MỘT CHƯƠNG TRÌNH BE BÉ
Tôi mất nhiều thời giờ nhất ở phố Bồ Đào. Tức là cái phố cao lâu của làng tôi. Phố đẹp như tranh thủy mặc. Xanh mát, tím phớt, vàng ngà, hồng nhạt, màu nhòe với màu, cứ một hòa âm dịu mà đằm. Quán ăn tập trung ở đây, sang nhất, nhiều nhất, ngon nhất. Mỗi quán kiến trúc theo một lối riêng, thích hợp với sơn hào hải vị của nó. Quán có cầu son bắc cong trên hồ nước, quán có vườn chim. Tôi với Sứa đã từng đến đây: quán Gà Trống, quán Tóc Tiên Vàng... Dạo ấy, tôi không ngắm cảnh... hai đứa... Nhưng thôi! Kìa, lũy ôi là lũy!
— Những đống đất bôi bác thế này mà gọi là lũy?
Cuối cùng, tôi phải tập hợp cả năm lũy trưởng lại. Trong đó có anh Phệ, đội trưởng đội tự vệ phố. Đó là một cậu béo trục, thanh niên mà bụng đã xệ, toàn thân bốc ra một chủ nghĩa ăn uống bầy nhầy. Be rượu lúc nào cũng cặp kè người. Trông anh ta đã đủ thấy cả một cái làng Mận no nê, thái bình.
— Thế nào, Phệ? Tôi hỏi, với một giọng điềm tĩnh rắn đanh. Thế nào? Các anh tự do trình bày.
Họ nhìn nhau. Họ nhìn tôi. Tôi nhìn họ.
— Thế nào?
— Chúng tôi định... định... là... khi nào giao chiến ngoài cổng làng... trong này, chúng tôi đắp cũng vừa...
— Tại sao lại định thế?
— Chúng tôi tiếc... Họ nói rụt rè. Bức tranh lụa thanh thanh của phố. Chúng tôi tiếc...
— Tiếc? Được! Khoan cái mục tiếc ấy hẵng!
Tôi đặt giả thiết. Nếu địch chớp nhoáng phá cổng làng, ùa tới đây? Những cái lũy “thanh thanh” cũng chặn được chúng à?
—…
— Thế nào?
— Chúng tôi tiếc... Chúng tôi nghĩ chưa chắc địch đã đến...
— Chưa chắc? Các anh không nghe đài hay sao?
— Có.
— Sao còn chưa chắc?
— Vì... vì... đài lần nào cũng nói là địch tới sát nách.
— Đài nói đúng! Các anh không nghe thấy mặt trận chuyển? Bao nhiêu sư chính quy đổ về mạn này? Các anh không biết?
— Có. Vì vậy, chúng tôi càng tin, địch không vào được làng.
— Thế không phải tin. Thế là ỷ... Cái kiểu tin ấy có nghĩa đẩy các sư chính quy vào chỗ đơn độc.
— Chúng tôi định là ngoài cổng làng giao chiến, trong này chúng tôi đắp lũy.
— Lúc ấy có kịp không? Ai đảm bảo kịp? Ai bảo đảm không điều động các anh sang những lũy khác? Những nhiệm vụ khác? Những nhiệm vụ của lúc ấy... Lại chả rối như canh hẹ á? Các anh ngây thơ quá.
— Chúng tôi tiếc...
— Vì vậy! Cái tiếc ấy! Tiếc thì cố mà giữ. Đắp lũy cho ra lũy mà giữ! Đây là một phố chiến lược.
— Chúng tôi không biết.
— Dù không biết! Dù không phải phố chiến lược! Khi ta là lính, có điều quan trọng nhất ta cần biết là... Là gì? Các anh rõ không? Là: kỷ luật! Hừ... Tôi nói dài. Tôi sốt ruột. Cái man mác thủy mặc của phố này, tôi nhìn mà tiếc. Tôi càng sốt ruột. Tôi đâm nói dài. Hừ... Ta có nhiệm vụ giữ phố Bồ Đào! Ta là lính, phải không? Nhiệm vụ trao cho ta, ta nói: Rõ! Ta nghĩ: nhất định mình sẽ giữ được phố này. Ta nghĩ: dù đây là một phố xoàng, nhưng biết đâu chiến tranh lại chả quyết định ở các phố tầm thường này? Ta nghĩ: có khi ở cái ngã tư chả ra gì lắm kia, mà chiến tranh nó rẽ! Đúng thế đấy! Giữ được phố? Nó sẽ rẽ tới chỗ thắng! Mất? Nó sẽ rẽ tới chỗ bại, không thì cũng là chỗ nguy kịch! Thế! Ta nghĩ mình nhất định giữ được cái phố này! Ta nghĩ: làm thế nào mà giữ được? Ta nghĩ: mình cần hy sinh cái gì đây? Tôi nói dài. Tôi nói như dốc tâm sự. Đó! Các anh xem xem? Hãy tính toán chu đáo! Ta nghĩ: mình không nghĩ tới chết... Ta chỉ nghĩ: giữ phố! Ta nghĩ: mình sẽ phải dùng mình như thế nào, để mà giữ phố? Ta nghĩ: không có cái gì gọi là cái không thể, để mà giữ phố! Ta nghĩ: nhất định là mình sẽ giữ được cái phố này, nó là của mình, của mình! Ta nghĩ... Đó! Mặt trời đã mười giờ! Các anh xem xem? Chiến tranh nó không đợi ta thông, rồi nó mới đến. Ta đang bối rối thế này, tức là nó đến đấy... Các anh...
— Rõ! Họ cắt tôi... Tôi đang mạch nói... Họ cắt. Họ nóng ruột. Bài diễn-văn-tâm-sự của tôi tác động học thế nào? Có làm họ thấy lỗi không? Dù sao, họ đã bứt rứt, rậm rựt. Họ cắt tôi. Họ lao ra phố. Họ thổi còi tập hợp. Tự vệ đổ ùa ra. Đâu đâu cũng tự vệ. Trên kia là một mặt trời nhợt nhạt. Họ bắt tay vào việc. Tôi bê đất, kéo gỗ, cùng làm với họ. Tôi chạy suốt năm lũy. Tôi kiểm tra...
Trở về trước, các phố đầu đã đắp lũy đầy đủ. Cả phố Bồ Đào nữa. Nhưng mới chỉ là những thứ lũy-chờ. Lũy phòng sơ, thâm thấp, sơ sài... Những địa hình địa vật bất lợi cũng chưa phá. Có thể nói, trước đây, tất cả các phố đầu như mới chỉ thai nghén những cái lũy non, thiếu tháng. Mặt trận còn xa, làng tôi cũng mới chỉ đắp “xa xôi” những cái lũy ơ thờ như thế. Nhưng từ năm giờ chiều hôm qua, tình hình đột biến. Làng đã phải hạ xuống một mệnh lệnh xé ruột: phải hoàn chỉnh toàn bộ các chiến lũy. Không trừ một phố nào. Có gì đổ vỡ hơn không? Hoàn chỉnh một chiến lũy, tức là một mặt đắp lũy, một mặt phá sạch mọi địa hình bất lợi cho lũy ấy. Cái ngõ kia đâm vào mạn sườn lũy: lấp ngõ đi! Căn biệt thự xinh xinh màu liễu nhà ai kia? Nó có khả năng trở thành một vị trí bàn đạp, để địch uy hiếp lũy: thế là phải san bằng cái biệt thự vô tội ấy! Tất nhiên, người ta cố gắng phá hoại thật ít. Thật là tối thiểu cần thiết! Nhưng rồi, cái mức tối thiểu ấy nó có tả, hữu của nó, tức thì có phố rơi sang tả, có phố rơi về hữu... Đặc biệt phố Bồ Đào đây, nó đứng ở cực hữu. Tuyệt đối hữu. Vì dân tiếc cái vẻ thủy mặc nhòe nhòe của bức tranh cổ phố Bồ Đào, nên ba mươi tiếng đồng hồ rồi từ khi mệnh lệnh ban hành, chả ai phá lấy một viên gạch nhỏ nào hết! Cả cái phố vẫn đứng lành lặn và ngơ ngác giữa một đống phố bị thương loe loét. Bây giờ thì nó cũng đã bắt đầu cùng chung cái số phận tan hoang, như các phố khác xung quanh.
Trên: trời, dưới: tự vệ. Tôi chạy long đong các lũy. Tôi vác một súc gỗ lớn cho lũy 107. Làm thế nào mà ra thị sảnh được? Lũy 108! Cẩn thận! Con đường xuất kích phải nhẵn, cho nó nhanh. Cần phạt cái bụi trúc tím kia đi thì phạt! Mặt trời mười một giờ. Các xưởng các công trường tan tầm. Chúng tôi thì không. Chắc Sứa đang trên đường ra thị sảnh... Đây này, tôi chỉ lợi dụng cái mái hiên quán Gà Trống này này... Thế! Lấp hẳn cái cổng đá vẫn ấy đi! Các đồng chí đừng nên tiếc. Càng tiếc thì càng phải lấp cho kín hẳn đi. Chắc Sứa đã tới thị sảnh. Mặt trời mười một giờ rưỡi... Sứa tìm tôi khắp thị sảnh? Tự vệ nam, tự vệ nữ, họ làm hăng, mà không vui. Ấy, khoan! Đừng phá cái cầu thang ngà vòng cung này! Việc gì phải phá? Đây này, lượn cái lũy lên, ôm lấy nó... Thế! May quá, trông cái cầu thang như cái lưng gái tơ! Bảo vệ được nó rồi. Tôi nóng ruột... Sứa đi lại trên sân thị sảnh... Đừng làm anh nóng ruột. Đó! Đúng rồi! Cái lũy 109 đâm ngang lan can quán Tóc Tiên Vàng. Tôi nói. Nó đâm đúng tim cái chỗ tôi với Sứa ngồi ăn, buổi tối hôm nào. Đấy! Cứ đâm thẳng vào chỗ ấy! Thế! Phố Bồ Đào, đến lúc phải chọc bét nó ra thế này mới càng thấy nó đẹp. Nó đã đẹp. Tiếc. Màu sắc của nó, nhàn nhạt, màu hoa màu với những đường kỷ hà thanh thanh. Tiếc. Tôi mà bỏ ra thị sảnh thì hỏng. Tôi không đào ngũ được. Thế nào? Lũy 107? Các vị tiếc cái cầu Dải Yếm phỏng? Tiếc nó thì mất lũy đấy. Thôi! Tôi mất suốt trưa mất thôi! Các anh chị lũy 107! Tiếc nó thì phá nó đi... Nhắm mắt mà phá vậy. Lũy 109 gọi tôi à? Tôi lao đi... Mặt trời quá Ngọ. Nó lè lẹ vài tia nắng nhạt. Chúng tôi lem luốc. Chúng tôi quệt nhọ lên bức tranh thủy mặc phố Bồ Đào. Đó đây, phải chọc thủng, phải xé toạc ngang bức tranh. Làm sao? Sứa vào ra thị sảnh, ngó Đông ngó Tây. Lũy 109, làm sao? Cái mái cuốn xanh lờ lờ kia á? Để tôi xem xem hẵng... Sứa ra vào thị sảnh... Đây này! Không cần phá, đắp một con đường nhỏ án ngữ, chỗ này này... Đây... Sứa tìm tôi, ở sân, ở cổng thị sảnh... Tôi cố cứu cái mái cuốn xanh lờ lờ. Nhưng cái cầu Dải Yếm thì chịu. Mặt trời một giờ... Tôi lộn lại lũy 107. Nó ở đầu phố.
— Thế nào anh Gầm?
Gầm là lũy trưởng lũy 107. Một thanh niên cao lớn, với một cái đầu bờm, như đầu sư tử, với đôi mắt dữ tợn mà lại hiền, với đôi tay mãnh thú lúc nào cũng lắc một đôi chùy đồng đỏ.
— Thế nào? Tôi hỏi.
— Tôi không thể...
Anh chàng nhìn về phía cầu Dải Yếm. Cái cầu vẫn đó, màu lụa mỡ gà. Lũy 107 là lũy chiến lược của một phố chiến lược: nó đứng chắn ngã tư. Nó bảo vệ phố Bồ Đào, lại còn bảo vệ các khu Giữa và khu La Tinh. Bây giờ, lũy đã đắp cao như thành, trước mặt nó người ta đã phá trắng ra cả một cái ngã tư, hàng chục nóc nhà, với cổng, vòm cuốn, tường hoa, vườn thược dược, ngõ liêu..
Chỉ còn mỗi cái cầu Dải Yếm cong vút, mỡ gà, nó vòng đứng bắc cầu vồng trên cái ngã tư trắng phếch.
— Các anh không thấy à? Tôi chỉ. Thế kia là bắc cầu rước địch vào khu Giữa và khu La Tinh!
— Chúng tôi có thấy... Anh Gầm trả lời. Cái đầu bờm sư tử rùng lên.
— Vậy còn chờ gì?
— Tôi không thể... Để... để phút cuối cùng, tôi sẽ phá.
— Bây giờ là phút cuối cùng rồi.
— Có thật thế không?
— Thật!
Và tôi bèn đứng với tư thế nhà binh. Tôi nhìn thẳng, kiểu nhìn nhà binh. Tim tôi sống lên những xúc động nhà binh.
— Anh Gầm!
— Có tôi.
— Mệnh lệnh! Triệt cầu Dải Yếm! San bằng.
Gầm từ lũy đổ xuống. Bước chân sư tử phóng lún đất. Ra tới giữa ngã tư, anh chùn lại. Nhưng vẫn tiến. Đầu bờm cúi xuống. Đôi chùy đồng buông thõng.
— Tiến!
Cả cái lũy tự vệ nhìn theo Gầm. Có tia mắt rơm rớm, có người quay đi.
— Tiến!
Con sư tử chồm tới. Sầm! Sầm! Tiếng đôi chùy đồng va vào giữa sự bùng nhùng ngây thơ của các nhịp cầu. Đôi chùy mắc trong các đường cong. Tiếng chùy lịm đi, như tiếng nấc.
— Nhiệm vụ cần ba mươi tự vệ nữa! Tôi nói. Ai xung phong?
Các cánh tay giơ lên, khoảng bốn, năm chục... Tôi cho họ đi hết. Trên lũy còn độ trăm người. Họ nhìn. Tôi đứng như cái cột. Không ai vui. Búa, cưa, chùy, vồ, đục, xà beng, tất cả vùng vẫy, mắc míu trong tơ bòng cầu Dải Yếm. Không ai vui. Kỷ niệm rụng như lá. Thân cầu đó đây rơm rớm, xác lá héo xác kỷ niệm. Không ai vui. Tôi đứng như cái cột. Tôi không vui. Tôi đứng như một mệnh lệnh quân sự.
— Đồ nhẫn tâm!
Một chị tự vệ lao tới tôi. Tôi đứng như cái cột. Chị ta xỉa xói tôi. Tôi đứng như một mệnh lệnh quân sự. Chị nhảy choi choi, túm áo, cào mặt tôi. Tôi đứng như cái cột. Tôi không vui. Chị lấy ủng đạp tôi. Tôi đứng như một mệnh lệnh quân sự.
— Đồ nhẫn tâm!
Chị nấc to lên. Đang cào cấu, xỉa xói, bỗng dưng chị nấc, khóc òa lên, nép vào ngực tôi. Tôi vẫn đứng. Đến lúc tôi cúi xuống, đã thấy chị nữ tự vệ ngất, nép vào ngực tôi mà ngất. Tôi không vui. Không ai vui. Tôi bế chị nữ tự vệ định đưa vào cái quán gần đó.
— Phệ đâu!
— Có tôi!
— Anh thay tôi, chỉ huy triệt cầu.
— Rõ!
— Và đắp lũy theo kế hoạch đã định.
— Rõ!
— Mấy giờ xong?
— Sáu giờ tối.
— Chuẩn y sáu giờ tối. Tôi bế chị tự vệ ngất sắp sửa vào quán.
Bỗng Sứa xuất hiện từ khu Giữa, bước rảo tới. Sứa tới trắng tinh. Mặt trời một giờ rưỡi hoe hoe ánh sáng mùa đông. Sứa trèo qua chiến lũy. Tôi vào quán. Sứa theo tôi vào sau.
* * *
Tan buổi đào hầm, Sứa chạy thốc về nhà. Mẹ tôi đã ở đó, đang làm cỗ... Sứa vui quá. Mẹ gọi Sứa là “con dâu của mẹ”. Mẹ bảo: “Con không phải lo. Đã có mẹ chu tất...” Sứa ôm lấy mẹ. Sứa tắm. Sứa vận áo trắng. Sứa chạy biến ra thị sảnh.
Một con nai trắng đứng giữa buồng hành chính. Chỗ xin giấy, xin nhận thực. Chỗ khai sinh, khai tử. Chỗ khai kết hôn. Từng ki lô mét xếp hàng. Sứa đứng vào đuôi dòng kiến người khai kết hôn. Mặt trời mười một giờ rưỡi. Ai cũng từng cặp từng cặp cả.
— Cô này kết hôn một mình à?
— Không nên tò mò vào những việc không phải của mình... Sứa vừa cười, vừa đọc dòng khẩu hiệu trên tường. Mọi người cười vui vẻ.
Gian buồng cứ ồn cả lên những trình bày, những từ chối, cãi cọ...
— Tôi đã bảo bà về. Bà đứng đây đến tối, tôi cũng chịu!
— Nhưng... nhưng...
— Đây là chủ trương của trên!
Ở bàn đàng kia, ông thư ký già đeo mục kỉnh kia cũng nói vậy.
— Đây là chủ trương của trên!
— Ông linh động cho.
— Linh động thế nào được? Nguyên tắc là nguyên tắc!
Ở một cái bàn thứ ba, có một ông cụ xếp hàng nhầm. Anh thư ký mặt choắt bằng hai ngón tay cầm lá đơn của ông cụ.
— Cụ xếp hàng nhầm rồi. Việc này ở bàn bên kia cơ mà!
— Chết tôi rồi...
— Cụ sang bên kia mà xếp hàng lại.
— Chết tôi rồi...
Một thanh niên mặt vàng đứng trong hàng cất tiếng can thiệp:
— Cụ ấy xếp hàng từ tám giờ sáng. Đề nghị anh đưa đơn của cụ sang bàn bên kia vậy chứ.
— Không được!
— Người ta già cả. Lại bắt cụ ấy xếp hàng từng cây số nữa à?
— Nguyên tắc là nguyên tắc!
— Chết tôi rồi! Ông cụ cầm lá đơn, run lẩy bẩy đi.
— Thế có phải là chủ trương của trên không?
Anh thanh niên mặt vàng hỏi giễu gã thư ký mặt choắt. Hắn ta vờ như không nghe thấy tiếng, tiếp tục giải quyết chồng đơn từ. Lát sau, anh ta mới ngẩng lên, nói trống không với tất cả bà con.
— Bà con không thông cảm cho chúng tôi. Chúng tôi nào muốn làm rầy rà bà con làm gì? Nhưng mà nguyên tắc... nguyên tắc từ trên đề ra. Ai là Nguyễn Thị Bút đây?
Cái không khí hành chính ấy, Sứa lo! Sứa xếp hàng một mình, lọt thỏm giữa dòng kiến người xếp hàng đôi. Mặt trời mười hai giờ. Sứa lo, Sứa nghĩ: liệu anh có tới kịp không anh? Sứa nghĩ: chắc anh bận lắm nhỉ? Sứa nghĩ: nếu anh không ra kịp thì sao? Sứa lo. Mặt trời mười hai giờ rưỡi. Vừa đến lượt Sứa.
— Cô muốn gì? Anh thư ký ở bàn hôn thú này to béo, dừ, mặt nhẵn, đầu hói.
— Tôi khai kết hôn.
— Anh ấy đâu?
— Nhà tôi bận công tác.
— Nguyên tắc phải có mặt cả hai.
— Vì chúng tôi bận... Đề nghị đồng chí để tôi khai trước. Lát nữa nhà tôi ra khai sau.
— Nguyên tắc trên đề ra phải có mặt cả hai.
— Vì chúng tôi bận... Tình hình chiến tranh, anh linh động cho.
— Ai chả chiến tranh? Chị làm mất cả thì giờ của nhân dân. Nào, đến anh chị khác.
Một cặp tiến lên. Họ khai. Họ ký: anh thư ký vào sổ. Mai thì tên tuổi cặp ấy sẽ được niêm yết, trong một tờ niêm yết chung đặc những chữ. Qua một tuần, nếu không khiếu nại, họ sẽ chính thức là vợ là chồng, hợp pháp.
Sứa tức quá. Sứa đứng bên bàn trong khi anh thư ký đầu hói tiếp tục giải quyết các cặp khác.
— Chị có đứng đây đến mai cũng thế thôi. Nguyên tắc trên đề ra.
— Lúc nào tôi cũng nghe thấy các anh đổ cho trên.
— Chị này hay nhỉ.
— Chứ gì? Các anh làm việc. Các anh phải có trách nhiệm.
— Trách nhiệm chúng tôi là thi hành đúng nguyên tắc trên đề ra.
— Cố nhiên! Nhưng các anh cứ đổ cho trên. Nguyên tắc chung, các anh phải áp dụng linh động vào từng hoàn cảnh. Trách nhiệm của các anh...
— Ô hay cái chị này! Chị làm mất thì giờ của mọi người. Mời đồng bào...
Dòng người hình như khó chịu với Sứa thật. Nhưng Sứa không chịu. Sứa cứ đứng đấy. Hở ra lúc nào, Sứa lại nói:
— Tình hình thế này mà anh cứ đòi nằng nặc phải có cả hai người? Tôi... tôi... đề nghị...
— Sao những anh chị kia vẫn có mặt cả hai được?
— Mỗi chúng tôi một hoàn cảnh.
— Nguyên tắc trên đề ra.
— Dù là trên đề! Không những trên đề, trên còn đặt anh ngồi ở bàn này. Để áp dụng nó vào các trường hợp. Chỗ nào cần sửa, anh phải báo cáo, đề nghị sửa.
— Chị có đứng đấy đến mồng thất, cũng thế thôi. Nào, đến người khác!
Sứa nằn nì đến năm lần. “Nguyên tắc vẫn cứ là nguyên tắc!” Và gã công chức đầu hói ấy vẫn là gã công chức đầu hói.
Một ý nghĩ vụt lóe tia chớp trong óc, Sứa lao vụt đi. Sứa đi tìm “cấp trên”. Con nai ngây thơ len lách trong sự ngổn ngang hành chính, những bàn, thư ký, sổ, giấy má, biểu đồ... Vừa hay thiếu tướng Rỗ từ trụ sở Ủy ban quân chính bước ra. Ủy ban mới lập từ chiều qua, thiếu tướng Rỗ làm chủ tịch. Chính quyền làng Mận lúc này là một chính quyền quân sự.
— Thưa thiếu tướng! Sứa chạy đến.
— Chị cần gì?
— Tôi... tôi...
Sứa trình bày. Thiếu tướng cười:
— Thế chị là hôn thê của anh Gầy? Tôi chúc mừng anh chị.
— Anh Hói!
— Dạ...
Gã thư ký hói ấy to béo thế kia, mà đứng cạnh thiếu tướng, hắn ta thu mình thế nào, bỗng dưng nhỏ xíu, nhỏ xíu...
— Đề nghị của chị Sứa hợp lý, anh giải quyết ngay cho chị ấy.
— Dạ. Vâng.
— Tình hình chiến tranh thế này, một người đến trước, một người đến sau cũng được. Anh rõ chưa? Tình hình nó đặt ra nguyên tắc. Anh rõ chưa? Các trường hợp khác cũng vậy.
— Dạ... Vâng... Dạ... dạ...
Thiếu tướng có vẻ khó chịu trước sự khúm núm của anh công chức hói.
— Anh cứ việc đứng đường hoàng.
— Dạ... dạ... Tôi... tôi thế này... Thưa thiếu tướng... Tôi... tôi thế này... tức là... đường hoàng đấy ạ!
Thiếu tướng lắc đầu đi ra.
Sứa viết tờ khai. Sứa ký. Tên Sứa là: Lài! Anh công chức vào sổ. Bàn khai kết hôn lúc đó đã vãn người. Mặt trời một giờ. Gã công chức nhìn Sứa. Hắn nhìn với con mắt vì nể. Như vì nể một người “quen” cấp trên. Hắn đánh bạo hỏi:
— Thế này không phải! Chị... chị... quen thiếu tướng à?
— Không.
— Hay là... là... có họ?
— Không.
— Chị... chị... Tôi... tôi... xin lỗi.
Lúc đó vãn người. Nhưng có một cặp tới. Tức là anh Vẩu với chị Thẹn. Cặp ấy đã nhùng nhằng với nhau bấy lâu. Rốt cuộc, bây giờ họ kéo nhau đến đây. Chị Thẹn đi dưới mái hiên bộ hàm anh Vẩu. Hai anh chị đến khai kết hôn.
— Ấy không! Ấy không! Anh công chức hói cản họ lại.
— Sao? Hết giờ ư? Anh Vẩu hỏi
— Không. Ba giờ mới hết giờ...
— Thế nào?
— Nguyên tắc mới, trên đề ra. Một người đến trước, một người đến sau. Vì tình hình mà.
Sứa ngỡ hắn ta đùa. Nhưng không! Hắn nói rất nghiêm chỉnh. Sứa bật lên một tiếng cười. Hắn vẫn nói nghiêm chỉnh:
“Tôi vừa nhận được lệnh của trên. Đó! Chị Lài đây này! Chị ấy khai trước, anh ấy sẽ đến khai sau. Thiếu tướng vừa ở đây ra xong. Thiếu tướng dặn tôi: các trường hợp khác cũng vậy...” Mặt trời đã quá một giờ. Sứa vừa cười ngất, vừa chạy biến ra khỏi thị sảnh.
* * *
Tôi bế chị nữ tự vệ ngất vào quán. Về sau tôi mới biết chị lấy tên là Du. Chị ấy đẹp. Người yêu của chị chiến đấu ở xa. Ở các lữ đoàn bác Mỏ Lết chỉ huy. Có nhẽ anh ấy còn ở miền Tây? Có nhẽ họ có nhiều kỷ niệm trên cầu Dải Yếm? Tôi bế chị một tay, còn một tay, tôi kéo hai cái bàn lại. Rồi tôi đặt chị lên bàn. Sứa vào. Chị y tá của lũy cũng đã tới kịp.
— Chị tiêm thuốc gì cho cô ấy đấy?
— Thuốc trợ tim.
— Lát nữa, chị sẽ báo cáo tình hình sức khỏe của cô ấy về khu Đông.
— Rõ, chị nữ y tá đáp.
Tôi kéo Sứa ra một quán vắng khác. Từ một góc lan can vắng, chúng tôi có thể nhìn bao quát cảnh phố. Bức tranh lụa cổ ấy đã rách lươm bươm từng mảng. Mặt trời một giờ rưỡi. Mười lăm phút nữa, Sứa phải đi làm. Sứa đã nháo lên tìm tôi. Tới trụ sở khu Đông, do anh tự vệ Hải, Sứa mới biết tôi ở đây. Chúng tôi ngồi. Im lặng. Tôi nói: “Anh bận quá! Chắc Sứa chờ anh sốt ruột lắm phải không?”
Im lặng. Không khí chủng chẳng. Có một cô gái dỗi, ở đâu đây, trong vũ trụ...
— Em dỗi à?
Im lặng.
— Chỉ gặp nhau có mươi phút... Mà em còn dỗi!
— Ai thèm dỗi?
— Anh bận quá. Bây giờ mới thở được. Hay ta tranh thủ ra thị sảnh?
Im lặng.
— Bây giờ còn ra!
— Có phải lỗi ở anh đâu mà em dỗi? Anh bận... công tác chớ?
— Phải... công tác! Công tác bế nữ tự vệ ấy phải không?
Suýt nữa tôi bật cười. À ra thế. Tôi kể đầu đuôi câu chuyện. Sứa vẫn chưa hả giận.
— Thiếu gì người mà anh phải bế cô ta?
— Em ghen à?
— Phải, tôi ghen.
— Chỉ gặp nhau có mươi phút. Mà em còn ghen! Hay ta tranh thủ ra thị sảnh?
— Bây giờ còn ra!
— Mai vậy, Sứa nhé?
— Mai, khốn nỗi có người lại còn bận bế!
— Kìa! Em cứ thế mãi!
— Hôm nay cơ. Không mai gì hết.
— Ừ thì hôm nay. Ngay bây giờ. Ta ra thị sảnh ngay đi! Em đi làm chậm một chút vậy nhé?
— Em không ra!
— Ô hay...
Tôi nhìn xuống phố. Hàng ki lô mét tự vệ đang lem luốc đắp lũy. Lúc ấy, tôi chưa biết Sứa đã ký tờ khai kết hôn ngoài thị sảnh.
— Em đừng ghen nữa... Ta ra thị sảnh ngay đi... Có gì đâu mà em ghen?
— Bế thế mà còn bảo không có gì!
Im lặng.
Lần đầu tiên tôi phải dỗ một cô con gái dỗi. Dỗi vì ghen bâng quơ cơ chứ! Tôi không biết dỗ. Tôi không hiểu kiến trúc oái oăm của dỗi, của ghen. Tôi ngồi thừ ra, rách bướm khắp mọi cảm nghĩ. Tôi trở thành một bộ phận hài hước của các bức tranh phố rách bươm.
— Thế là mất toi năm phút... Sứa chả biết tiếc thời giờ...
— Phải... Bế thì chả thấy đếm phút...
— Có phải anh muốn vậy đâu?
— Không muốn sao không để người khác bế?
— Tại anh cuống!
— Hừ, cuống...
— Hay thôi! Để anh bế đền Sứa vậy nhé? Anh bế Sứa ra thị sảnh nhé?
Tôi đứng dậy. Tôi tới cạnh Sứa. Tôi sửa soạn như định làm như thế thực. Sứa cuống cả lên.
— Đừng... đừng... Họ cười cho bây giờ...
— Có ai đâu mà cười? Sứa cứ vờ như ốm ấy.
— Đừng... đừng... Bỏ ra... Buồn em... Dơ thế?
— Em không được dỗi nữa cơ.
— Ừ, thôi... Dơ dơ là...
Sứa cười... Không khí chủng chẳng đã vỡ. Nhẹ mình đi hẳn. Hai đứa cười với nhau. Tia mắt bắt đầu quấn quýt. Mặc dù vẫn chưa ăn khớp hoàn toàn.
— Thế bây giờ chúng mình ra thị sảnh đi... Tôi rủ Sứa.
— Em ký rồi. Bây giờ em đi làm đây.
— Ký rồi?
— Ừ. Ký một mình.
— Thế anh thì sao?
— Biết đâu đấy? Có ra mà ký thì ký.
— Ừ, anh ra... Đi đi...
Tôi đi với Sứa một quãng đường chung. Người ta đã làm lành với nhau. Tia mắt quấn nhau, ôm nhau. Phố vắng.
— Anh khoác lưng em đi...
Không có tiếng chim hót. Chỉ có sự nham nhở của những hào hố, lũy, vôi gạch.
— Ghen! Bêu cái đức ghen.
— Ai người ta thèm ghen?
— Bêu...
— Từ bây giờ anh không được bế cô nào nữa cơ.
— Ừ. Anh chỉ bế Sứa thôi nhé?
— Anh thề đi.
— Thề thế nào?
— Thề độc cơ.
— Ừ, anh mà còn bế cô nào, nọ kia, thì anh chết.
— Không! Không thề thế!
— Thề độc thế còn gì?
— Không! Thề em chết cơ.
— Anh không thề.
— Anh có thề, em mới tin.
— Ừ đây... Tôi phủi phui ngầm trong bụng... Nếu anh còn bế cô nào nữa, nọ kia, ... phủi phui... thì... Sứa sẽ chết... phủi phui... được chưa?
Tôi ôm Sứa ở quãng phố vắng. Sứa hôn tôi... Tôi đã phủi phui ngầm. Tôi không dị đoan. Nhưng thế đấy! Cứ động tới Sứa, tôi lại dị đoan. Tôi thề ăn gian. Tôi phủi phui. Tôi lại thêm cái chỗ nọ kia vào... Có “nọ kia” thì lời thề mới nghiệm... chứ bế không thì... phủi phui. Dù sao cũng phủi phui...
— Tối nay anh có về được không?
— Anh phải đi tổng kiểm tra từ tám giờ cho tới một giờ đêm.
— Thế anh về được vào lúc nào?
— Trước tám giờ và sau một giờ.
— Còn các anh khác?
— Anh không biết.
— Thế thì mở tiệc vào lúc nào?
— Anh không biết.
— Cái gì anh cũng không biết.
— Hay ta hoãn?
— Không! Không đâu! Phủi phui cái mồm anh... Phủi phui... Hoãn là chúa độc... phủi phui...
— Em dị đoan thế?
— Lúc này thì em dị đoan... Thôi! Để em tính... Anh biết địa chỉ các anh ấy chứ?
— Địa chỉ cũ thôi... Địa chỉ mới, từ sáng tới giờ thì chịu...
— Thế làm thế nào bây giờ? Sứa lo lắng. Sứa lo lắng ở tia mắt. Ở cánh mũi be bé. Ở đôi môi...
— À, phải... Choắt nó biết... Tôi sực nghĩ ra.
— Anh ấy ở đâu?
— Ở Tổng đài...
— Thôi thế được rồi... Để em tính.
Đáng lý tôi với Sứa đã chia tay. Người tới trạm Im Lặng, người ra thị sảnh. Nhưng rồi hai đứa cứ quanh quẩn mãi, đi đi lại lại ở một quãng đường rẽ. Mà hai giờ tôi đã phải gặp Cồ Bồ Xồ.
— Thôi em phải đi đây. Kẻo muộn... Để em tính... Em sẽ báo cho anh bằng đài nhé...
— Ừ, bằng đài..
Tôi lao ra thị sảnh. Chương trình be bé của tôi! Tôi nhảy vào thị sảnh. Tôi ký. Tôi ký. Tôi lao về nhà tôi. Trụ sở khu Đông đóng tại nhà tôi. Tôi lỡ hẹn với Cồ Bồ Xồ bảy phút. Từ giờ tới đêm, còn bao nhiêu ki lô mét công việc? Chương trình be bé của tôi? Chương trình be bé của tôi.
* * *
Từ cầu thang tôi đã nghe tiếng ồm ồm của Cồ Bồ Xồ ngâm thơ. Cứ như một đêm dông bão ù ù. Tôi nghe câu được câu chăng. Chỉ nghe thấy rất nhiều câu lắp đi lặp lại: Tôi đi! Tôi đi! đại khái như là:
Tôi đi
Tôi đi
Tôi đục phố Tơ Bông
Phố Tơ Bông mười chín khung cửi
Tôi đi
Tôi đi
Tôi đục phố Cửi
Phố Cửi mười chín nong tằm
Tôi đi
Tôi đi
Tôi đục phố Tằm
Phố Tằm mười chín guồng tơ rối...
Tôi vào. Cồ Bồ Xồ mặt sượng ra, tay giấu với một tờ giấy nháp. Anh chàng đang làm thơ.
— Thế nào? Cồ Bồ Xồ hỏi lảng sang chuyện công tác.
— Tương đối. Tôi đáp. Gay nhất là phố Bồ Đào. Tôi thuật lại tình hình kiểm tra mười chín phố.
— Còn bên ấy thế nào, “thi sĩ”?
— Bi.
— Bi cả mười phố?
— Không.
— Cụ thể thế nào?
— Một phố tuyệt, là phố Én ấy. Ba phố khá. Năm phố tương đối. Bi là bị cái phố Xu Xê ấy!
— Thế là tương đối chứ? Sao cậu lại tóm cả vào chữ: bi?
— Vì... vì... nó đập mạnh vào mình.
— Bây giờ ổn chưa?
— Tương đối.
Cồ Bồ Xồ đưa tôi thuốc lá. Ngón tay với rằng anh chàng vàng ám cả ra.
— Đài mắc xong chưa? Tôi hỏi.
— Xong từ lâu.
— Từ giờ đến lúc tổng kiểm tra, chúng mình còn những việc gì?
— Nhiều...
Chúng tôi kê ra mới thấy quả là nhiều. Những cái lũy chưa xong: hai lũy. Những phố chưa đục hết nhà: bảy phố. Những đội cần củng cố cấp tốc: ba đội. Những cái lũy thiếu đài: năm lũy. Số cán bộ thiếu: bốn cán bộ. Tôi thốt ra một câu:
— Ngỡ ít? Nói ra cũng đến vài ki lô mét việc!
— Cậu nói gì?
— Nhiều việc.
— Không, cái gì mét cơ mà?
— Vài ki lô mét việc.
— Hay! Ki lô mét việc. Hay! Cồ Bồ Xồ rút một quyển sổ tay, ghi vặt về thơ, đem ghi vào. Ki lô mét việc.
— Cậu ghi thế làm gì?
— Vật liệu.
— Vật liệu?
— Ừ... Tai nghe mắt thấy, tất cả đều là vật liệu. Vật liệu thơ... Nhưng thôi. Ta tiếp tục phân công đi.
Gian buồng khói om lên. Chúng tôi lọc ra những việc cần nhất. Nói vậy chứ! Việc cần nhất nó cứ dính chặt với việc cần nhì, cần ba... Có khi một việc be bé, rất bé mà cũng phải đưa nó lên bàn nhất. Với nó bé hạt tiêu, nó như cái đinh ốc, thiếu nó, máy sẽ xộc xệch, thậm chí không thành máy nữa. Cồ Bồ Xồ hắn ta xét đoán khá nhanh, mà vững. Cuối cùng chúng tôi cũng lập được một chương trình công tác.
Tôi đứng dậy với tư thế sắp sửa lao đi.
— Này... Khoan đã!
— Cái gì? Tôi quay lại.
— Tiệc tuyên bố của cậu ấy?
— Mình chưa biết xoay đâu cho ra được: thì giờ?
— Xoay đâu á? Xoay ở mình này này.
— Thật à?
— Căn cứ tổ chức vào khoảng sáu giờ. Cậu về mà dự. Mọi công việc, tôi đảm bảo hết! Tám giờ cậu về đây: vừa kịp tổng kiểm tra.
— Cậu tốt bụng quá.
Anh chàng nhún vai.
Tôi vọt đi sang buồng anh Hỏa.
* * *
Khu tôi được anh Hỏa, thật là may. Anh ta thạo nghề, nhớ dai mà lại làm việc khoa học. Mục nào ra mục ấy, con số rõ ràng, hỏi đâu có đó lập tức. Anh đã đặt căn bản xong hệ thống đài, chỉ còn khuyết năm lũy.
— Trước ba giờ chiều, tôi sẽ hoàn thành. Ngoài ra, tôi vừa lấy ở các đội lên xin tổng đài tất cả được bốn cậu lính thông tin có khả năng. Với tôi là năm.
— Năm có đủ không?
— Kể ra bốn là đủ. Một để dự bị nhỡ có sự cần thiết đột xuất.
Tôi giải quyết một loạt những việc cần giải quyết. Anh Hỏa lần lượt trình bày, theo thứ tự, quan trọng nhiều ít.
— Lũy trưởng 303 bị ốm nặng, đi bệnh viện.
— Để đội trưởng giải quyết lấy, tôi nói.
— Rõ! Ngã tư phố Én và phố Bòng đề nghị cử ra một chỉ huy thống nhất.
— Đấy, có hai lũy của hai phố, phải không?
— Đúng: hai lũy.
— Nữ đội trưởng phố Én, là cô Thun chỉ huy.
— Rõ! Lũy số 6 đề nghị gia hạn cho một tiếng nữa.
— Trước định là năm giờ chiều phải không?
— Đúng: năm giờ chiều.
— Đó là lũy của cậu Rụt Rè. Cậu ấy có nói lý do xin gia hạn không?
— Có. Lý do là phải cử một tiểu đội ra Cổng Đông.
— Tôi đã xem lũy đó. Lực lượng: một trăm tự vệ. Có lấy đi đến ba tiểu đội nữa, vẫn có thể xong trước bốn giờ. Cậu ấy rụt rè quá. Trả lời là: lũy số 6 chỉ có quyền đắp xong lũy trước năm giờ!
— Rõ! Hết.
— Tình hình đại đội Thông? Tôi hỏi.
— Một trung đội phân tán đi các lũy. Hai trung đội theo lệnh của khu trưởng đang cùng tự vệ tập trận ở lũy Cổng Đông.
— Chị Du ở lũy 107? Đã có báo cáo gì về chị ấy chưa?
— Có. Chị Du đã bình phục hẳn vào lúc hai giờ. Hiện tại đã đang công tác. Chị ấy có gửi lời xin lỗi anh. Chị ấy lo là anh giận.
— Không! Tôi chỉ ái ngại thôi. Anh trả lời hộ tôi nhé.
— Rõ!
Tôi hỏi một vài mục khác. Cái kiểu nắm tình hình. Mặt trời ba giờ chiều. Nó đã xa tít, be bé, chỉ chực tắt.
— Anh Hỏa gọi hộ tôi cô Sứa, ở trạm Im Lặng.
— Chị ấy đã điện tới đây từ lúc nãy. Chị ấy đi đón thương binh rồi. Bức điện đây.
Tôi đọc bức điện. Tôi vui. Có cái gì cởi ra trong bụng. Chương trình be bé của tôi. Tôi vui. May quá! Cũng không phải may. Khéo thì đúng hơn. Tức là Sứa khéo ấy. Sứa của tôi, Sứa của tôi. Con nai của tôi khéo quá. Phải, phải... Thế mà tôi chả nghĩ ra.
— Anh Hỏa nhé, thế nào cũng đến dự tiệc với chúng tôi nhé? Tôi mời.
— Khu trưởng linh động như thế, thì tôi có thể đến, Hỏa khen. Anh em nào rỗi, tôi cũng kéo đến cả nhé!
— Ừ, kéo cả đến. Kéo cả đến!
Tôi khoan khoái. Sự nhẹ nhõm của gian buồng, của bầu trời đông nặng mặt. Tôi vui.
— Lúc nào đài rỗi, anh Hỏa đánh điện mời đi các nơi hộ tôi nhé.
— Tôi đã tự tiện đánh đi từ nãy rồi.
— Cảm ơn! Cảm ơn!
Thế mà vừa rồi, tôi ngỡ là Hỏa quên! Là Hỏa xếp cái bức điện be bé của tôi vào một chỗ. Vì tôi hỏi, anh mới đưa ra. Tôi vui. Tôi nói: Cảm ơn! Cảm ơn! Trong cái chữ ấy, có cái gì rung bên trong, như thế: Xin lỗi! Xin lỗi! Tôi vui. Chương trình be bé của tôi... Chương trình be bé của tôi...
— Tôi đã điện tới tất cả, Hỏa nói. Anh Bướng, chị Xinh, anh Tùng Xòe, chị Nũm Lả, anh Choắt... Họ đều trả lời đồng ý...
— Cả Choắt?
— Cả anh Choắt. Hơn nữa thiếu tướng Rỗ cũng bảo là sẽ tạt đến.
— Anh mời thiếu tướng?
— Không... Thiếu tướng nói là do anh Choắt nói, thiếu tướng mới biết bữa tiệc tổ chức lạ như thế. Thiếu tướng sẽ tạt đến.
— Cảm ơn! Cảm ơn cậu! Thôi, tôi đi.
— Khu trưởng cần mang theo một đài. Để liên lạc cho nhanh, Hỏa nói.
— Đồng ý. Cho tôi một đài.
— Chú Nghệ!
Từ buồng bên, ló sang một chú bé mặt như cục nghệ, gầy-ra-mặt, mà lanh-lẹn-ra-mặt.
— Có Nghệ ngay!
— Chú đi theo khu trưởng Gầy!
— Rõ!
Tôi lao đi. Tới cửa, tôi sực nhớ tới “thi sĩ” của tôi.
— Lát nữa, cậu mời hộ tôi, cả Cồ Bồ Xồ nữa nhé!
— Anh cứ yên trí! Hỏa đáp.
Tôi lao đi. Nghệ lao theo. Tôi lao vào phố. Nơi này, nơi nọ, công tác đang chờ tôi. Tôi lao đi.
Tôi với Nghệ phóng tốc ra Cổng Đông. Tôi đi nhanh bằng ba người. Mà chú Nghệ vẫn bám sát không hụt một bước. Tôi lại đi nhanh hơn nữa. Xem chừng cu cậu thở tợn.
— Chú theo tôi có kịp không?
— Kịp ng-ay...
— Sao thở tợn thế?
— Cái mệt nó thở chứ? Cốt đi kịp là được.
— Ai dạy mà chú biết ra-đi-ô?
— Chả ai.
— Học lỏm hả?
— Không.
— Thế sao mà biết?
— Thiên tài!
Chú ta ăn nói gọn lỏn, kiểu điện báo. Không có chút gì vô lễ, mà lại có duyên.
— Tôi đi chậm lại nhé?
— Tùy.
— Sao mặt chú vàng thế?
— Từ bé.
— Chú có thích chiến tranh không?
— Không.
— Chiến tranh “vui” thế mà chú không thích à?
— Không.
— Hồi tôi bằng tuổi chú, tôi lại thích.
— Mất dạy.
Tôi cười phá lên. Mặt chú Nghệ vẫn phớt tỉnh, không cười, vàng khè.
— Chú ở đâu?
— Phố Bồ Đào.
— Phá phố như thế, chú có tiếc không?
— Tiếc... Tiếc bỏ xừ.
— Buồng chú ở chỗ nào?
— Buồng nhị. Nhà số mười lục.
— Chú biết chữ nho à?
— Tác tộ một ít.
— Nhà chú có bị phá không?
— Đục thôi.
— Thế chú ở đội anh Phệ phải không?
— Đúng qu-á.
— Lên khu, chú có thích không?
— Không ai thích.
— Vì sao?
— Ở dưới vui hơn.
Mặt trời non bốn giờ. Nó hiu hiu như một ngọn đèn con. Chúng tôi đi vòng qua phố Bòng, rồi sẽ đâm ra Cổng Đông. Ở một vài lũy, tôi dừng lại, hoặc để biểu dương, hoặc để phê bình một số thiếu sót.
— A lô... Ông Sướng đây! Phải... Ông Sướng đây! Chú Nghệ đi cạnh tôi, quan sát tôi, quan sát lũy, và đánh tình hình về trụ sở.
— A lô! Ông Sướng đây! Hết!
— Đài chú đặt tên là ông Sướng cũng phải... Tôi nói.
— Anh đoán sai rồi, Nghệ nói.
— Thế ai?
— Anh đây chứ ai?
— Tôi?
— Hì.
— Sao lại đặt thế?
— Anh đừng giận... Hì... Mật mã mà...
— Chú đặt cho tôi phỏng?
— Không! Sáng tác tập thể.
— Lố bịch... Nghe chả khác gì tiếu lâm. Nhưng thôi, cũng được.
— Bắt đầu, tôi đặt anh là ông Hắc cơ. Anh em bắt đừng, sợ anh tự ái.
— Ông Hắc?
— Ừ... Anh mới về chưa được một ngày, đã có tiếng xì xào: bố khu trưởng này, có vẻ hắc!
— Hắc?
— Ừ... Hắc! A lô! Ông Sướng đây! Ừ... Ông Sướng sắp tới Cổng Đông! Hết hả? Báo cáo anh: Lũy anh Rụt Rè đã đắp xong lúc bốn giờ! Vượt mức một tiếng!
— Trả lời là tôi hoan nghênh.
— Rõ! A lô! Ông Sướng hoan nghênh. Hết! Anh đừng giận.
— Không! Anh em có phê bình gì tôi nữa không? Cố nhiên tôi có khuyết điểm.
— Cảm giác thôi. Không phải phê bình.
— Cảm giác? Thì phê phán của cảm giác mới đáng phê chứ!
— Chắc anh không thích? Cảm giác, anh bảo nó có đúng không?
— Chú bảo nó có đúng không?
— A lô! Phố Cửi à? Được! Báo cáo anh, anh Cồ Bồ Xồ đã củng cố xong đội phố Cửi.
— Hẹn anh ấy, đúng sáu giờ ở trụ sở.
— A lô! Ông Sướng hẹn ông Bẹc-giê sáu giờ, ở trụ sở! Hết!
— Bẹc-giê?
— Anh Cồ Bồ Xồ tự đặt đấy chứ.
— Hừ... Cảm giác! Tôi nói như nói một mình.
— Ở đội tôi, mấy đám đã đánh nhau vì cái lối phê phán bằng cảm giác...
— Nhưng tôi... chú bảo tôi có hắc không?
— Anh có hắc.
Tôi im lặng... Tôi hắc? Hay là việc nó hắc. Hay là tôi về hùa với cái hắc của công việc? Hay là tôi hắc?
— A lô! Ông Sướng đã tới Cổng Đông! Đang huyết chiến.
Tôi kéo Nghệ lên một sân thượng cao, đứng đó nhìn vọng xuống, bao quát. Hai trung đội của anh Thông đang tấn công vũ bão. Đội tự vệ của anh Ngão chiến đất rất ác! Giữ ở chỗ này, tấn ở chỗ khác, đánh giáp lá cà, đánh chọc sườn, đánh chia cắt. Cái lũy vẫn vững. Mặt trời quá bốn giờ, rũ xuống như con gà rù.
— A lô! Ông Sướng quan sát tập trận! A lô! Bất phân thắng bại. Hai tiếng rồi. A lô! Thông múa ngọn thương trắng xóa, đi giữa trận như đi chơi. A lô! Ngão đánh rát, đòn vững. A lô! Ngão tung cảm tử ra bít cổng... Nghệ quay sang phía tôi.
— Thất bại mất phải không anh?
— Ừ... Hơi chậm...
— A lô! Thông sở trường đánh thọc. Ngão chỉ huy bình tĩnh. Lũy vẫn vững! Cảm tử không bít được cổng. A lô!
— Chú có sợ không?
— Cho là tập, nên không sợ.
— Chú chưa ra trận phỏng?
— Chưa.
— Chú có dám đi xé ngang một cuộc hỗn chiến không?
— Cần thiết thì đi. A lô! Báo cáo anh, anh Bẹc-giê bị ngã sái chân.
— Có phải đi bệnh viện không? Tôi giật mình... Chương trình be bé của tôi.
- A lô! Không à? Báo cáo anh: không sái! Bật móng chân thôi. Bảo anh ấy về trụ sở? Rõ! A lô! Anh Bẹc-giê bảo: Về thế, để nữ tự vệ người ta cười cho í à? Alô! Ngão đã bít được cổng. A lô, Ông Sướng đặt tình huống...
Tôi thét:
— Tình huống: mất lũy! Anh Ngão rõ chưa? Mất lũy!
— Rõ!
Quân địch ồ lên cướp lũy. Tự vệ bỏ lũy. Ngão đích thân chỉ huy bộ phận chặn địch, yểm hộ cho đại bộ phận rút chếch về cái khu nhà Chàm! Đúng! Đúng! Tôi nghĩ... Giữ khu nhà Chàm đó tức là cắm một cái đinh trong lòng địch. A lô! Ngão đội phó linh hoạt! Ông Sướng lại đặt tình huống: mất khu nhà Chàm! A lô! Ngão hơi cuống... A lô! Thông múa thương chiếm nhà Chàm. A lô! Ngão đã hồi tâm, đem toàn lực ra chiếm cổng. Ngão chiếm được cổng. A lô! Tự vệ lập trận vòng bánh xe... Ông Sướng khen: đúng! Ông Sướng hạ lệnh:
— Nghỉ!
Mặt trời năm giờ. Nó lảo đảo như con gà toi. A lô! Trận đánh kéo dài ba tiếng. A lô! Hội nghị rút kinh nghiệm. Sao? A lô! Báo cáo anh: chị Sứa đợi anh ở trụ sở.
— Sáu giờ tôi sẽ về.
— Thế mới gọi là hắc! A lô!
Tôi góp một vài ý kiến. Ngắn thôi! Cái tính tôi không ưa nói dài. Ngão vừa họp, vừa phái một số đi sửa chữa một vài chỗ đã bộc lộ yếu điểm qua trận đánh. Cái đầu to xù của Ngão chiếm mất một góc hội nghị. Tôi yên trí. Buổi chiều mùa đông sập xuống, nhanh nhanh như cái bẫy sập. Tối nay... tối nay đã đến... Nó đến ren rét... Tôi rời khỏi lũy Cổng Đông. Thành phố đã lên đèn... Chương trình be bé của tôi... Tôi yên trí...
* * *
Tôi với Sứa từ trụ sở khu Đông, tức nhà tôi, đi về biệt thự Đá Đỏ, cũng nhà tôi. Phố xá châm đèn lấm tấm. Một vầng trăng ren rét đã lên. Nó còn méo. Vầng trăng mười ba! Chúng tôi đi trong sự be bét của ụ, hào, lũy... Sứa cứ nhất định đòi vác cái ba lô của tôi. Ban nãy, Sứa chỉ còn để lại ở trụ sở một ba lô nhỏ, với một bộ quần áo và ít thức vặt. Còn cái ba lô to xù, Sứa vác đi. Phố hát bài hát tan tầm.
— Em về sớm thế?
— Em xin phép được một tiếng. Em mà không đến, chắc anh lại quên đấy.
— Không.
— Lại còn không? Anh để ba lô vãi tung cả ra đó. Khiếp cái buồng của các anh.
— Khéo em vơ nhầm cả của anh Cồ Bồ Xồ.
— Không! Em đã hỏi anh ấy rồi. Khiếp! Sao mà anh ấy hôi thế?
— Anh ấy rất tốt.
— Cái tốt không cãi được cho cái hôi.
— Anh ấy rất tốt.
— Nhưng mà hôi.
— Đã tốt thì có hôi cũng không sao.
— Có sao.
— Không sao.
Chúng tôi trêu nhau. Tia mắt quấn tia mắt. Vầng trăng mười ba ngon như một miếng sò. Những ki lô mét lũy...
— Anh đoán xem ở nhà bây giờ có những ai nào?
— Mẹ là một...
— Ai nữa nào?
— Anh chịu...
— Cô Vú...
— Thế mấy giờ tiệc khai mạc?
— Sáu giờ thôi! Anh quên rồi à?
— Ừ... anh cứ nhớ lẫn với chương trình trước... Anh quên chưa khen em... Nhưng bây giờ sáu giờ đúng rồi còn gì?
— Anh hôn em đi...
Tôi hôn Sứa giữa phố. Vết hôn sáu giờ... Chúng tôi không biết bữa tiệc có những ai? Nhưng cứ là khai mạc! Nó sẽ kéo tới một giờ đêm. Một thứ tiệc cao su, lúc đông lúc vắng, liên miên suốt từ sáu giờ tối tới một giờ đêm. Chỉ có mẹ tôi, với Sứa, với cô Vú sẽ có mặt thường xuyên, suốt thời gian đó. Còn tôi? Tám giờ tôi phải đi. Có thể từ tám giờ tới đêm, tôi sẽ tranh thủ xuất hiện chớp nhoáng giữa bàn tiệc. Rồi lại lao đi... Khách khứa cũng vậy. Họ sẽ thoắt đến thoắt đi... Ai đến lúc nào, thì ăn lúc ấy, cứ như kiểu ngày Tết: một khách đến cũng dọn cỗ! Ai phải đi thì cứ đi, cũng như kiểu ngày Tết. Cái khéo của Sứa! Để mà đón chộp lấy những phút rỗi bất thình lình của mọi người. Nếu mà hẹn cứng đờ sáu giờ hoặc tám giờ thì hỏng. Tất cả đang lúc dầu sôi lửa bỏng. Không ai bận, cũng không ai rỗi cùng một thì giờ. Không ai chủ động được thì giờ. Thì giờ đã là của chiến tranh. Thế, tiệc cưới mới lạ đời tiệc cưới! Tôi hôn Sứa giữa phố. Vết hôn sáu giờ... Phố tan tầm làm, nườm nượp. Chúng tôi cưới nhau thế này mà không ai biết. Chúng tôi cười... Mắt chạm mắt như những cốc rượu.
— Em... em...
— Anh...
Những ki lô mét lũy.
— Chúng mình sẽ được gần nhau lâu, anh nhỉ...
— Ừ, mãi mãi.
— Em vẫn cứ lo lo làm sao ấy...
— Em đừng lo...
— Đêm nay, anh về ngủ nhà nhé!
— Ừ, anh về...
— Anh mà không về, em sẽ đến tận trụ sở đấy!
— Ừ, em đến...
— Em đến xem xem anh có bế cô nữ tự vệ nào nữa không!
— Của đâu mà sẵn thế?
— Người ta nói các cô ấy... dễ lắm...
— Mồm mép thiên hạ...
— Các cô ấy có dễ thật không anh?
— Anh biết đâu?
— Khéo vờ!
Hoa, lá, đèn... Hoa, lá, đèn... Đèn chăng lá kết từ cổng biệt thự Đá Đỏ, qua sân, qua cầu thang màu gạch non, tới cửa buồng. Chúng tôi đi trong sự nồng nàn của màu đỏ. Hoa đỏ, lá đỏ, đèn đỏ... Các thứ màu đỏ, gạch cua, son tươi, mẫu đơn, ớt, lòng đào, hồng, mào gà, thược dược, màu chồng màu. Một chút sương trắng nhờ mắc ở giậu sắt, lùm cây. Sứa đi trắng tinh trong sương, trong sự nhưng nhức của màu đỏ, ủ dưới sương... Sương như bọc mút-sơ-lin cho màu đỏ. Màu đỏ mang lên, thấm qua cái màng ươn ướt của sương đằm... Ở cửa buồng có treo một cái lồng son, dán hở giấy điều, trong lồng có một con trĩ trắng. Con trĩ trắng đứng ngu ngơ. Ký hiệu của phong tục làng cổ: “Em đã có chồng!” Tôi hôn Sứa trước cửa buồng. Trong nhà có tiếng nhạc. Một cái máy hát. Những nốt nhạc dìu dịu, say, như tiếng nói thầm. Tôi hôn Sứa trước cửa buồng. Sứa ẩy nhẹ cánh cửa. Bàn tiệc đón chúng tôi. Sáu giờ mười lăm phút.
— Cô dâu chú rể! Đệ xin chúc cô dâu chú rể mọi sự sung sướng!
Cái thằng Choắt ấy. Nó cứ liến thoắng, liến thoắng.
— Ơ! Bà chị vác ba lô thế kia? À phải! Đệ hiểu rồi! Ông anh thì cứ vận quân sự thế này thôi chứ? Để đệ cài vào cho huynh một bông hường. Đó! Đẹp chưa? Bà chị thì rất nên có một sự áo cưới. Rất nên!
Sứa đã ở buồng tắm ra, trắng nuột. Áo cưới mỏng như mây. Cô Vú đi cạnh, sửa mấy nếp áo, như kiểu phù dâu. Cô Vú đỏ hồng hồng trong bộ áo màu mẫu đơn. Chét lưng cô bó thít, tưởng như vòng hai chét tay vào còn lỏng. Trong khi đó thì bộ ngực lại rướn lên, hai cái sừng non, nhọn hoắt... Tôi thấy Choắt cứ mắt la mày lém... Chúng tôi ngồi vào bàn tiệc. Mẹ tôi sung sướng lặng đi. Cái máy hát vẫn làm nhiệm vụ thì thầm những âm thanh trữ tình. Thằng Choắt không ngơi mồm ăn mồm nói. Mắt nhìn cũng không ngơi. Cốc chạm cốc. Hai cốc chạm. Năm cốc chạm. Màu đỏ du dương của sàn, trần, hàng cột, tất cả. Tôi ăn. Sứa ăn. Sứa không ăn. Choắt ăn. Cô Vú ăn cầm chừng. Tôi ăn. Mẹ tôi ăn. Choắt ăn. Choắt cười như phá. Bàn tiệc đủ những món và những màu của phong tục cổ. Tôi ăn. Choắt ăn. Đôi lúc nó lại rú lên, vô cớ. Cốc chạm cốc.
— Bao giờ thì đến lượt cô đấy, cô Vú? Tôi hỏi.
— Em thì còn lâu...
— Lâu! Hú-ú! Có lâu bằng bà chị tôi đây không? Thằng Choắt quay sang phía Sứa. Bao nhiêu bà chị nhỉ? Ngàn rưởi cái nhà! Hú! Huynh là có tội to chứ chả phải chơi đâu. Choắt quay sang tôi. Ngàn rưởi cái nhà! Huynh phá cả một chương trình! Hú-ú! Nó cứ rú lên. Nó ám chỉ lời tuyên bố đỏng đảnh của Sứa hồi nào. Em xây xong ngàn rưởi cái nhà, em mới tính chuyện. Thế nào là chị? Nó lại liến thoắng... Nói như đóng đinh cơ mà? Thế là bà chị “bị” với ông anh của đệ rồi nhá! Hà! Chị Vú ạ! Rút kinh nghiệm, chị nên rút kinh nghiệm. Hà! Say! Rượu tăm có khác... Đừng nên nói: “Em còn lâu”! Hà... Say...
— Thế còn cậu thì bao giờ? Tôi hỏi.
— Đệ à? Hu! Hu! Nó giơ tay như kiểu vắt nước mắt nước mũi... Sịt! Đệ thì có chó nó lấy! Mà đệ có xấu giai gì cho cam? Có phải không mẹ? Nó hỏi mẹ tôi. Mẹ trông con có xấu không, mẹ?
— Đẹp. Anh có duyên. Thế mà chưa vợ à? Khổ thân...
— Đấ-ấy! Mẹ ạ... Cái số con nó muộn mằn... Hôm nọ con đi xin quẻ thẻ ở đền Thánh Mật.
— Cứ ăn nói báng nhạo.
— Không! Thật đấy mẹ ạ.
— Trai trẻ như các anh! Các anh tin tưởng gì ở sự duy tâm? Chỉ có ông bà già như chúng tôi...
— Không! Mẹ ạ... Có bệnh thì vái tứ phương... Con đi xin quẻ thẻ ở đền Thánh Mật thật. Con lễ như thế này này... Rồi con xóc thẻ.
— Ờ, anh này lễ khéo chửa? Dẻo dẻo là...
— Con xóc một lúc, bật ra hai thẻ...
— Ngài quở rồi...
— Vâng... Con nghĩ bụng Ngài quở... Có nhẽ tại con chưa được thành tâm. Con bèn ra về... Con ăn chay suốt một tuần. Con kiêng ăn nói mặn muội. Rồi con đun nước thang, con tắm...
— Ờ, anh này mới thiềng tâm chớ! Kiêng cữ sạch sẽ hơn cả đàn bà...
— Con đến, con khấn xít xoa, con xóc thẻ...
— Được chứ? Ngài chứng cho chứ?
— Vâng, được.
— Có kiêng có khác...
Bàn tiệc theo dõi câu chuyện, vừa hồi hộp, vừa nhịn cười. Mặt nó vẫn cứ tỉnh khô.
— Thế quẻ thẻ Ngài cho anh thế nào?
— Ngài cho bốn câu thơ... Con đọc mà không hiểu...
— Chứ gì! Nghĩa lý cao xa, lạy thánh mớ bái, chứ lại ăn nói thật thà như bọn mình trần mắt thịt mình á?
— Con bèn đem ra một bà đoán thẻ.
— Phải, phải... Thế Ngài bảo sao?
— Ngài thương con lắm.
— Ừ... Ăn hiền ở lành như anh! Cứ bảo thần thánh không thiêng nữa đi? Anh đọc đi, để các cô các cậu ấy biết. Rồi mà từ nay xem còn có báng bổ nữa hay không?
— Vâng... vâng! Câu đầu là: Rồng mây dù có muộn màng. ..
— Đó! Đã ứng quẻ chưa? Anh muộn màng thế, Ngài cũng biết đấy. Rồng mây tức là nói ý ra cái cảnh loan phụng vợ chồng đấy.
— Vâng! Vâng! Câu thứ hai là: Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo...
— Đấy! Anh lo mà làm gì? Nợ nần tức là cái duyên nợ vợ chồng đấy! Lạy thánh mớ bái.
— Vâng! Quẻ hay lắm... Câu thứ ba, thánh mới thương con chứ.
— Anh đọc đi. Các cô các cậu nghe đấy, nghe đấy!
— Tiệc hoa gặp bó-sừng-vù ... Con chả hiểu ra thế nào...
— Anh đọc nốt cả câu dưới nữa... Lạy thánh mớ bái. Ngài nói sâu xa...
— Tiệc hoa gặp bó-sừng- vù... Ấy là duyên hẹn, ấy là tình trao...
Tôi với Sứa cười phá lên... Không sao mà nhịn được nữa. Cô Vú thì cứ thẹn chín dừ. Bó sừng vù! Cái thằng ma mãnh! Bói với hì rí của nó! Vú sừng bò... Bó sừng vù... Cô Vú thẹn.
— Lạy thánh mớ bái! Ngài thương anh lắm. Anh có hiểu không?
— Con không hiểu... Bà bói quẻ đến hai câu này cũng chịu.
— Đây này! Để già nói cho mà nghe! Sâu xa... Anh soạn lấy một mâm cỗ đẹp. Lạy thánh mớ bái... Sâu xa... Anh đem tới đền, Ngài sẽ báo mộng cho.
— Sao thế hử mẹ?
— Chứ gì? Phàm những sự xa xôi, tức là để báo mộng cho cả đấy.
— Ừ nhỉ! Mẹ nói con mới rõ. Con khờ quá.
— Thanh niên ỡm ờ như anh rồi mà ế đời! Cô Vú lúc ấy mới bật ra một câu.
— Đấy, mẹ ạ! Choắt làm bộ như thể trẻ con mách mẹ. Cô Vú cô ấy “trêu” con! Cô ấy bảo con ế!
— Còn đời các cô đấy! Cứ mà báng nhạo... Mẹ bênh Choắt... Anh chả sợ. Ăn hiền ở lành như anh, sợ gì. Lạy thánh mớ bái, Ngài phù hộ độ trì cho. Anh đừng lo.
Há há hí hí, Choắt cười ngất.
— Mẹ đừng tin cái mồm anh ấy, mẹ ạ, cô Vú nói.
— Thôi! Các cô! Đời sống mới các cô còn có tin tưởng gì ở cái sự duy tâm! Anh đừng lo... Anh cứ nghe tôi, ăn chay nằm mộng. Anh đừng lo. Có là ong bướm ầm ầm tử vi. Gạt đi chả hết!
— Há!
Bảy giờ đúng: Choắt đứng dậy! Thì giờ của nó, chỉ tranh thủ được có bằng nấy. Bàn tiệc tiếc một người vui tính. Nhất là mẹ tôi. Nhưng cái lệ đã đặt ra rồi. Không ai được giữ một người công tác gọi. Tôi tiễn nó ra cầu thang.
— Cậu liệu đấy, Choắt nói, tám giờ kém mười lăm: phái đoàn tổng kiểm tra đã có mặt ở khu Đông.
— Bảy giờ rưỡi, mình sẽ đi.
— Tình hình khẩn lắm rồi đấy.
— Khu mình đã sẵn sàng, về căn bản.
— Khu cậu sẽ nếm đắng, gay nhất đấy.
— Mình cũng đoán như vậy.
— Đừng đoán nữa. Chắc chắn là như vậy.
— Ừ, chắc chắn.
— Không chắc Bướng với Tùng Xòe, chúng nó có đến được không? Khu chúng nó chưa đâu ra đâu cả.
— Mấy khu ấy khó.
Tôi tiễn Choắt qua sân, qua cổng. Ra tận đại lộ Mùa Thu đang hoàn chỉnh hệ thống lũy.
— Thôi! Về với cô dâu đi! Tiễn mình thì có ích lợi quái gì?
Nhưng rồi tôi cũng đi một quãng nữa. Tiếng cây đổ, tiếng đóng cọc, tiếng đục nhà... Tôi chưa muốn quay về. Rặng đèn lồng rắc bụi sáng trong đêm đông, trên những ki lô mét lũy...
— Cậu say đấy à? Choắt hỏi.
— Không.
— Sao trông như thằng lạc đường? Đàng sau quay! Về với cô dâu đi!
Tôi đi trong những tiếng động ph