← Quay lại trang sách

LŨY MƯA

Bình minh mưa. Tôi tiễn Sứa. Phải đưa Sứa qua cái ngã tư nguy hiểm. Lô cốt Mười Sừng đứng lam nham, xám ngoét. Nó giương hàng trăm con mắt lỗ châu mai. Không biết nó nghĩ gì? Nó cứ trợn trừng mắt ếch! Chúng tôi đi be bé trên ngã tư mưa... Trời đất nhá nhem. Cái tranh tối tranh sáng của bình minh mưa! Không ai biết một cuộc đại phản công đang ủ men trong các tích tắc... Phố xá, lũy, ngã tư, lô cốt Mười Sừng, tất cả vẫn êm ắng! Trời đất điềm nhiên mưa... Tái mét! Tôi tiễn Sứa đi trong cái tái mét của một sớm mưa mùa đông...

— Em về nhé!

Sứa bước qua tô giới khu Đông và khu Giữa.

— Tối nay em đến.

— Mấy giờ? Để anh đón?

— Chín giờ, anh nhé! Một cái hôn chia tay trên tô giới nhòe mưa.

— Em phải cẩn thận đấy.

— Anh í!

Sứa đi trăng trắng. Bước chân be bé giẫm trên tô giới mưa, trên vỉa hè mưa... Tôi lộn về chỉ huy sở. Năm giờ... Mái hiên màu son đậm. Đồng chí Hỏa đã dậy làm việc. Gian buồng tái mét...

Một chú bé ăn vận kiểu cà lơ thất thểu đang ngồi làm việc với Hỏa ở góc buồng. Mặt vàng. Nghệ đấy! Chú trinh sát tí hon của khu Đông. Chú vận một chiếc áo xác tải đã thủng rách. Riêng gì chú? Ai cũng đã lăn lộn qua cả một chuỗi ngày cơ cực. Bộ mặt chú Nghệ nghênh nghênh trên cái áo xác tải.

Trinh sát của chúng tôi bám sát địch. Tin tức cung cấp đã khá hơn trước. Tích què, Nũm Lả vẫn điều khiển họ khắp các phố giặc. Khá hơn trước! Nhưng vẫn còn bị hố với chúng! Mỗi lần thế, chú Nghệ lại vênh cái mặt vàng lên, thẫn thờ

— Mẹ nó! Cay...

Hoặc:

— Ốm đòn!

Hoặc:

— Chơi được! Chơi được!

Cứ như thể hai đứa bé ục nhau.

— Chú có muốn đổi công tác không?

— Không.

— Chú thích à?

— Tương đối...

— Cố gắng nhá!

— Vẫn...

Bọn Đầu Beo hồi này chán nản tận tủy. Từ cấp quan năm đổ xuống, bói không ra một đứa con tin tưởng một li leo gì chiến thắng. Lại còn cái rét đại hàn này! Mùa đông giết cả chúng tôi, cả chúng nó. Dù sao, chúng cũng kém chịu rét hơn chúng tôi. Cả đói nữa! Chỉ cần rút khẩu phần của chúng độ một góc tư, thế là đủ cho chúng chửi từ thống chế tổng chỉ huy cho tới viên đội trực tiếp cai quản đơn vị. Nhưng đừng tưởng chúng tan rã! Cái chán của bọn lính đánh thuê ấy! Chúng lao vào những cuộc trác táng quên trời đất, để lát nữa lại vác gươm ra trận, chém giết cũng quên trời đất! Cái lối sống ấy với cái lối đánh ấy! Một đội quân như thế, thì có đem mà độn đường.

— Chú biết căn nhà này chứ?

— Số mười cửu chứ gì?

Tôi gật. Một bản đồ trải rộng trên sàn gác, cạnh lò sưởi. Khu Đông, khu La Tinh, khu Hy Lạp... Cái tật của tôi! Tôi nhìn thấy trên bản đồ nhiều thứ, tùy từng thời tiết. Những đường phố tái mét, những cái lũy mưa... Bóng tự vệ. Bóng địch thập thò những trạm gác, những lô cốt. Tất cả tái mét trong buổi sớm mưa phùn, đại hàn.

— Chú điều tra cho tôi con hào này!

— Dễ thôi.

— Cái cống ở tô giới khu Hy Lạp này.

— Cũng dễ.

Tôi chuẩn bị những chi tiết vụn vặt cho cuộc đại phản công sắp đến... Cả một bồ chi tiết!

— Chú có nhớ không?

— Có. Anh cứ tiếp tục.

Máng nước của lô cốt phố Xu Xê... Sân thượng số nhà 17... Đấy có một trung đội Đầu Beo, phải không? Ừ! Xem cả cái vườn sau nữa! Nhớ chứ?

— Dễ không.

— Chú nhắc lại tôi xem?

— Đây nhé! Nghệ nhắc lại vanh vách, không sót một chi tiết nào.

— Khá lắm. Tôi khen.

— Thần đồng mà lị quên? Nghệ cười. Một nụ cười vàng, hồn nhiên.

— Bao giờ xong?

— Tôi sẽ báo cáo dần dần. Đến thập nhất giờ trưa nay sẽ xong hoàn toàn.

— Nhanh thế?

— Cả một bộ máy nhóc cơ mà anh?

— Cẩn thận! Kẻo rồi nhanh nhảu đoảng!

— Tôi đảm bảo... Đây! Nghệ chỉ lên đầu... Cái sọ này này! Một sọ kinh nghiệm láu cá anh nhé! Nghệ đứng dậy đánh cộp một cái ở đôi chân đi đất. Chú lao đi.

— Anh Hỏa nhớ lấy báo cáo! Chi tiết và chính xác!

— Rõ!

Ra đến cầu thang, Nghệ bỗng quay lại, ngập ngừng đi đến tôi:

— Anh cho tôi hỏi câu này?

— Hỏi đi...

— Tôi... tôi...

— Chú cứ nói. Tôi sẽ giúp chú, hết sức.

— Thế này vậy... Tôi... Tôi tính! Như mạng tôi, thế! Anh so xem? Với mạng đại thống Húc chẳng hạn! Thế! Anh bảo... Ai hơn?

— Chú hơn! Tôi không trao cho chú việc ấy!

— Nhưng... Có lợi? Lợi cho... ta!

— Không! Chúng ta thắng, mặc dầu đại thống Húc! Trăm nghìn đại tướng, tiểu tướng, mặc xác nó! Chú lại đây...

Tôi đặt tay lên vai chú Nghệ. Một cái vai non, dô xương thấm qua xác tải:

— Chú hứa với tôi đi! Không được làm cái việc ấy.

— Tôi... Tôi...

— Việc ấy vô ích! Nhất là lúc này. Nếu có ích, làng đã trao cho chú! Rõ không! Hứa đi!

— Tôi hứa...

Một chú bé huýt sáo đi trong phố mưa. Mưa đổ lút thút. Mặt trời không leo lên được. Tiếng sáo của chú Nghệ chiếp chiếp như tiếng chim non. Trông cái bóng của chú đi trong lòng phố tái mét! Hai tay đút túi quần thủng, cái đầu nghếch bù xù trên áo xác tải, huýt sáo...

* * *

Tôi lao vút đi trong phố mưa.

Lệnh của thiếu tướng Rỗ: bảy giờ, tôi phải có mặt ở thị sảnh! Tôi phóng... Lũy khu nhà đổ ngã tư lác đác người, tự vệ, mưa... Tất cả tái mét! Tái mét hơn thường lệ. Một dòng kiến người xếp hàng ở hiệu bánh góc phố. Mấy bác thợ già đi xưởng. Cái rét đại hàn. Không khí thấp thoáng những điều gì bí mật? Lấp ló một vài tốp chui xuống tu-nen. Một trung đội đi ngược. Một trung đội rẽ ngang. Có nhẽ dàn lực lượng? Lúc đi qua Bãi Võ, tôi thò đầu vào! Mẹ ôi! Có đến ba sư đoàn mới toanh, chưa bóc tem! Đành đành! Mấy cái pháo bố nổ trong tim tôi. Tôi bước qua một ngã tư nhòe nhòe. Hàng cây trụi đen. Vôi gạch đổ. Gỉ xi măng. Mưa. Lại có một ngày u ám được đến thế này nữa? Nhưng thắng lợi đã cục cựa, hồng hào, trong cái vỏ tái mét của các tích tắc, các sự vật. Tôi đâm bổ vào thị sảnh. Mưa rơi lăn tăn trên sân màu da lươn.

Hỏi giấy, xuất trình, chờ đợi, tôi bị xách đi qua hai ba nơi. Từ cổng tới buồng thiếu tướng, chỉ có vài chục bước, thế mà tôi phải đi vòng quanh, trên hàng ki lô mét những rầy rà hành chính. Bây giờ, tôi đã ngồi yên trí ở phòng đợi. Tôi gặp Bướng với Tùng Xòe. Phòng đợi vắng vẻ.

— Làng Nành phản công rồi! Bướng nói toe toét.

— Bao giờ?

— Hôm qua... Bướng nói. Phản công ban ngày mới ác chứ? Rất là một sự bất ngờ! Năm sư đoàn Nành thình lình kéo cờ, ầm ầm từ lâu đài Bòng Bong chồm ra! Nuốt sống cả bảy sư đoàn Đầu Beo nhé! Chủ chúng còn cố thủ trong một vài cái lô cốt tuyệt vọng... Ngon ơ!

Bướng nói như một kẻ am hiểu.

— Sáng sủa! Tình hình phòng tuyến phía Đông này. Mặt trận miền Tây này. Sáng sủa!

— Bao giờ mày chả nói sáng sủa?

— Bây giờ khác! Tổng phản công rồi.

— Ai bảo?

— Đoán ra thì biết... Bao nhiêu dấu hiệu? Ngay ở làng Mận này chứ đâu? Bướng chỉ Đông chỉ Tây... Rồi nó ghé sát tai tôi.

— Năm sư nhé! Các “cụ” ấy giấu đâu mà tài thật! Mãi sớm nay mới thả ra! Mới toanh!

Quả là các mặt trận xám ngắt của chúng tôi đều đã nhận được một mệnh lệnh đỏ hồng, tổng phản công. Mỗi nơi sẽ căn cứ điều kiện của mình mà khởi lên, chớp nhoáng và mạnh bạo. Cố nhiên, tránh làm ẩu! Ấy là lát nữa chúng tôi mới biết thế! Còn lúc này thì chưa...

— Không khéo làng mình chậm! Bướng phê phán. Không ai đáp nó...

— Ngay cả làng Nành nữa, tao cũng cho là chậm! Bướng tiếp tục phê phán... Cái thằng! Đến câu thứ ba nữa, nó sẽ phê phán cả Ủy ban quân sự, cả trời đất! Nó cứ như say... Chậm! Chậm!

— Mày mà là đàn bà, mày sẽ đẻ non suốt đời. Tôi nói! Mày đẻ không cần chửa!

Lùng Tùng Xòe cười ùng ùng. Bướng ta ngoác miệng:

— Còn chúng mày? Chúng mày thì cứ chửa mãi mà không đẻ phỏng? Không nhanh nhanh lên thì chúng bỏ chạy bố chúng nó mất! Còn đâu nữa mà tổng với tỉnh?

Một tốp từ buồng thiếu tướng đi ra. Họ phóng đi, lật đật. Sát khí bốc lên quanh họ, từ họ, sau họ, thành cả một vệt. Đến lượt chúng tôi vào.

Một bản đồ to tướng treo trên tường. Cả một cái làng Mận be bét, nhòe mưa. Thiếu tướng đứng, cao lớn, vai to, một chân ghếch lên ghế, lưỡi tầm sét đặt ngang đùi. Cả một pho tượng tạc bằng đá rỗ! Giọng thiếu tướng không nén nổi niềm vui, nó cứ ục ục như một tràng sấm đương nô nghịch giữa trời bão.

— Tổng phản công rồi! Các anh biết không?

Bướng ta có vẻ đắc thắng:

— Chúng tôi mới ngửi thấy! Chứ chưa đích xác.

— Đích xác rồi... Thiếu tướng cười.

— Chúng tôi vừa mới trao đổi với nhau. Sợ rằng chúng nó bỏ chạy.

— Đúng!

Bướng ta nhìn chúng tôi. Cái kiểu: “Thấy chưa? Ông đã bảo mà!” Rồi nó quay sang thiếu tướng:

— Chúng tôi... Nó có nhã ý cho tôi với Tùng Xòe được dự phần vào những ý kiến của nó. Chúng tôi đề nghị là nên đánh ngay.

— Ừ, đánh ngay... Đêm nay: không giờ! Xê xích vào cái khoảng ấy... Hễ cứ có ba pháo hiệu đỏ, là liên khu của các anh khởi thế công ngay! Rõ chứ?

— Rõ!

Liên khu La Tinh, Hy Lạp, khu Đông gọi là Liên khu I.

— Kế hoạch của các anh xây dựng, tôi đồng ý. Trừ một điểm. Đây này! Thiếu tướng khoa khoa lưỡi tầm sét trên một lô cốt tái mét. Cái lô cốt Mười Sừng này này... Mặc xác nó! Các anh đánh kiềm chế thôi. Kệ nó. Sau này, không đánh, tự nó, nó khắc tan.

— Rõ!

— Sư đoàn I của làng sẽ phụ trách tấn công dọc theo đường Cổng Đông. Họ sẽ chịu sự điều khiển của các anh.

— Rõ!

— Các anh chắc là biết sư trưởng ấy chứ? Kiến Mặt Đỏ ấy mà?

— Có. Chúng tôi biết.

— Cán bộ liên khu các anh có đủ không?

— Đủ.

— Đường tu-nen?

— Vẫn tốt. Chúng tôi đang cho đục thêm một vài quãng.

— Bao giờ xong?

— Ba giờ chiều.

— Tốt! Các anh có đề nghị gì nữa không?

— Đề nghị cho chúng tôi đánh sớm hơn nữa! Bốn giờ chiều. Bướng nói.

— Không sớm hơn được nữa! Thiếu tướng nói. Còn các liên khu khác! Các anh định đánh một mình à?

— Rõ!

— Cậu Gầy làm chỉ huy trưởng liên khu. Bướng với Tùng Xòe: phó! Còn trưởng phó từng khu phố, các cậu tự xếp đặt lấy!

— Rõ!

— Hai điểm cuối cùng. Thiếu tướng đi đi lại lại. Một: phải động viên, trong từng người lính, trong từng người dân một tình cảm mới. Tình cảm tổng phản công! Đừng tếu, ẩu. Mà phải lạc quan sâu, trầm hùng...

— Rõ!

— Hai: đảm bảo bí mật! Kế hoạch cụ thể, tới phút cuối cùng mới phổ biến. Mà chỉ phổ biến những điều cần thiết, với từng bộ phận một. Không phổ biến toàn bộ kế hoạch.

— Rõ!

Thiếu tướng gật. Một nụ cười rộng ngoác, hồn nhiên: tức là chúng tôi có thể rút lui! Ba gót giày nện cấc một tiếng gọn! Thiếu tướng đi đi lại lại trong buồng. Mưa rơi tái mét. Ba chúng tôi đi âm ấm trong các phố tái mét...

* * *

Cồ Bồ Xồ thay tôi làm trưởng khu Đông. Nó từ lũy Mới phóng đến, to xù, phu la vằn chân rết, quần áo cẩu thả kiểu nghệ sĩ.

-“Tổng” phải không? Cồ Bồ Xồ hỏi.

— Sao cậu biết?

— Đoán!

Tôi phổ biến những điều cần thiết. Tôi bàn giao.

— Sư Tử làm phó khu, được không? Cồ Bồ Xồ hỏi.

— Được! Nhưng sáu giờ, tôi sẽ điều động Sư Tử vào một việc cần thiết! Tôi báo trước cho Cồ Bồ Xồ.

— Tùy...

— Tôi lấy anh Hỏa lên liên khu! Anh Học sẽ thay vào đấy. Được chứ?

— Tùy...

— Sao hôm nay, trông “thi sĩ” ỉu thế? Thời tiết chăng?

Cồ Bồ Xồ nhún vai.

— Dỗi nhau chăng?

Cu cậu gật.

— Rồi nó sẽ qua đi... Những rắc rối bóng mây mà.

— Lại còn bóng mây? Mười bốn tiếng rồi!

— Cụ thể thế nào?

— Tối qua, cô í vớ được một bài thơ của mình. Thơ tình. Anh anh, em em... Khỉ quá! Thế là ghen!

— Dỗi yêu đấy!

Cồ Bồ Xồ nhún vai... Ngay khi đó, đoàn trưởng văn công đến. Một nhạc sĩ già. Cồ Bồ Xồ làm việc với lão nhạc sĩ lụ khụ ấy. Tôi dọn chỉ huy sở... Nói là dọn? Chỉ có tôi với anh Hỏa, mỗi thằng một cái túi dết. Nửa tiếng nữa, Hỏa bàn giao xong, chúng tôi sẽ tếch.

— Một sức mạnh mới, Cồ Bồ Xồ nói, phải được phát động trong toàn quân, toàn dân.

Ông đoàn trưởng văn công già ngồi, nhăn nheo, đôi lông mày hoa râm ríu lại... Cả một sự gay go hiện lên trên vầng trán, trong đôi mắt.

— Chúng ta phải phân phát tới từng binh sĩ, từng dân làng, những xúc động mới mẻ này! Xúc động tổng phản công! Cồ Bồ Xồ nói say sưa, vẻ mặt cu cậu rạng rỡ. Cái lạc quan chung làm bạt vía cả những nỗi phiền muộn riêng tư. Khó lắm, phải không bác Tù Và?

— Cấp tốc quá... Nhạc sĩ Tù Và phàn nàn.

— Vì vậy! Bây giờ, quân dân ta đang cần được cấp phát thứ tình cảm mới này, hơn là cấp phát bánh, thịt, áo rét.

— Khốn nỗi cấp tốc quá... Tiết mục của chúng tôi... Các anh biết đấy? Toàn những món cầm cự cả.

— Vì vậy! Tất cả, từ bộ tổng đến chúng mình, tất cả đều phải chuyển! Cấp tốc!

Nhạc sĩ Tù Và ngồi thẫn thờ... Một khi người ta không cáng nổi một đòi hỏi như thế, thì người ta chỉ còn có cách ngồi thừ ra đó! Cả một sự già nua nhăn nheo. Tôi có biết danh nhạc sĩ Tù Và. Họ nói rằng trong tâm tư mỗi dân kiến làng Mận, đều có ngấm nghía một chất gì đó, cái chất tù-và. Nhạc sĩ đã cung cấp cho dân tôi hàng trăm bản nhạc, tổ khúc, sê-rê-nát, hợp tấu... Bây giờ, ông ấy ngồi kia, hoa râm, bần thần...

— Nhạc sĩ cứ về, phát động anh chị em trong đoàn. - Cồ Bồ Xồ nói. - Cố nhiên khó! Nhưng chúng ta cố.

— Anh nói mấy giờ các đội đã phải hoạt động?

— Buổi chiều.

— Mấy giờ cơ?

— Có nhẽ ba giờ? Cồ Bồ Xồ lưỡng lự... Có nhẽ bốn giờ! Thực tình, tôi... tôi không muốn trao những nhiệm vụ như thế này chút nào... Nhưng mà cần!

— Chắc hẳn chúng tôi sẽ kịp giờ... Nhưng mà “hay”? Ch-ậc! Thôi! Như một túm rau rệu, rau sam khi đói! Thôi! Dù sao chúng tôi cũng cố.

— Thực tình, tôi không muốn trao một nhiệm vụ như thế này. Cồ Bồ Xồ tiễn chân nhạc sĩ Tù Và. Khỉ cái là chiến tranh! H-ờ! Nó cứ mang lửa đốt đít mình! H-ờ!... Phải không, nhạc sĩ?

Cả hai cùng nhún vai.

* * *

Cái tin “lệnh tổng phản công ban hành” đã chạy khắp các phố, các lũy... Nó chạy tới từng bàn ăn. Những luồng cảm nghĩ hồng hào tỏa sáng khắp mọi nhà, khắp bầu không khí tái mét, nhòe mưa. Những tiếng: “Ơ!” Những câu hỏi gặng: “Thật à?” Tự dưng ta có một cái lò sưởi bên trong, một cái máy nổ bên trong, một tràng pháo Tết bên trong... Ta bàng hoàng. Ngoài kia vẫn mưa. Cây cối khô đen trong rét đại hàn. Có anh không tin! Vẫn suất ăn gầy gò thường ngày, vẫn những trận đánh bép xép đó đây, khu Đông, khu Hy Lạp... Có anh trái lại, bao nhiêu lương thực dành dụm hàng tháng, bây giờ đem ra ăn mừng, hao phí hết trong chớp mắt! Ối anh như thế! Họ xây dựng nhoáng nhoàng lên những ao ước, những mộng tưởng bay vút. Những chương trình cần cù của những kẻ cần cù bị chế giễu:

— Tổng phản công rồi cơ mà?

Đài phát thanh rát cổ giải thích.

— Bao giờ đài chả nói thế?

— Chỉ nay mai, giặc tan, ta lại no, như trước!

— Trước tiên, tôi xây lại biệt thự của tôi cái đã.

Một vài vị đem phá cả rau cỏ, ở mảnh đất tăng gia ven nhà. Các thức quả bị hái sớm, “ăn mừng”! Có vị vứt phăng cái áo cũ đã rách, nhưng còn tốt đi. Gia súc các loại, cứ kêu ầm ĩ khắp các phố tái mét. Thế đấy! Hạnh phúc tổng phản công chưa chi đã nện ngay cho bản thân chúng tôi một vồ ra vồ! Lại có chuyện đổ máu nữa! Ở một phố địch chiếm, chỉ huy lôi kéo nhân dân nổi dậy “tổng phản công”! Thế là máu thấm các vỉa hè mưa. Cuộc nổi dậy non nớt ấy! Cứ như một đàn bà trụy thai, đầm đìa huyết. Người ta đã không cứu nổi cả mẹ lẫn con.

Chỉ huy sở Liên khu I chuyển ra ngã tư Cửi. Lùng Tùng Xòe thường trực. Tôi với Bướng lao đi các ngả. Kiểm tra, động viên, sắp xếp lực lượng, điều quân nghi binh, điều quân thực sự. Và chống “tếu”! Đây mới là việc cần kíp số một! Phải tống cổ khỏi hàng ngũ chúng tôi cái tình cảm con tiều con nỡm ấy! Lác đác, có đơn vị đề ra những kế hoạch bốc trời! Họ còn gán cho nó cái tên: lạc quan!

— Anh em chúng tôi đều rất lạc quan.

Mưa rơi các phố tái mét, các lũy tái mét. Mười một giờ. Tôi đang ở khu Hy Lạp. Tình hình tạm ổn. Tôi quay về, qua các lũy mưa, các vòng cổng, các cuốn đá ong, các vỉa hè cổ kính... Mưa rơi rinh rích... Những nốt nhạc từ các căn nhà, bay ra, lẫn với hạt mưa. Đúng là một khu âm nhạc, bốn mùa âm nhạc. Một chiếc máy hát ù ù ở đâu xa. Góc phố lại ní nót tiếng dương cầm. Tôi bơi trong những phố âm nhạc nhòe mưa. Tôi trèo lên một căn nhà cổ.

— Anh Gầy!

— Chị Xinh! Lâu lắm mới gặp chị.

— Nhà em đâu anh?

— Hôm nay anh ấy không về được đâu... Anh ấy nhờ tôi, đi qua đây, báo cho chị biết.

— Thật không anh?

— Thật, anh í bảo: xin phép chị một ngày!

— Anh vào đây hẵng. Cho em gửi cái này vậy.

Cô ta bưng ra một mâm cỗ, mời tôi. Đồng thời cô gói một bọc tướng những thức ăn xa xỉ, tất cả gói trong lá chuối với giấy nhật trình.

— Nhà có giỗ à, chị?

— Dạ. Không.

— Thế sao làm cỗ?

— Tổng phản công thôi anh!

— Ừ thì tổng! Bận gì nhiêu khê?

— Để dân ăn mừng chứ anh!

— Phí quá! Ta còn khó khăn nhiều.

Nhưng rồi tôi cũng ôm cái bọc to tướng ấy về chỉ huy sở. Mưa mãi không ngớt. Một buổi trưa tái mét. Thì đó! Cả một bàn tiệc! Đại tiệc. Nào các đơn vị gửi biếu ban chỉ huy, nào quà cáp của dân. Chỉ huy sở đủ mặt: ba thằng chỉ huy, với bộ phận đài! “Cấm say đấy nhé!” Bướng vừa tu một vò vừa nói lè nhè... Cấm say! H-à... Rượu tăm đó, chúng mày ạ... Mẹ nó! No dồn đói góp! Khà...

— Chú Nghệ báo cáo đủ chưa? Tôi hỏi anh Hỏa.

— Từ lâu rồi.

— Th-ồ-ồi! Bướng xua tay... Xếp lại! Những chuyện ấy, đình lại... Th-ồ-ồi! Tết! Hôm nay là ngày Tết!

Bàn tiệc lắc lư. Ngoài kia là ngã tư Cửi, lũy Con Thoi, chòi, tháp, các phố nhòe mưa. Trong các ngày tái mét này, đâu đâu cũng đều yến tiệc. Linh đình!

* * *

Tôi đang trải bạt ở một góc buồng vắng thì Sứa đến. Chỉ huy sở rộng. Trước kia nó là một khách sạn. Khách sạn Mùa Xuân! Hàng trăm phòng to, nhỏ, ba tầng. Chỉ huy sở cắm đô trên tầng thượng. Còn hai tầng dưới là các đơn vị tự vệ. Họ đang ngủ ngang ngổn ở ngoài hành lang.

— Sao em biết anh ở đây?

— Anh chả báo gì cho em cả! Làm em đến tìm anh ở quán Sò Huyết! Em gặp anh Cồ Bồ Xồ.

Sứa đem đến cho tôi một tảng thịt. Ở trạm Im Lặng, họ đã vật gia súc liên hoan.

— Trưa nay em không phải trực. Anh ạ... Tối nay cũng thế! Sáu giờ em sẽ đến đây, anh nhé?

— Đừng!

Gian buồng của tôi nho nhỏ. Một cái giường sắt. Sứa ngồi bên tôi. Tôi nằm... Cửa ra vào đóng kín. Cửa sổ mở ra bầu trời mưa... Một mảnh trời tái mét, sũng nước.

— Em đừng đến...

— Sao anh?

— Anh bận...

— Thì anh cứ làm việc. Em chờ anh ở đây...

— Anh bận suốt đêm...

— Bận thì anh cũng ở đây thôi chứ đâu?

— Không! Anh ra trận...

— Thì em cũng cứ đến?

— Đừng! Gay go lắm!

— Kệ! Em chả sợ... Em cứ đến... Anh ra trận, thì em đợi... Kìa? Anh?

— Ừ, em đến...

— Anh ngoan lắm!

Sứa cúi xuống. Đôi môi run run trong môi. Tôi kéo Sứa. Buổi trưa tái mét.

— Ta sắp thắng rồi, phải không anh?

— Ừ, sắp...

— Tan giặc ở đây, liệu anh có phải đi không?

— Có.

— Thế chúng mình sắp phải xa nhau rồi...

— Ừ, sắp...

— Em sẽ chờ...

— Chắc cũng không lâu đâu mà em lo...

— Thật không anh?

— Thật! Ta sẽ quét chúng! Thật nhanh! Chiến tranh sẽ kết thúc!

— Thật không anh?

— Thật!

— Sao đài nói tổng phản công gay go, anh?

— Thì gay go thật! Nhưng là gay go của kết thúc.

— Nhưng... Không biết anh có được về ngay không?

— Có chứ! Đâu đâu cũng sẽ giải binh hết! Anh sẽ về ngay.

— Thật à anh?

— Thật!

Tôi ghì Sứa. Tôi cởi nịt, cúc, nút... Chăn lính đắp. Núm sen, núm sen. Sứa thẹn.

— Đừng! Ban ngày thế này á?

— Kệ!

— Nhỡ có việc cần, có ai đến gọi anh?

— Không! Đã có Bướng với Tùng Xòe thường trực.

Sứa thẹn... Sự ngây ngất của một buổi trưa núm sen... Buổi trưa đầu tiên. Cửa sổ tái mét. Gian buồng cũng tái mét.

— Chúng mình sẽ ở hẳn với nhau, anh nhé? Ở biệt thự Đá Đỏ anh nhé?

— Ừ, mãi mãi...

— Em sẽ chiều anh. Anh muốn thế nào, em cũng sẽ chiều...

— Anh sẽ dẫn em đi chơi hồ Sen Nghìn Mẫu...

— Chơi thuyền á?

— Ừ, chơi thuyền... Ra giữa hồ nhé? Một chỗ thật vắng, thật vắng... Hai đứa sẽ ngủ ngoài ấy!

— Đợi đêm trăng mùa hè, anh nhé?

— Ừ, đêm trăng... Mùa nào chả được? Rét thì chúng mình sẽ đem chăn đi...

— Đem chăn gấm của em anh nhé?

— Ừ, chăn gì cũng được! Chúng mình sẽ đi chơi cả núi Giải Oan... Chúng mình sẽ ngủ ở động Bàn Son...

— Ngủ động rét lắm, anh ạ!

— Chúng mình sẽ đốt lửa chứ? Em không thích à?

— Có! Em thích.

Tôi nhắc cái chăn lính lên. Sứa co người lại. Trắng. Những đường cong trắng. Sứa thẹn. Buổi trưa tái mét.

— Ở đây, em cứ phấp phỏng... thế nào ấy! Bao giờ ở biệt thự Đá Đỏ, em sẽ chiều anh...

— Em hay thẹn, thì có.

— Không! Ở buồng em, em sẽ tự nhiên...

— Em phải ở truồng suốt ngày cơ!

— Ừ, cả anh nữa!

— Cả anh nữa! Bữa ăn, hai chúng mình cũng cứ thế này! Nhé?

— Xấu bỏ xừ đi í.

— Kệ!

— Ừ thì em chiều, em chiều...

Mưa rơi chênh chếch các ngã tư, các lũy, ụ phố, ụ lô cốt... Mưa rơi chênh chếch khách sạn Mùa Xuân. Buổi trưa đầu tiên của chúng tôi. Sứa thẹn. Má Sứa đỏ bừng. Gian buồng tái mét... Mới mười hai giờ hơn! Mà bỗng dưng Sứa nói:

— Em sắp đến giờ đi làm rồi...

— Đâu? Còn sớm! Nhé? Nhé?...

Sứa gật... Sứa thẹn. Một nét cười đoan trang, u ơ mà sượng sùng. Tình yêu ban ngày... Sứa kéo tôi. Tôi đậu trên núm sen... Tôi nhìn Sứa. Sứa nhìn tôi. Hai đứa bắt quả tang nhau... Bắt quả tang nhau... Sứa thẹn. Má Sứa đỏ bừng... Mưa rơi đầm đìa khách sạn tái mét.

* * *

— Sứa ạ!

— Sao anh?

Tôi vận quần áo cho Sứa. Gian buồng tái mét. Một pho tượng trắng, những đường cong non non...

— Tối nay em đừng đến nữa...

— Kệ!

— Gay go lắm.

— Em ngồi ở chỗ bộ phận đài vậy? Em theo dõi tin tức...

— Không! Không có chỗ nào an toàn hết! Lúc ấy sẽ loạn ẩu! Nháo nhào cả...

— Kệ! Em cứ đến...

Chiếc coóc-xê lụa nõn, mỏng tanh như một cái màng... Mắt tôi đậu trên núm sen, giữa núm sen... Đường cong cây số! Hai đùi, Sứa khép lại.

— Em không chơi nhìn thế đâu...

Tôi vận quần áo cho Sứa... Sự trần truồng thấm qua tơ lụa, ren. Gian buồng tái mét.

— Anh ạ?

— Gì em?

— Sắp kết thúc chiến tranh ở đây thật à anh?

— Thật!

— Thế liệu bao giờ anh phải đi mặt trận khác?

— Tùy tình hình cả... Có thể ngày mai? Có thể ngày kia? Tình hình lúc này ấy mà... Nó đột biến từng giờ...

— Em cứ lo lo...

— Em đừng lo... Không lâu đâu.

— Không! Em không lo lâu! Em biết là chóng. Rất chóng! Nhưng em vẫn lo... Dạo nọ, gay go thế, em lại bình tĩnh... Nhưng bây giờ? Gần thắng lợi thế này, em lại đâm lo...

— Em đừng lo...

— Em cứ cảm thấy có cái gì nó rình chúng mình... Đúng vậy! Không phải em tưởng tượng ra đâu...

— Đúng là em tưởng tượng ra đấy...

— Không! Hễ cứ xa anh, em lại lo lo... Cứ như có một luồng sát khí! Nó bay lởn vởn... Một luồng sát khí đen, anh ạ...

— Em nhìn thấy à?

— Không! Không hẳn là nhìn thấy. Không hẳn là không... Nó cứ rờn rợn... Đấy! Ban trưa, lúc em ở trạm ra, em đi tìm anh. Tự dưng tới đầu phố Cửi, em rợn hẳn người...

— Hay là gió lùa?

— Không! Thoáng cái, có một vệt đen nó bay vút lên ở một nách tường. Rất nhanh! Em cũng không biết em có nhìn thấy nó thật không... Em rợn... Em sờ sợ thế nào ấy!

— Không phải! Em hoa mắt đấy!

— Đâu? Em có hoa mắt đâu? Cả ban sáng nữa...

— Sáng hôm nay á?

Sứa gật.

— Đấy, lúc anh tiễn em, anh định quay về. Tự dưng em rợn người, em gọi anh lại...

— Thường khi, em có lo anh chết không?

— Không! Nhưng từ sáng nay, em thấy nó lạ lắm... Em tới vườn trẻ. Em mang hộp thịt tới cho mẹ. Tới cổng vườn trẻ, thoáng cái, em thấy một luồng đen...

— Ở chỗ nào?

— Ngay ở bờ giậu sắt ấy... Em đứng dừng lại. Em lại chả thấy gì nữa. Em sợ.

— Em hoa mắt đấy!

— Em nói chuyện với mẹ... Mẹ bảo giặc giã thế này, hồn oan nó bay... Mẹ bảo nó trêu đấy! Mẹ bảo: đừng sợ! Lần sau thì cứ cầu Thánh Mộc, Ngài che chở cho.

— Em đừng tin nhảm...

— Em không tin! Nhưng em cứ rờn rợn. Hình như linh tính nó báo...

— Không! Anh không chết đâu mà em lo...

Tôi vận quần cho Sứa. Chiếc quần len trắng, bó sát đùi, kiểu quần nữ kỵ sĩ nó bó lằn lên. Tôi bế Sứa. Hai đứa ngồi mé giường sắt. Một cánh tay be bé vòng qua cổ tôi.

— Anh ạ...

— Em đừng lo...

— Em làm sao ấy anh ạ! Lúc nãy anh nói chuyện đi chơi hồ Sen Nghìn Mẫu với núi Giải Oan! Em nghe anh mà tự dưng trong óc em, nó lại cứ lan man những ý nghĩ khác...

— Sao chứ?

— Em vừa nghe anh nói, em vừa nghĩ những chuyện đâu đâu... Em nghĩ nhỡ ra... Nhỡ ra anh làm sao... Em sẽ khổ... Khổ lắm!

— Anh chả làm sao cả! Anh thì có vùi anh vào dăm bảy cuộc đại chiến, tiểu chiến nữa, anh vẫn cứ vượt thốc ra! Nguyên xi! Em đừng lo...

— Nhưng tự dưng em cứ nghĩ vớ vẩn... Em nghĩ giá có thể thế mạng được? Thế! Để em thế vào...

Tôi ghì Sứa. Núm sen đâm đâm qua áo, nhọn, rắn, mềm...

— Em nghĩ cả chuyện Diêm Vương bắt lính... Em nghĩ: không có Diêm Vương! Giá mà có? Em sẽ đánh lừa Diêm Vương, để ông ta đừng bắt anh...

— Em đừng lo... Anh chả sao cả...

— Nhưng không có Diêm Vương anh nhỉ?

— Có tranh vẽ ông ta thì có!

— Thế! Nhưng rồi em lại nghĩ: hai đứa... nhỡ đứa nào chết, đứa kia cũng khổ... Biết làm thế nào? Thế! Em nghĩ. Nếu chết, chết cả hai, cùng một lúc. Nhưng em nghĩ: thế cũng không được! Em muốn anh sống cơ...

— Hai đứa sẽ cùng sống...

— Nhỡ ra không được thì sao hả anh?

— Được! Hai đứa sẽ cùng sống... Linh tính của anh nó báo thế!

— Thật không anh?

— Thật!

— Anh thề đi?

— Anh thề... Linh tính của anh nó báo rất đúng! Rất đúng! Anh như nhìn thấy hai chúng mình trên hồ Sen... Bềnh bồng, bềnh bồng...

— Anh nói nữa đi...

Tôi lại cởi khuy áo Sứa từ lúc nào? Một búp ngực vọt ra, vén màng coóc-xê, trắng toát... Buổi trưa tái mét...

— Đấy! Thuyền chúng mình bỏ neo... Hồ vắng. Chỉ có một con chim non đậu trên búi rong... Thế! Buổi sáng mát trong đi, mát xanh đi... Thế! Anh bế Sứa... Anh cởi Sứa... Sứa thẹn... Sứa rúc vào vai anh...

— Không! Em không thẹn...

— Có! Em thẹn... Em lo có thuyền nào đi qua...

— Kệ! Thuyền nào đi qua, em cũng không thẹn...

— Có ấy! Em thẹn... Hai chúng mình đang trần truồng hết cơ mà! Ở giữa hồ Sen! Em thẹn...

— Kệ! Em không thẹn...

— Nhỡ có thuyền khác nó bơi đến... Một thuyền... Hai thuyền... Họ vờ như hái sen. Họ dòm chúng mình...

— Kệ họ! Họ xấu chứ! Em không thẹn. Em cứ ôm anh. Em không để ý đến họ...

— Em trơ thế?

— Em thích trơ...

Quần Sứa đã tuột cúc từ lúc nào? Cả tôi nữa... Sự lấp ló của các núm búp chúm chím...

— Em nói dối í!

— Không! Em nói thật... Cho họ dòm... Thế anh? Anh xấu hổ à?

— Ừ! Anh xấu hổ...

— Thế đang... đang... thì anh thôi à?

— Ừ!.. Anh thôi...

— Kệ! Em không bằng lòng thế đâu... Kệ! Em cứ ôm chặt lấy anh... Cho họ dòm...

Một miết ghì tận xương. Quên hết. Nhớ hết. Người Sứa lấp ló giữa tơ lụa, khuy cúc lươm bươm...

— Ngay bây giờ í, có ai vào thình lình, em cũng không thẹn! Em cứ ôm lấy anh...

— Thế á?

— Thật!

Gian buồng tái mét. Pho tượng trong tay tôi, tôi bế. Pho tượng kín hở giữa những mút-sơ-lin, nịt, cúc, nửa tháo nửa không... Tôi bế...

— Anh bế em ra cửa sổ đi...

Tôi bế.

Sứa quẫy chân. Len trắng tuột xuống. Đùi cong, dài... Gian buồng tái mét. Tim tôi đập ù ù. Nó đập cả ở bốn bức tường trần truồng...

— Anh bế Sứa đi ra ngoài buồng nhé?

— Ừ...

— Thật nhé?

— Thật! Tôi bế Sứa qua buồng. Tới cửa... Tôi mở chốt...

— Để em mở cho!

Sứa giữ chặt lấy chốt. Tôi đẩy chốt bằng khuỷu tay... Tôi vẫn bế Sứa. Hai đứa giằng co nhau ở cái chốt cửa...

— Để anh mở!

— Không đâu! Không đâu!

— Em không thẹn cơ mà?

— Không đâu! Không đâu!

Cái giường sắt đón chúng tôi, tái mét... Nhớ hết! Quên hết... Vẫn nhớ một cái gì. Một ngày tái mét... Những phố mưa. Lũy mưa. Lô cốt mưa... Quên hết!

Một giờ rưỡi...

Sứa đã vận lại quần áo, tinh tươm. Đôi ủng cao cổ, áo đi mưa thấp thoáng. Gọn, nhã. Đường cong thấm qua tất cả. Núm sen...

— Tối nay em đến, anh nhé? Sáu giờ?

— Ừ, em đến...

— Em sẽ ngồi với bộ phận đài... Em theo dõi tin tức...

— Em muốn theo anh ra trận, cũng được!

— Thật à anh?

— Thật!

— Thế em sẽ theo sát anh...

— Ừ. Em theo anh. Các phố! Tình hình sẽ lung tung lắm. Rối beng! Nhưng em cứ theo anh.

— Em không sợ.

— Việc gì mà sợ? Anh sẽ tẽ địch ra, cho em đi. Như mũi tàu sắt phá băng í!

— Em sẽ theo sát anh... Anh đừng lo gì về em...

— Anh không lo! Chúng mình sẽ đi qua hàng ki lô mét giặc... Bọn chúng sẽ bãi trận... Tan nát. Cứ như lá. Như rác... Chúng mình sẽ ra tận Cổng Đông! Chỉ huy sở sẽ đóng trên khu nhà đổ.

— Em sẽ sửa lại căn buồng hạnh phúc cũ... Em sẽ rắc hoa. Em căng bạt...

— Tối nay, em hãy ăn vận cho gọn nhé!

— Anh đừng lo. Em sẽ vận võ phục...

— Bộ võ phục đỏ á?

Sứa gật.

Một cái hôn chia tay đầu phố vắng. Xa kia, một cái chòi giặc.

— Khoan đã, anh!

— Sao?

Sứa như hoa mắt.

— Em lại nhìn thấy luồng đen à?

— Không!

— Thế em làm sao thế?

— Không...

— Em giấu anh.

— Khô-ng...

Sứa đi be bé. Sứa đi trong trong giữa lòng phố mưa... Sứa lẫn với các hạt mưa... Buổi trưa tái mét. Tôi quay về ngã tư Cửi.

* * *

Có cần kể nữa không?

Thôi! Hãy nhường lời cho những pho sử ký. Quyển lịch sử chính biên của làng Mận có chép về cuộc tổng phản công của ba mươi chín làng. Riêng về cuộc tổng phản công ở làng chúng tôi, quyển lịch sử chính biên chép:

“Vì có dấu hiệu bị lộ kế hoạch, nên cuộc đại phản công trước định mười hai giờ đêm, thình lình phải mở sớm hẳn lên: ngay từ sáu giờ tối, ngày mười bảy...”

“Thế trận dàn theo hình một nhà máy hiện đại. Lúc sáu giờ tối, bộ máy chưa lắp xong hoàn toàn. Thiếu tướng Rỗ đã mạnh bạo hạ lệnh tấn công.”

“Do sự quyết đoán đó, do tinh thần dũng cảm của quân dân làng Mận, do những thuận lợi của tình hình lúc ấy, nên mặc dầu bị lộ một phần, mặc dầu nổ non, cuộc đại phản công đã đại thắng, nhanh, gọn, vượt cả dự kiến...”

“Ba giờ đêm, bảy vạn giặc trong làng đầu hàng vô điều kiện. Trong khi đó, bọn giặc ở ngoài làng vẫn chưa hay biết gì. Quân ta mở cổng thành, đánh tràn vào trại giặc... Chúng la hét như ri, xéo lên nhau mà chết vô số.”

“Trận đêm mười bảy, tổng cộng ta chém non mười vạn thủ cấp. Bắt sống bảy đại tướng. Chiến thắng phẩm thu được, xe chở mười ngày ròng chưa hết.”

Đó là chép ở trang 3007... Tiếp sau đó, bộ sử chép về các mặt trận khác, về phòng tuyến phía Đông, về du kích, về cuộc đại truy kích đường trường qua đồng cỏ Ba La Xám...

Cố nhiên bộ sử chính biên không chép về các số phận be bé. Không ai trao cho nó nhiệm vụ ấy. Vả lại, có trao, nó cũng không thể! Ai có thể? Không ai! Chiến tranh đã kết thúc. Có cần kể gì thêm không? Vết thương phố xá đã băng bó lại. Có phố đã lên da non. Có phố thành sẹo đời. Có cần kể gì thêm? Những vết thương be bé trên các số phận... Cơ man ra... Ai chữa những vết thương ấy? Không ai! Thời gian chăng? Thời gian có chữa được cái số phận bi thương không? Có! Không? Đó! Tôi bơi thuyền trên hồ Sen... Ai chữa cho tôi? Vả tôi có thực là cần phải chữa hay không?

Bướng đang nằm ở bệnh viện. Nó bị trọng thương trong cuộc đại truy kích trên đồng cỏ Ba La Xám. Ba tháng rồi. Mùa hè nó sẽ ra viện. Cô Xinh sẽ đón nó xanh xao trên cổng nhà thương. Không khéo nó sẽ mất khả năng sản xuất! Có nhẽ sau này nó sẽ coi kho? Hoặc quét cổng? Nó còn trẻ như thế.

Cô Nũm Lả mới khóc nhiều. Không ai hiểu tại sao? Cô cũng không hề kể với ai câu chuyện rắc rối của cô. Người ta chỉ thấy gần như là hằng ngày, cô đem hoa tới mộ Tùng Xòe. Suốt hai tháng trời! Sang xuân, cô hồi cư xứ Lồ Ngồ. Không ai biết chuyện cô với Tùng Xòe ra sao? Họ có yêu nhau không? Dù sao, không còn Tùng Xòe nữa. Nó ngã ở ngã tư phố Gốm. Không ai biết lưỡi gươm nào đã chém? Ngay đêm tổng phản công! Đang lúc ấy đại tướng Húc ký giấy đầu hàng.

— Bướng này! Thế cô Nũm Lả cũng yêu nó đấy chứ?

— Có trời mà biết!

Bướng nằm tái nhợt trên giường bệnh viện. Người nó như một quả núi bông băng. Một tay cụt.

— Sao có lần mày bảo cô ấy ngúng nguẩy?

— Tao đoán.

— Tùng Xòe không kể gì với mày à?

— Lại còn kể? Cứ như “mão giấu cứt”! Tao hỏi nó có đến mươi bận. Nó cứ khất lần... khất lần...

Đó! Còn tôi? Tôi bơi thuyền trên hồ Sen. Buổi sáng Chủ nhật trong muốt. Mặt hồ xuân. Con thuyền dài, dài như chiếc lá hẹ, có mui khum, có rèm thêu...

Tôi bơi thuyền, một mình...

Quả là có một con chim non đậu trên búi rong... Quãng hồ vắng lặng. Sáng Chủ nhật. Mặt trời xuân...

Có cần kể gì thêm nữa không?

Chú Nghệ? Chú trinh sát tí hon ấy! Tôi có tội gì trong cái chết của chú không? Tôi đã can chú! Buổi sớm tái mét ngày hôm ấy! Giá tôi giữ chú lại thì phải? Biết đâu chú đã nghiền ngẫm dự định ấy từ lâu? Hai giờ chiều, chú lẻn vào bản doanh đại tướng Húc. Bàn tay non non ấy! Lưỡi dao lá mía đã đâm, không trúng tim! Tên đại tướng tổng chỉ huy Đầu Beo chỉ bị lẹm mất một chút vai. Chú Nghệ bị băm vụn. Thủ cấp bị treo đầu phố. Nhưng ngay đêm ấy, tên đại tướng chết hụt kia đã phải ký giấy đầu hàng. Tôi có tội gì trong cái chết của chú Nghệ? Chú ngã, không có mồ chôn.

Tôi bơi thuyền trên hồ Sen, một mình.

Mẹ tôi vẫn sống. Mẹ thương con dâu mẹ “yểu tướng!” Mẹ vẫn làm việc ở vườn trẻ. Mẹ nhắc tới con dâu mẹ luôn:

— Con bé nó ngoan thế!

Cồ Bồ Xồ? Anh bị mù cả hai mắt. Không ai biết lưỡi gươm nào chém? Nó chém thế nào? Cô Cốm Chanh thương người yêu, hóa điên. Cô đang nằm ở bệnh viện thần kinh. Người ta nói, dù khỏi, cô cũng sẽ thành ngẩn ngơ. Cồ Bồ Xồ thì vẫn có thể làm thơ. Anh gạch xóa trong óc. Anh đợi người yêu khỏi, sẽ tổ chức lễ cưới.

Tôi bơi thuyền trên hồ Sen.

Tôi bơi một mình.

Chiến tranh. Nó đã kết thúc. Vì nó phải kết thúc. Nhưng mà cái cuốn gói của nó. Nó để lại: những làng tan nát, những thành quách tan nát. Cả một xã hội bị thương... Mà nó mới chi li, tỉ mỉ chứ. Nó không chỉ tự bằng lòng một cách đại lược: “Phá từng vùng.” Nó phá phách éo le hơn. Nó phá đúng những chi tiết cần thiết. Có họa sĩ bị cụt cả hai tay. Thời gian, hãy hàn vết thương ấy đi. Ở xóm La Tinh ấy chứ đâu? Nhà danh họa Chấm Phá của dân chúng tôi đang nỗ lực học vẽ bằng miệng. Ông ngậm bút vào răng mà vẽ. Liệu thời gian có hàn nổi vết thương ấy không? Cô Cốm Chanh không còn có thể nghiên cứu ở Tháp Đồng nữa. Cố nhiên, ai đó khác sẽ gánh vác nhiệm vụ ấy. Các thế hệ điền vào nhau. Chả lo vị trí nào khuyết. Dù là một vị trí thiên tài. Nhưng có cần viện đến những mất mát thiên tài không? Không. Không. Chỉ cần nhân danh một số phận bình thường, đúng thế, người ta đã rất có đủ lý do để mà đòi: tiêu diệt hẳn chiến tranh. Đúng thế. Bất cứ một số phận bình thường nào. Ai cải tử cho bác thợ Ngõa ở khu nhà lá kia? Thời gian ư? Thời gian cũng không thể san sửa cho những cái án mạng của chiến tranh ấy. Ai cải tử cho những tích tắc be bé? Những hạnh phúc be bé? Những chương trình be bé?

Đó, tôi bơi thuyền, một mình, trên hồ Sen... Sáng Chủ nhật trong trong. Con thuyền có mui che, có rèm che. Mặt hồ xuân. Đó đây, những con thuyền hồng, xanh, tím. Những con thuyền tình nhân. Họ tỏa đi các hướng vắng. Họ tìm những nơi chỉ có một con chim đậu trên búi rong. Tôi bơi thuyền một mình.

Không ai biết Sứa của tôi đâu?

Sứa đã lọt thỏm đi, phi tang... phi tang...

Tôi vẫn không tin tôi đã mất Sứa! Tôi chờ... Sứa có thể bỗng dưng xuất hiện ở đầu ngã tư kia. Ở xóm La Tinh? Hoặc ngay trên hồ Sen này, trên một chiếc thuyền xanh lá hẹ? Biết đâu? Không ai thấy Sứa ngã! Xác Sứa cũng không ai thấy! Nhưng bây giờ đây, tôi bơi thuyền một mình... Một mình! Không vui, không buồn... Chỉ giản dị là: một mình!

Sứa đã chết thật rồi ư?

Tôi không tin.

Tôi không thể nào tin!

Có cần kể thêm gì nữa không? Ba tháng đã trôi qua... Nhưng đêm hôm ấy? Vầng trăng mười bảy tái mét ra sao? Mưa rơi trên cuộc đại phản công thế nào? Vì sao sáu giờ tối, chúng tôi đã không được giáp mặt nhau? Những ai đã gặp Sứa, ở phố nào, phố nào? Lưỡi gươm nào đã chém? Cô gái núm sen võ phục đỏ ấy! Người ta nói Sứa len lách qua các phố giặc, qua hàng cây số gươm giáo. Sứa đi tìm tôi... Sứa cũng không có cách nào nữa chăng? Một khi đã lạc vào giữa các răng cưa của đêm sát sinh! Sứa có cách nào ra? Không có cách nào? Chỉ huy sở tôi chuyển từng phút... Người ta nói: có lúc Sứa đi với đơn vị này, đơn vị nọ. Người ta đều biết Sứa. Trong cái tình thế hỗn loạn ấy! Thoắt cái, Sứa rẽ tạt vào một phố hẻm. Tôi có biết đâu? Chỉ huy sở vừa ở đó, đã dọn đi chưa đầy năm phút! Nhưng lát sau, có đơn vị thấy Sứa ở đầu phố Thì Là... Bộ võ phục đỏ, cô gái núm sen! Sứa ơi! Có thật Sứa đã tới được khu nhà đổ như lời Cồ Bồ Xồ kể lại không? Cuộc hành trình của Sứa trong rừng gươm đêm ấy! Bộ võ phục đỏ, cô gái núm sen! Bây giờ Sứa ở đâu? Ba tháng đã trôi đi, cả một dòng sông tích tắc... Tôi đã mất Sứa thật rồi ư? Giọt sương be bé đã bốc hẳn thành hơi? Vĩnh viễn bốc hơi ư? Tôi không tin... Tôi không tin...

Tôi bơi thuyền trên hồ Sen...

Làng tôi đang xây dựng lại. Những khó khăn của hòa bình tiếp theo những khó khăn của chiến tranh. Nhưng, không nên ví! Hai việc ấy, không thể ví! Phải không? Tôi rẽ thuyền sang hướng Đông. Mặt nước ngậm nắng xuân. Có một con thuyền hồng ngà đậu lửng ở quãng vắng. Mũi nó nghếch lên, chạm rồng. Mui gấm, lá sắn buông mỏng tanh. Thuyền ai vậy? Một cặp vận áo tắm, lấp ló ở trong. Một cặp. Tôi ghìm thuyền lại hơi chậm.

— Anh Gầy đấy à?

Một nửa người thò ra. Vai trần. Vú sừng bò. Coóc-xê đỏ.

— Chào anh chị!

— Anh vào đây chơi hẵng...

Tôi cáo lui. Sư Tử với Vú đã cưới nhau từ đầu xuân. Một thuyền trăng mật! Cặp ấy lành lặn. Hồ Sen xanh đằm đằm. Thuyền tôi rẽ sóng đi sang hướng khác. Nó trôi bồng bềnh dưới mặt trời xuân...

1961