!

Chúng tôi chạy xé tới nhau. Tôi nhảy qua lửa, gạt bay hàng tá kiếm...

— E-m...

— Anh!

Ngảnh đi ngảnh lại, đã không thấy Sứa đâu... Một hổ vằn ngoác mồm, nhảy chụp lưng tôi! Tôi quay lại, né ngang. Con hổ vằn vồ hụt, tôi xoẹt một cưa: tên Đầu Beo đứt đôi, đầu lìa khỏi cả!

— Khốn nạn! Bướng mắng tôi sa sả. Sơ ý thế à? Nó xốc đến, đá văng đầu lâu hổ vào lửa. Nó hút chết thay cho tôi. Khốn nạn...

Chúng tôi lại vào ra các cửa trận. Hàng nghìn đám cháy. Lưỡi lửa liếm rát mặt. Những thợ đốt lò lem luốc, mặt đỏ bóng.

Tôi nhìn thấy Sứa bốn năm lần nữa. Bộ võ phục đỏ, núm lá chắn bằng đồng, Sứa xuất hiện giữa các cửa trận, các cửa lửa. Sứa cõng thương binh.

Sư đoàn Thánh Lửa lui binh.

Chúng tôi để lại đằng sau, cả một khu trận khét lẹt. Mưa phùn lăn phăn trên đám cháy khổng lồ, quãng đã thành tro, quãng còn rực lửa. Hàng vạn giặc bị chôn sống. Mưa phùn lăn phăn. Đó đây quằn quại những xác sém thui của các đại đội giặc.

* * *

Trống đánh thòm thòm.

Vừa bước tới khuỷu hào 1, tôi đã thấy một đám cháy khác. Tít xa kia... ở khu trận mé Bắc của địch.

— Sư đoàn Thánh Mật rồi!

Đống lửa phập phồng giữa xóm tôi. Bướng dốc túi ra, loảng xoảng một đống bật lửa. Mấy chục cái. Nó đã nhặt ở lòng trận.

— “Con bé” của thằng Ngựa đâu? Kiến Xích hỏi. Ở nhà, nó cứ thấp thỏm mãi, chỉ sợ mất.

— Tao quẳng bố nó đi rồi. Bướng chia bật lửa thành mấy đống.

— Cho tổ Xích này! Đống này cho tổ Ngựa. Đống này cho vào kho chung. Bật lửa thế này mới là bật lửa con nhà tử tế chứ!

Dứt lời Bướng chui vào hầm, đặt mình xuống đã ngáy bằng sấm.

Trống đánh suốt đêm trên phòng tuyến Chèm. Trống canh. Trống nghi binh. Trống trận nữa. Mưa phùn. Tổ Ngựa đi với sư đoàn Thánh Mật rồi phỏng? Tôi chùi bộ cưa ròng ròng máu.

— Đi rồi... à, cả Tùng Xòe nữa! Cu cậu trốn viện ra. Mặt còn hốc hác. Cu cậu khăng khăng đi với tổ Ngựa ngay.

— Sao cậu không giữ lại?

— Nó cứ khóc mếu, sụt sịt. Sốt cả ruột!

Tôi ngủ ngay bên đống lửa.

— Xóm bên ấy tầm đêm, cứ ngủ đi! Tiểu đội 2 nói vọng sang. Chúng tớ gác cho!

Chân trời cháy đỏ lừng. Mưa phùn.

Kiến Xích xách đôi rìu, dẫn tổ đi với sư đoàn Thánh Mộc. Khuỷu hào 1 còn lại mỗi tổ tôi, đang ngủ.

Xa kia đang giãy giụa những đoàn quân bị lửa thui.

Đánh sầm một cái, tôi ngỏm dậy: kiến Ngựa mình mẩy đầy máu vừa nhảy phốc về hào đã to tiếng ngay với Bướng:

— “Con bé” đâu? Giả tao đây.

— Bé với bỏng nào? Cái con đĩ ở truồng ấy mà báu gì? Vứt bỏ nó đi rồi!

Tôi thấy túi quần kiến Ngựa phồng tướng.

— Cái gì trong ấy?

Kiến Ngựa đành móc ra: cả một đống ảnh khỏa thân! Kiểu ảnh “con lợn”. Tôi ném cả đống vào ngọn lửa.

Tiểu đội cười ầm. Kiến Ngựa phụng phịu chui vào hầm, miệng làu bàu:

— Biết thế này... ông đéo đi lính, cho xong!

Trống đánh thòm thòm.

Sư đoàn Thánh Lửa lại ra binh. Lùng Tùng Xòe vừa đi với tổ Ngựa về, khét khói, lại hục hịch theo tổ tôi.

— Tao khỏi rồi.

Lửa cháy đỏ ối đêm. Mưa phùn. Bốn chúng tôi vác từng bó bùi nhùi. Sư đoàn Thánh Lửa lần này đi đốt khu trận mé Tây phòng tuyến giặc.