← Quay lại trang sách

CỔNG LÀNG

Mặt trời mùa đông nhô lên, nhòe nhòe trên một cái làng bị bao vây. Dân kiến thức giấc, đã thấy bốn phía toàn địch. Người ta ngạc nhiên một lúc. Rồi người ta ra quán điểm tâm, người ta đến xưởng. Người nào việc nấy. Thế mà trước đây, cả một không khí hồi hộp, căng thẳng! Người ta tưởng tượng ra bao nhiêu sự khủng khiếp! Bây giờ thì đó! Người ta tò mò, người ta muốn xem mặt địch. Cứ như thể có tin: vườn bách thú mới thêm mấy con sư tử! Hoặc mấy con khỉ! Những người tháo vát nhất đã mò ra được cổng làng. Tự vệ gạt họ về không xuể. Trẻ con bò trong kẽ chân ông bà bố mẹ. Trẻ con thì bao giờ chúng cũng xem được mọi chuyện, dù khó mấy. Một số anh cũng nhìn được những cái có thể nhìn. Họ kể ối thứ về địch. Voi gầm ngựa hí, cờ bát quái... Tất cả lấp ló trong sương mù... Cờ bát quái, cơ man ra! Lại có cả tiếng đàn hát í e, í e! Cái thứ âm nhạc ấm ớ của đạo quân xâm lược ấy! Có bác trông thấy được cả mấy tên Đầu Beo loang lổ dẫn ngựa đi uống nước. Những kẻ may mắn ấy! Họ tha hồ mà kể với bà con trong quán điểm tâm: mũ nó thế này! Áo nó lằn vằn thế này! Ngựa nó bốn chân! Mà bờm ngựa thì lại hung hung như thế này này! Bà con coi họ như những anh hùng của buổi sớm! Đám đông uống sữa, hút thuốc, tán chuyện. Rồi đi làm. Chưa thấy có gì đảo lộn. Thế mà trước cứ ngỡ là ghê gớm lắm! Địch đến bao vây làng hóa ra không khí lại đỡ căng thẳng! Ấy là chưa đến lúc của nó mà thôi...

Tự vệ thì khác! Chúng tôi có sự bận rộn của chúng tôi. Cứ nói một cái lũy Cổng Đông thôi! Chỉ riêng một việc canh giữ bà con và đám nhóc cũng đã đủ là một việc ra việc. Chúng tôi đã khờ, không tính đến sự rắc rối nội bộ ấy. Thế là mất đến một tiếng lộn xộn, bát nháo. Phải chi ngay cho cái khoản thất thường ấy một số tự vệ. Dân làng lắm người lạ! Có vị ra hẳn ngoài làng, trèo lên cây cao mà nhìn. Có anh bạo phổi hơn, cứ dấn bước tò mò về phía nguy hiểm! Có kẻ lại nổi nóng với tự vệ nữa chớ! Chúng tôi cấp tốc đặt trạm gác, rào chắn, ở những quãng yết hầu. Phải đặt từ xa. Vì an ninh của bà con, xin mời bà con về. Vậy mà có bố không biết trèo qua mái nhà nào mà lẻn qua được chín trạm gác, trườn ra khỏi làng. Chúng tôi bị một phen bở vía... Chả thấy địch đâu, chưa chi sớm tinh mơ đã bị chính bà con ta “du kích chiến” cho một trận nên thân. Ôi anh chị em tự vệ đâm ra mắc khuyết điểm: gầm thét với nhân dân! Mà vỡ tổ “tò vò” ở đâu ra lắm thế? Người ta xô, chen, hích, lẫn lộn cả nam nữ, đủ lứa tuổi. Có chị bị rách toạc một bên váy, vẫn cứ chen đi xem, vừa chen vừa túm cái chỗ rách bằng một sợi rơm... Còn những tiếng chí chóe của các cô bị bấu chí thì khỏi phải nói... Mãi sau Cồ Bồ Xồ mới bật ra được một sáng kiến: gọi cấp tốc ba đội văn công tới ca múa nhì nhằng ở ba ngã tư! Đám đông lúc ấy mới bị chia ra, tản mát bớt. Tự vệ tranh thủ thời cơ củng cố các hào chắn, các trạm gác. Tình hình tạm ổn.

Tôi với Cồ Bồ Xồ cũng chả thiếu việc. Những việc tồn lại từ hôm qua? Những việc do tình hình mới đề ra? Kiểm tra vọng tiêu? Công tác chính trị? Lưới trinh sát? Đấy mới là việc. Mắt lưới còn thưa: địch tình cung cấp vừa ít, vừa thiếu thường xuyên. Phải đan thêm vào nhiều mắt lưới nữa, nữa, nữa, cho dày đặc. Tôi đặt chỉ huy sở ở giữa khu nhà đổ. Nói là chỉ huy sở! Vẻn vẹn chỉ có tôi với chú Nghệ ngồi trên một tấm bạt. Cồ Bồ Xồ thì đi đi lại lại, kiểm tra những cái cần kiểm tra. Khu nhà đổ lam nham những vôi gạch phá nền nhà cũ, vòm cột, miên man hàng cây số... Thực ra nó không rộng đến thế, nhưng người ta có cảm giác nó rất rộng: cả một cõi đổ nát trắng phếch trắng phác ra.

— Chú có muốn đi trinh sát không?

— Có... Mừng rơn...

— Gọi đồng chí Hỏa: chuyển cả bộ phận đài ra đây! Rồi chú đi...

— Rõ! A lô! Ông Sướng...

Bầu trời mùa đông như cái áo bông rách lòi cả nền lót, cả bông bẩn. Nó hé ra một chỗ sáng nhòe: đó là nơi ẩn náu ren rét của mặt trời bảy giờ sớm. Chưa thấy địch động tĩnh gì đáng kể. Mới chỉ có một vài xô xát nhỏ ở mé Bắc: vài đội trình sát Đầu Beo vấp phải các công trường Khai thác rừng của chúng tôi. Thế thôi! Mặt trận im ả... Đó mới là điều cần chú ý.

* * *

— Đi khèo một giấc đã! Cồ Bồ Xồ phủi qua loa một cái nền nhà cũ, phía xa.

— Bạt đây này! Tôi nói.

Anh ta nhún vai.

— Tác phong giản dị...

— Bẩn thì có.

— Bẩn cũng có thể bao gồm trong đó có cái được.

— Ế vợ là phải.

— Càng may.

Dứt lời anh chàng đã lăn kềnh ra, ngáy ầm ầm. Tôi giải quyết nốt một số việc với đồng chí Hỏa.

— Bây giờ cậu nào mệt thì ngủ đi. Chỉ cần một thường trực thôi. Tôi nói với bộ phận đài... Ta cứ việc ung dung. Ăn no ngủ kỹ!

Tôi nằm trên một nền nhà đổ. Tôi chả nghĩ gì. Vòm trời lem luốc mây. Tôi nằm be bé dưới vòm trời đông. Tôi chả nghĩ gì. Tôi lọt thỏm đi trong không gian, trong chiến tranh, trong thời gian... Nhưng tôi có be bé thật không? Tôi chả nghĩ gì... Không gian, chiến tranh, thời gian có to thật không? Tôi chả nghĩ gì... Nhiệm vụ của tôi thì nó không hề bé... Nó không bé. Nó cũng không to... Nó là nhiệm vụ, giản đơn vậy thôi. Tôi chả nghĩ gì. Tôi nằm dưới vòm trời lem luốc mây. Tôi là một người lính. Tôi sẽ làm tròn nhiệm vụ... Tôi là một người lính. Tôi gánh vác một nhiệm vụ. Tôi sẽ làm tròn nhiệm vụ.

Nhưng tôi không kịp ngủ. Cổng Đông đã ngầu ngầu bóng giặc. Cờ bát quái bay phần phật. Những tên Đầu Beo loang lổ hò hét. Tôi kéo Cồ Bồ Xồ dậy. Anh chàng vừa dụi mắt, vừa theo tôi ra mặt thành. Kiến Ngão đã đứng đó. Chúng tôi nhìn bọn địch đang dàn trận dưới chân chúng tôi: đội ngũ ngay ngắn, cờ xí tề chỉnh. Tôi nói: “Chưa phải là thiện chiến lắm! Vì chúng ra cái điều là thiện chiến!” Ngão với Cồ Bồ Xồ gật. Lúc đó một tên mặt vằn khoa đao, tới chân thành khiêu chiến. Nó chỉ vào mặt chúng tôi:

— Bọn hèn! Có giỏi ra đây!

Chúng tôi chả để ý đến nó. Chúng tôi tiếp tục xem xét nốt trận thế. Chúng tôi coi như không có nó đang lồng lộn, chửi bới dưới chân chúng tôi.

— Chúng có một sư, Cồ Bồ Xồ nói.

— Chúng bày ra một sư thì có. Tôi nói. Đấy! Các cậu chú ý xem? Có phải một số cứ như còn ngong ngóng ở đàng sau không? Đấy! Nhìn mấy cái thằng vác cờ hiệu kia kìa!

Ngão với Cồ Bồ Xồ gật. Tôi hỏi:

— Báo cáo của trinh sát thế nào?... Cậu Hỏa? Hỏa đã tới cạnh chúng tôi từ lúc nãy.

— Trinh sát ta bị nó lừa... Bắt đầu báo cáo: Có hai sư tiến về Cổng Bắc... Sau đó báo cáo: ba sư! A lô! Ông Sướng đây... A lô!

— Trinh sát thế có bỏ bố người ta không? Cồ Bồ Xồ nói, giọng ba lơn hơn là trách móc.

— A lô! Hết hả! Báo cáo anh: bây giờ họ báo cáo là: chỉ có một sư tiến về Cổng Bắc! Còn hai sư tiến nghi binh về Cổng Bắc, giữa đường quặt sang Cổng Đông... Họ nói là Ban chỉ huy nên cấp tốc đề phòng.

— Cảm ơn lời khuyên, dù đến chậm! Cồ Bồ Xô cười.

— Một... Tôi đọc mệnh lệnh. Một: mỗi lũy cử một tiểu đội ra Cổng Đông. Tôi kéo Cồ Bồ Xồ với Ngão xuống thành. Cậu Hỏa vừa theo cạnh tôi, vừa đánh mệnh lệnh đi. Hai: điều hai trung đội của cậu Thông về khu nhà đổ. Ba: đội Én, đội Bồ Đào có nhiệm vụ bắt tàn quân.

— Tàn quân? Hỏa hỏi lại... Tôi gật.

— Cậu giải thích rõ điểm ấy: sẽ có tàn quân Đầu Beo, khá nhiều, chạy rông về phố Én và phố Bồ Đào... Nhiệm vụ của hai đội ấy: bắt bằng hết! Không để sót một tên nào.

— Rõ! A lô...

— Bốn... Chị Thun dẫn một ngàn tự vệ tới khu nhà đổ nhận lệnh... Hết!

Chúng tôi đã tới chỉ huy sở, ở giữa khu nhà đổ. Những chiến lũy gần nhất cũng đã cử tới đó, những tiểu đội của họ. Tôi điều một số lên cái lũy mới. Lũy mới tức là tên của cái lũy trước kia chọn vào Cổng Đông, về sau xê dịch lùi vào trong làng.

— Cồ Bồ Xồ! Cậu ra chỉ huy lũy Mới! Không một tên Đầu Beo nào được lọt qua lũy Mới.

— Rõ!

Tôi đứng lênh khênh giữa khu nhà đổ. Quân lính từ các ngả kéo đến ùn ùn. Cậu Ngão sốt ruột:

— Còn tôi?

— Anh sẽ nhận nhiệm vụ nặng nhất.

— Rõ!

Mặt Ngão tươi ra. Vừa rồi tự dưng thấy tôi điều Cồ Bồ Xồ lên lũy Mới, Ngão xịu mặt lại: đó là lũy của Ngão.

— Anh có chiến đấu được tám tiếng liên tục không? Tôi hỏi Ngão.

— Mười tám tiếng... Ba tám tiếng... Tôi vốn không biết mỏi.

— Tốt! Anh đợi đấy.

Bọn Đầu Beo ở ngoài thành chửi bới om sòm. Chúng réo cả tổ tiên làng Mận ra. Trong này, tôi vẫn bất động. Mọi người tức tím cả mặt. Tôi đã đả thông anh em. Ta sẽ đánh chúng tan nát, tan nát! Mọi người hãy cứ điềm nhiên mà nghe chửi... Phải không? Có chết ai đâu mà bộn? Các đồng chí đơn vị nào chỗ đơn vị ấy, giở thức ăn ra mà chén cho đẫy đi! Thế là từ khu nhà đổ, tới Cổng Đông, tới bãi Chiến, tới lũy Mới, tốp năm tốp ba quay ra chén chú chén anh. Một bữa tiệc. Chả biết nên gọi là gì? Mặt trời tám giờ ren rét nhợt nhạt. Sương đã tan. Bọn địch đem cả cứt đến vứt vào cổng làng. Tôi đã thảo luận kỹ với Ngão. Ngão càng tươi, miệng cười ngoác tới mang tai. Bây giờ thì anh ta vác cái đầu to xù đứng giữa bãi Chiến nhận bốn ngàn quân, và trao nhiệm vụ cho họ. Tôi đi lại ung dung trên khu nhà đổ.

— Cậu Thông!

— Có tôi.

— Với hai trung đội, cậu có giữ được Cổng Đông không?

— Hai mặt địch phải không?

— Hai mặt địch.

— Được.

— Bao nhiêu lâu?

— Mười tiếng.

— Chỉ cần hai tiếng thôi.

— Rõ!

— Cậu sẽ ở khu nhà đổ này. Khi nào có lệnh, sẽ đem quân ra bít cổng.

— Rõ!

Tôi tiếp tục phân công.

— Chị Thun!

— Có em!

— Sao lại em?

— Có... tôi!

— Chị biết chỗ Kẽm Hem chứ?

— Em biết.

— Lại em?

— Tôi... biết.

— Chị dẫn một ngàn quân ra đó phục kích. Khoảng một giờ chiều, tha hồ mà chém, thỏa tay.

— Rõ!

— Chị định đi đường nào?

— Em đi đường tu-nen số 1. Tôi lắc đầu. Cô gái ngước đôi mắt bồ câu.

— Sao cơ? Đường ấy kín...

— Đồng ý đường ấy. Nhưng không đồng ý xưng em.

— Rõ!

Đôi mắt bồ câu quay đi, với một nghìn tự vệ ầm ầm theo sau. Họ lọt vào tu-nen số 1. Tôi ung dung đi lại trên khu nhà đổ. Chỉ cần gọi đội Bòng đội Cửi đến án ngữ phía khu nhà đổ này nữa là xong. Bốn phía binh sĩ vẫn đang tiệc tùng. Ngoài kia, địch chửi. Tôi coi như trận đánh đã xong.

* * *

— Mở cổng thành! Tôi hạ lệnh.

Mặt trời chín giờ be bé đứng trên kia. Mây bay lừ lừ như những vẩn bông bẩn. Trận đánh bắt đầu. Ngão dẫn bốn nghìn quân ra trận. Ngão đi hục hịch, đầu to bằng cái đỉnh, hục hịch như không bê nổi cái đầu. Bọn Đầu Beo cười ầm. Trong khi đó, tự vệ đã dàn thành một hình bán nguyệt, úp lấy cổng thành. Cái kiểu vừa đánh vừa bảo vệ cổng. Hình bán nguyệt xộc xệch một cách hồn nhiên. Vì là tự vệ? Ngão chạy hớt hải, xếp lại một vài quãng thiếu ngay ngắn. Bọn Đầu Beo cười đánh ầm một cái nữa rồi lao bổ tới. Binh khí chạm. Tự vệ đánh rất ác. Ba chọi một, năm chọi một, hai chọi một. Ngão thì cứ cố tình hò hét, tất tả ngược xuôi, với đôi lưỡi rìu đẫm máu. Bọn Đầu Beo muốn ăn gỏi số quân đó, không xong. Chúng cứ tăng viện thêm từng đợt, từng mũi. Hình bán nguyệt vẫn úp chặt cổng thành, khi co, khi giãn, chắc chắn mà vẫn xộc xệch, xộc xệch mà vẫn không vỡ. Khoảng nửa tiếng, hình bán nguyệt núng thế. Nó cứ co dần lại. Cuối cùng nó đánh chí mạng một chập, bật địch ra, rồi nó chui tọt vào, đóng chặt cổng thành. Bọn Đầu Beo chửi mắng không hết lời. Hai bên mới chỉ gọi là xây xát. Bọn Đầu Beo thì hết sức thòm thèm, như người đang ăn dở miệng. Chúng réo cả đến các cụ tổ mười lăm đời của chúng tôi ra. Cổng thành vẫn đóng im ỉm.

— Mở cổng thành! Tôi hạ lệnh.

Mười giờ. Ngão lại dẫn bốn ngàn binh ra. Lại hình bán nguyệt úp cổng làng. Bọn Đầu Beo quai mồm ra chửi, giễu cợt. Tự vệ được lệnh chửi lại. Chí cha chí chới như hai bà lắm điều. Lần này, bọn Đầu Beo có kế hoạch tiến đánh rõ rệt. Hai mũi đánh hai bên, trong khi một mũi lớn, tới hai trung đoàn đánh thẳng giữa hình bán nguyệt.

— Cẩn thận! Không được vỡ! Ngão thét om sòm.

Hình bán nguyệt chống đỡ kịch liệt. Nó co, nó giãn, méo mó. Nhưng nó ra vẻ không chịu vỡ. Bọn Đầu Beo tăng viện chớp nhoáng cho mũi giữa.

Ôi thôi! Vỡ! Ngão thét, hai tay giơ lên trời... Tiếng than đó là một lệnh cho hình bán nguyệt.

Tức thì đánh roặp một cái, hình bán nguyệt vỡ tung, như một bình thủy tinh. Nó vỡ thành năm mảnh. Văng tít đi mỗi nơi một mảnh. Cổng thành đóng không kịp. Địch ùa vào... Địch ùa vào... Đồng thời chúng nhảy sấn lên năm mảnh bán nguyệt, định nhai sống... Nhưng năm mảnh đã quay tròn lại thành năm bánh xe! Rất vững! Năm bánh xe! Năm bức thành tròn đứng sừng sững giữa vòng vây địch, ở ngoài làng... Địch ùa vào cổng thành. Địch ùa vào... Tự vệ chống cự yếu ớt. Địch ùa vào...

Cuộc chiến đấu diễn ra ngoài làng: xung quanh năm bánh xe, trong làng: trên bãi Chiến!

— Bít cổng! Tôi hạ lệnh.

Anh Thông lao đi. Mũi thương như tung hoa vãi tuyết... Từ khu nhà đổ, đội Bòng đội Cửi tung quân tới tấp ra bãi Chiến. Trên lũy Mới, Cồ Bồ Xồ vẫy tay: tự vệ đổ xuống như mưa rào. Mặt trời mười giờ sáng nhòe, sáng nhòe... Bị đánh dập từ hai mặt, bị bịt cổng, hơn năm ngàn quân Đầu Beo hoảng hốt. Hệt như một bát canh láo nháo nấu với huyết tươi. Từng bộ phận đầu hàng.

Tự vệ tước ngay khí giới của chúng: bẻ cụt gươm, giáo, đao... Bãi Chiến chỉ hở có một mặt ăn về phố Én, phố Bồ Đào. Một ít tàn quân đổ xô về mặt ấy. Chúng chạy í a í ới. Số phận của chúng cũng đã nằm trong kế hoạch của tôi rồi.

Bây giờ đó, ba ngàn lính Đầu Beo cụt gươm đang đứng trên bãi chiến, ủ rũ, sợ hãi. Dưới chân chúng là một chiến trường máu, với các bạn chúng, hơn một ngàn.

— Nhặt xác bạn chúng mày lên! Tôi hạ lệnh.

Chúng nó nhặt xác.

— Tha mạng cho chúng mày! Rừng rộng, đất rộng, nhiều bông trái, hãy đổ bồ hôi lương thiện mà kiếm ăn! Cút!

Cổng thành mở toang. Năm bánh xe của Ngão đã mắc răng cưa với nhau, hộ vệ cổng. Cả một bức thành rắn câng! Đám bại binh cụt gươm vác xác bạn của chúng, lếch thếch đi hàng dài ra khỏi cổng làng. Đài của Hỏa nói vang lên khắp chiến trường:

— Hỡi bọn xâm lược! Hãy nhìn đám bại binh cụt gươm đây! Đó là số phận của chúng mày!

Nhưng bọn Đầu Beo láo nhác phía xa kia, chúng có nhìn đám bại binh của chúng thật, song nhìn một cách khác. Chúng lăm lăm gươm nhọn để tiêu diệt bạn chúng! Chúng không coi là bạn nữa! Cụt gươm, mất khả năng chiến đấu, cái lệ cổ truyền của bọn Đầu Beo: đem chém hết. Ba ngàn tên lính cụt gươm đang vác xác bạn chúng, lếch thếch tiến về phía đại quân Đầu Beo... Những ánh mắt ghê gớm và ánh gươm hung ác đang chờ đợi chúng! Bọn bại binh vẫn tiến, lếch thếch, tái xanh tái tử. Còn hai trăm mét... Còn năm mươi mét...

— Đàng nào cũng chết! Phá vây mà vào rừng! Anh em ơi! Phá vây mà vào rừng!

Một tiếng hô hào bốc lên thẳng vút giữa đám bại binh...

Chúng dừng lại. Biện pháp của cùng đường! Cái liều cũng rất hay lây...

— Phá vây anh em ơi!

— Phá vây!

Chúng sấn vào đại quân Đầu Beo. Chúng vung xác bạn chúng làm vũ khí. Chúng đã bị cụt gươm, nhưng chúng còn tay, còn răng, lại sẵn những cái xác tử sĩ đó! Chúng là bọn cố cùng! Cảnh ấy chưa hề diễn ra, đại quân Đầu Beo bị đòn bất ngờ. Thế là ẩu chiến, nháo nhào tất cả. Tôi chỉ còn chờ có cái dịp ấy:

— Tất cả! Xung phong!

Chúng tôi dốc ra gần hết. Có đến bảy ngàn tự vệ! Hai sư đoàn địch kêu thét như ri, mạnh đứa nào đứa nấy chạy, cứ như một đống bèo băm. Mặt trời mười hai giờ sáng hoe lên một chút nắng nhạt. Chúng tôi truy kích. Tô giới truy đến đâu đã được phổ biến: đến đó, các đơn vị sẽ tự động quay về. Nhưng hiện tại, thì đó, mạnh ai nấy truy. Quân chạy vắt chân lên cổ mà chạy. Quân đuổi vắt chân lên cổ mà đuổi. Cả bên thắng lẫn bên thua, hai bên đều ô hợp như nhau...

* * *

Tôi ở lại với cái chiến trường nát bời. Những vệt máu... Những xác chết... Trong cổng thành, ngoài cổng thành, không khí ắng hẳn xuống. Những đơn vị thương binh tử sĩ làm nhiệm vụ của họ, trong im lặng. Họ nói chuyện với nhau rất ít, rất khẽ... Những vệt máu... Không ai phân biệt được: đâu vệt máu địch, đâu vệt máu ta... Vệt máu là vệt máu... Thương binh, tử sĩ thì khác! Phân biệt được. Nhưng chính sách của chúng tôi lại không phân biệt. Thương binh địch chúng tôi cũng cứu chữa. Cố nhiên bẻ cụt gươm của chúng đi. Tử sĩ địch chúng tôi cũng chôn... Một cái xác là một cái xác... Người ta ngửi thấy mùi tanh ở mặt đất, ở cổng làng. Tôi đi lênh khênh giữa chiến trường nát bời. Mặt trời một giờ bắt đầu run lẩy bẩy. Nó rét... Những cái băng ca trăng trắng im lặng cáng thương... Từng dòng băng ca trắng... Một đám ma khổng lồ, phải! Một đám ma khổng lồ! Từng dòng băng ca trắng... Những cái huyệt lớn, chôn chung. Chứ chôn riêng làm sao xuể? Những cái huyệt tanh. Những dòng băng ca trắng. Người ta đang chôn cất một trận đánh. Một trận thắng to hẳn hoi, người ta đang chôn cất nó. Xóa vết tích tanh tưởi của nó. Thế là phải. Chứ sao? Tôi đã qua nhiều trận đánh, khá nhiều... Tôi vẫn không thể quen với cái mùi tanh này. Tôi đi thẳng về khu nhà đổ.

— Cho tôi bản đồ khu Đông!

Cậu Hỏa đưa tôi. Tôi trải nó ra. Đàng kia, người ta vẫn đang thu dọn một chiến trường tanh. Ở đây tôi nghiên cứu trên bản đồ những trận đánh khác. Nhiệm vụ của tôi! Tôi không thích sát hại. Nhưng tôi làm nhiệm vụ của tôi. Tôi làm việc cho hòa bình của dân kiến. Tôi nghiên cứu những trận đánh đại-sát-hại trên bản đồ. Một vài tiếng rên của thương binh, đâu đây. Xa kia, những dòng băng ca trắng. Những cái huyệt tanh...

— Triệu tập hội nghị các đội trưởng: ba giờ chiều. Địa điểm ngay đây, khu nhà đổ.

— Rõ! A lô! Ông Sướng đây...

Lính truy kích đã lục tục kéo về. Tiếng họ cười nói vọng từ xa. Những dòng băng ca trắng vẫn tiếp tục cáng thương, bình thản, lặng lẽ. Đám truy kích đi qua chiến trường nát bời. Tự dưng họ không cười to, nói to nữa. Mùi tanh. Những tiếng rên. Dòng băng ca trắng. Có người nhổ nước bọt. Nhiều người bịt mũi và ngảnh mặt đi. Ngảnh mặt đi đâu? Chỗ: một xác cụt đầu, chỗ: một đống ruột xổ, chỗ: một bàn tay máu. Đàn quạ gòa gòa trên chiến trường. Dòng truy kích đi qua chiến trường. Họ trở về phố của họ, lũy của họ. Thi thoảng, nhếch nhác từ làng ra, một tốp bại binh cụt gươm, có tự vệ áp tải. Đó là đám tàn quân bị tóm cổ ở những phố Én, phố Bồ Đào... Người ta sẽ phóng thích chúng ở ngoài rừng. Chúng bước lem nhem, như móc ở cống lên. Tôi cúi xuống bản đồ. Tôi nhìn thấy khu Đông. Những phố như tranh lụa. Mặt trời nhòe nhòe. Cổng làng hoen hoen một chút máu. Đúng vậy! Tôi nhìn thấy khu Đông. Có cả một dòng băng ca trắng, trong bản đồ.

* * *

Cả ngày hôm ấy tôi không gặp Sứa. Sứa cũng không có thì giờ để dọn đến trụ sở khu Đông. Tình hình nó sung công của Sứa mất cả buổi trưa. Lại đêm nữa! Không biết mấy giờ đêm Sứa mới có thể rời trạm? “Dù khuya mấy em cũng sẽ về.” Sứa hẹn tôi trong đài. Tôi nói: “Anh ngủ ở Cổng Đông. Chỗ khu nhà đổ.” Sứa nói: “Em sẽ đến.” Tôi nói: “Anh chờ.” Và đó, đêm đã xuống. Tôi với Cồ Bồ Xồ làm việc ở chỉ huy sở. Bây giờ nó đã ra vẻ chỉ huy sở. Các cậu ra-đi-ô đã căng lều, trải bạt. Đốt lửa nữa! Ngọn lửa phập phồng giữa khu nhà đổ, như một quả tim.

Để đón Sứa, tôi đã sửa soạn một cái lều, ở xa. Một cổng tò vò phá dở, che bạt, và trải cỏ mềm với chăn lính. Cũng có thể gọi là một buồng hạnh phúc giữa khu nhà đổ. Không biết từ lúc nào, anh em đã vứt vào đó những bông hoa trắng, tím, đỏ, hồng.

Chú Nghệ đã đi trinh sát. Đài còn lại Hỏa, kiến Tửu, cái anh bét rượu, kiến Lang, mặt cứ như một củ khoai hà; với kiến Học, một thanh niên khôi ngô, lúc nào cũng không rời quyển sách. Tôi làm việc với Cồ Bồ Xồ... Không khí khu Đông đêm nay: đèn chăng lá kết! Tất cả các đơn vị đều đã được chiến đấu! Và chiến thắng khá to! Đánh tan những hai sư cơ mà? Tiêu diệt trên một vạn giặc! Lại bắt được tên đại tướng Luỳnh Kẽm Hem! Nữ đội trưởng Thun cười tít đôi mắt bồ câu. Đèn chăng lá kết. Người ta làm cỗ. Cũng có một số khăn tang. Một vài tiếng thở dài giữa bàn tiệc. Đèn chăng lá kết khắp khu Đông...

Khu Đông! Trong đêm dạ hội, nó mới càng đẹp chứ! Nó không có cái xô bồ và không khí cổ điển của xóm La Tinh. Nó cũng không có cái không khí bảo tàng với những kiến trúc đồ sộ của khu Hy Lạp. Khu Hy Lạp có những vòm cuốn, cổng tò vò, bãi vận động, tượng, phần mộ, những công trình bằng đồng hun, bằng đá vân, những phù điêu bằng gốm... Âm nhạc suốt ngày đêm bơi bơi trong cõi đồng đen, đá bạch, ngắm nghía vào từng vỉa hè, từng góc bàn ăn, từng người. Bướng được làng cử làm khu trưởng khu Hy Lạp! Cái tính nó thế, bây giờ phải phụ trách một việc như thế nào? Chỉ thị của làng: tuyệt đối không được phá một viên đá lát đường nào! Người ta chỉ có quyền xê dịch, cất giấu, chôn... Bướng thành như thể một ông giám đốc quân sự của bảo tàng viện khổng lồ khu Hy Lạp.

— Con lạy các bố! Bướng van vỉ nhẹ nhàng anh chị em tự vệ. Cả các mẹ nữa! Các bố các mẹ nhè nhẹ tay cho con nhờ!

Đi Ngược lại, ở khu La Tinh, ông khu trưởng Lùng Tùng Xòe bối rối! Tuy có quyền phá, nhưng Tùng Xòe không muốn. Cái gì cu cậu cũng tiếc. Cứ mó cái này, nhắc cái kia, hết cả ngày giờ. Mà Tùng Xòe lại được một anh chàng khu phó quý hóa chớ. Tính nóng như lửa. Lúc nào anh ta cũng chỉ một điệu kêu: “Phá! Phá! Phá trắng phếch ra! Phá! Làm vòng đai trắng!” Được cái là tự vệ họ chỉ đợi lệnh của Lùng Tùng Xòe. Anh chàng khu phó ấy tức sùi bọt mép.

— Để nước đến chân mới nhảy à?

— Nước còn xa... Phải nhảy cho nó ra nhảy. Khu Đông đã có kiến Gầy trấn giữ... Tùng Xòe nói. Nước còn xa...

Anh khu phó ấy mới đôi mươi. Đứng đâu, ngồi đâu, chân anh ta cứ giật giật như chân con ngựa non. Tên cúng cơm anh là Kiến Hung. Tự vệ đặt cho anh cái biệt hiệu: Háu Đá.

— Thế nào? Khu mày đến đâu rồi?

— Khu mày?

Ba chúng tôi vẫn liên lạc với nhau bằng đài. Hôm qua, Tùng Xòe bị phái đoàn kiểm tra khiển trách. Tùng Xòe càng bối rối. Nhưng hôm nay? Những quãng đáng ra phải phá, Tùng Xòe đã cho bắc lũy trùm lên. Có công trình bị lấp kín, như chôn. Sau này dỡ lũy ra, vẫn còn công trình đó, nguyên xi. Có nhà bị chôn ngang lưng. Hoặc chôn tới cổ. Lũy ở khu La Tinh cao bằng núi. Các công trình kiến trúc cổ, quán công cộng, nhà cao, trông cứ như những người khổng lồ bị chôn sống. Nào kém gì khu Hy Lạp? Phái đoàn kiểm tra đã bằng lòng.

Nằm ở giữa hai khu bề thế ấy là khu Đông. Khu chôn rau cắt rốn của tôi. Nó có vẻ đẹp khác. Nó không có cái vẻ hùng vĩ của đá mập, đá vân, đồng hun, đồng đỏ. Nó chỉ có cái nên thơ của lụa. Đường cong mỡ gà của cầu Dải Yếm. Màu sắc lăn tăn như rặng liễu, rặng phi lao, búi trúc tím. Những búp đỏ, búp trắng man mác phố Hồ Sen. Ngay những căn nhà với biệt thự cũng như tết bằng lụa nõn, bằng mút-sơ-lin. Cây cối như thêu. Có phố chả khác bức tranh cổ. Những xúc động đằm thắm chảy bốn mùa trên các vỉa hè, các cổng ngõ, các gia đình. Bây giờ thì bức tranh lụa khu Đông đã rách thủng nhiều chỗ. Đừng nói nhiều chỗ! Rách một chỗ cũng đã đủ để đứt ruột! Người ta tự an ủi: “Sau này, xây lại!” Nhưng người ta cũng biết rằng mọi cái gì làm lại, đều không đúng là nó nữa! Đêm nay đèn chăng lá kết. Khu Đông đã đẹp... Bây giờ nó đẹp vẻ đẹp khác: hoen hoen máu! Nó giống một cô công chúa mong manh nào đó, bỏ lâu ngày xước cả gót sen, xiêm áo rách, tóc xõa, long đong trên những con đường giặc giã. Dạ hội tám giờ. Tôi cho anh em đi chơi. Mỗi mình anh Học ở lại, thường trực. Dạ hội chín giờ, Cồ Bồ Xồ nói:

— Bây giờ ta phân công. Thằng nào thường trực đêm nay? Thằng nào đi?

— Tôi thường trực. Cậu đi...

— Hai bên cùng có lợi. Cồ Bồ Xồ nói.

Vầng trăng mười bốn đã mọc từ lâu. Nó đang tãi lạnh trên cổng thành. Trên chiến trường tanh. Đêm xuống. Sương xuống. Tôi đi lững thững trên mặt thành. Đó đây lác đác mấy chiếc băng ca trắng. Người ta tiếp tục tìm những thương binh ở những quãng hẻm. Kinh nghiệm: Có khi sót thương binh hàng mấy ngày trời! Tôi đi trên mặt thành. Vầng trăng mười bốn đứng ngang vai tôi. Một vầng trăng ren rét. Tôi ngồi xuống mặt thành. Tôi chả nghĩ gì. Một vài chiếc băng ca trắng. Tôi đi. Tôi giãn ra các bắp thịt, toàn bộ gân cốt. Tôi ngồi trên mặt thành. Vầng trăng mười bốn rắc bạc. Xa kia là dạ hội. Những tiếng trống, tiếng thanh la... Tôi chả nghĩ gì. Tiếng vang xa vui vui của một khu phố đang hội hè. Một chiếc băng ca trắng. Ở dưới chân thành, có một thương binh rên bên cạnh chiếc băng ca, áo dạ, giày ủng. Một tự vệ! Hai cô nữ cứu thương vận lu trắng. Tôi chả nghĩ gì. Tiếng vang xa vui vui của khu phố đang hội hè. Một tự vệ bị thương nặng rên bên cạnh băng ca.

— Để... để tôi đây... Tôi chết...

Một cô cứu thương quỳ bên cạnh anh. Một cô đứng. Các cô hết sức dỗ dành anh thương binh. Để chúng em khiêng anh lên băng ca. Anh sẽ khỏi. Để chúng em cáng anh về bệnh viện. Anh sẽ khỏi.

— Không... Không! Tôi chết... Mặc tôi ở đây... Anh ta giãy đạp, chửi...

Đột nhiên anh ta im lặng. Anh ta túm chặt lấy cô nữ cứu thương quỳ. Anh kéo cô. Anh nắm lấy lưng, lấy ngực.

— Anh... Anh... bỏ tôi ra...

— Lạy cô... Tôi... tôi chết... Chiều tôi một chút... Lạy cô...

Rồi anh chắp hai tay, lạy. Rồi lại thình lình nắm lấy ngực, lấy lưng. Lạy cô! Hai bàn tay chắp thảm hại...

— Em chịu thôi...

— Lạy cô. Tôi sắp chết... Anh ta khóc, mếu máo. Hai bàn tay van lạy... Những cái lạy vô tận, vô tận...

— Hay em chiều anh ấy một tí... Anh ấy sắp chết... Cô đứng nói. Khổ thân anh ấy...

- Em chịu thôi... Cô quỳ giãy nảy... Chị có hy sinh được thì chị hy sinh.

— Hu-u!.. Tôi chết... Lạy cả hai cô... Đi-i! Cô nào cũng được... Lạy cô! Chiều tôi một tí... Tôi chết... A--ấc! Anh ta nấc. Lạy cô!

— Thôi để tôi vậy! Cô quay đi chỗ khác đi!

Cô quỳ lúc nãy đứng dậy quay đi... Tiếng vang xa của khu phố đang hội hè. Cô đứng quỳ xuống. Lạy cô! Cô ấy ngồi trên anh thương binh... Vạt áo lu xòe ra che... Úi... Hai cánh tay be bé, trắng nuột, chống trên đất... Lạy cô... Tôi chết... Sướng quá cô ơi... Tôi chết! Anh thương binh giãy. Vầng trăng mười bốn. Nó rét. Cô nữ cứu thương quay đi rất lâu, rất lâu... Tôi chết mất... Tiếng vang xa của khu phố đang hội hè... Cô cứu thương nói: Thôi nhé! Vầng trăng mười bốn leo lên cao... Thôi nhé?... Chiếc băng ca trắng toát... Không có tiếng đáp... Tôi im lặng quay về cổng làng. Người thương binh đã chết? Sương trắng bay trên chiến trường tanh. Xa xa, phố phường đang dạ hội. Tôi quay về khu nhà đổ.