← Quay lại trang sách

Chương 8 Cái chết đã xảy tới

Trong giấc ngủ mơ màng, lúc trời vừa rạng, Annemarie nghe thấy tiếng bác Henrik trở dậy và rời nhà đi về phía chuồng gia súc cùng với cái xô vắt sữa. Đến khi em tỉnh giấc lần nữa, trời đã sáng bảnh. Em nghe thấy tiếng chim hót ngoài nhà, có một con đậu trên cây táo ngay gần cửa sổ; và em nghe thấy tiếng mẹ ở dưới nhà, trong bếp, đang nói chuyện với Kirsti.

Ellen vẫn còn say ngủ. Đêm hôm trước, đêm mà đám lính đến căn hộ nhà em ở Copenhagen, dường như đã xảy ra lâu lắm rồi. Annemarie ngồi dậy thật khẽ để bạn mình không bị đánh thức. Em mặc thêm quần áo rồi bước xuống lối cầu thang hẹp uốn cong, thấy em gái mình đang quỳ trên sàn bếp cố cho con mèo mướp uống nước trong một cái bát.

“Đồ ngốc,” em nói. “Mèo con thích sữa, không thích nước.”

“Em đang dạy con này thói quen mới,” Kirsti giải thích vẻ nghiêm trọng. “Và em đã đặt tên cho nó là Thor, Thần Sấm.”

Annemarie phá ra cười ngặt nghẽo. Em nhìn con mèo con bé xíu đang lắc lắc cái đầu bực bội vì mấy cọng râu của nó bị ướt bởi Kirsti cứ cố dúi cái mặt của nó vào bát nước. “Thần Sấm á?” Annemarie nói. “Trông bộ dạng nó có mà sẽ chạy trốn khi có tiếng sấm ý!”

“Mẹ đoán, con mèo này có mẹ ở đâu đó, mèo mẹ sẽ vỗ về con mình,” mẹ em nói. “Và khi chú mèo này muốn uống sữa, nó sẽ đi tìm mẹ.”

“Hoặc nó có thể đến chỗ con bò sữa,” Kirsti nói.

Mặc dầu bác Henrik không còn trồng hoa màu như lúc ông bà ngoại còn sống nữa, nhưng bác vẫn giữ lại một con bò sữa, nó vui sướng trệu trạo gặm cỏ trên đồng và mỗi ngày cho bác một ít sữa đáp lại. Thỉnh thoảng bác gửi phô mai lên Copenhagen cho cô em gái. Sáng nay, Annemarie hân hoan khi để ý thấy mẹ đã nấu món cháo bột yến mạch và trên bàn có một bình kem sữa. Lâu lắm lắm rồi em chưa được nếm món kem sữa. Ở nhà em sáng nào cũng ăn bánh mì với uống trà.

Mẹ nhìn theo ánh mắt của Annemarie về phía cái bình. “Kem tươi nhờ Blossom,” mẹ nói. “Bác Henrik vắt sữa Blossom mỗi sáng trước khi ra thuyền”.

“Và,” mẹ nói thêm, “cũng có bơ nữa. Thường thì ngay cả bác Henrik cũng không có bơ đâu, nhưng bác ấy đã xoay sở để dành được một ít cho dịp này.”

“Để dành một ít từ cái gì ạ?” Annemarie hỏi khi em đang dùng thìa múc cháo yến mạch vào một cái bát in hoa. “Đừng có nói với con rằng bọn lính cũng cố gắng - từ gì ấy nhỉ? - di chuyển cả bơ đi nhé.” Em tự cười câu nói đùa của mình.

Tuy nhiên lời em nói không hề là đùa, mặc dầu mẹ cũng cười một cách rầu rĩ. “Chúng có làm,” mẹ nói. “Chúng chuyển tất cả bơ của nông dân vào thẳng dạ dày quân đội của chúng! Mẹ đoán nếu chúng biết bác Henrik đã giữ lại miếng bơ tí tẹo này, chúng sẽ mang theo súng ống tới đây giải miếng bơ đi, theo con đường đất ấy!”

Kirsti cười phụ họa khi ba mẹ con hình dung ra cảnh một ụ bơ nhỏ dáng vẻ sợ hãi bị quân đội bắt giữ. Nhân lúc Kirsti xao nhãng, con mèo con chạy vụt đi và yên vị trên bậu cửa sổ. Đột nhiên, ở nơi đây trong căn bếp ngập nắng này, với bình kem tươi trên bàn ăn và chú chim trên cây táo mọc kề bên cửa - và ở ngoài biển Kattegat kia, nơi bác Henrik đang kéo những mẻ lưới ăm ắp cá vảy óng ánh bạc giữa sắc trời xanh tươi sáng - nỗi kinh hoàng bởi đám lính mặt mũi nham hiểm cùng với súng ống của chúng dường như chỉ còn là một câu chuyện ma, một câu chuyện đáng cười dùng để hù dọa trẻ nít trong bóng tối.

Ellen xuất hiện nơi cửa bếp, miệng nhoẻn cười ngái ngủ, và mẹ đặt lên chiếc bàn gỗ cũ kỹ thêm một cái bát in hoa đựng cháo bột yến mạch nghi ngút khói.

“Kem tươi,” Annemarie vừa nói vừa hất mặt về phía bình kem với nụ cười toét miệng.

Suốt cả ngày ba chị em chơi đùa bên ngoài nhà, dưới ánh nắng rực rỡ và bầu trời trong veo. Annemarie đưa Ellen tới bãi cỏ phía bên kia chuồng gia súc, giới thiệu bạn mình với Blossom; khi Ellen rụt rè đưa tay ra, cô bò trễ nải liếm lòng bàn tay em bằng cái lưỡi thô ráp. Hai em hái hai ôm hoa dại đã chuyển thành màu nâu bởi cái lạnh chớm đông và cắm chúng vào trong lọ và bình cho tới khi mấy cái bệ cao phía trên bàn ken đầy hoa.

Trong nhà, mẹ vừa chà rửa vừa lau bụi, vừa tỏ vẻ thất vọng với việc dọn dẹp ngôi nhà bừa bộn của bác Henrik. Mẹ mang mấy tấm thảm ra ngoài dây phơi rồi lấy gậy đập cho sạch bụi, bụi bay bắn tung tóe.

“Bác Henrik cần có một người vợ,” mẹ vừa lắc đầu vừa nói, rồi lấy chổi quét sạch sàn gỗ cũ kỹ trong lúc thảm được phơi phóng.

“Cứ nhìn vào đây này,” mẹ nói trong lúc mở cánh cửa phòng khách chẳng mấy khi được dùng đến, trong đó kê mấy món đồ gỗ đã lỗi thời. “Bác ấy không bao giờ quét tước lau chùi.” Và mẹ nhặt mấy cái giẻ lau lên.

“Và Kirsti ơi,” mẹ gọi, “con Thần Sấm ‘phun mưa’ thành một bãi nho nhỏ trên sàn ở góc bếp. Con để mắt đến nó nhé.”

Chiều muộn, bác Henrik về, cười rộng đến tận mang tai khi trông thấy ngôi nhà bóng loáng và sạch sẽ tinh tươm, hai cánh cửa dẫn vào phòng khách mở toang, thảm trải được phơi phóng và các ô cửa sổ đều được lau chùi.

“Anh Henrik à, anh cần một cô vợ,” mẹ quở.

Bác Henrik cười ha hả rồi đến đứng cùng mẹ trên bậc tam cấp gần cửa bếp. “Tại sao anh lại cần một cô vợ khi mà anh đã có một cô em gái rồi chứ?”. Giọng bác như lệnh vỡ.

Mẹ thở dài nhưng mắt mẹ long lanh. “Với lại anh cần ở nhà thường xuyên hơn để chăm nom nhà cửa. Bậc thang này gãy rồi và cái vòi nước trong bếp bị rỉ nước. Và...”

Bác Henrik ngoác miệng cười với cô em gái, lắc lắc đầu giả bộ thất thần. “Và có chuột trên tầng áp mái, rồi là cái áo len màu nâu của anh có một lỗ thủng to tướng ở ống tay, rồi là nếu anh không lau các ô cửa sổ thì chẳng mấy chốc...”

Hai anh em cùng nhau cười giòn giã.

“Dù sao thì,” mẹ nói, “Em đã mở tất cả các ô cửa sổ ra rồi anh Henrik ạ, để cho không khí cùng với ánh nắng mặt trời tràn vào nhà. Ơn Chúa, trời hôm nay thật đẹp.”

“Ngày mai sẽ là ngày để đánh bắt cá,” bác Henrik không còn cười nữa, nói.

Đang lắng nghe hai người trò chuyện, Annemarie nhận ra cụm từ kỳ lạ. Bố đã nói những lời tương tự như vậy trên điện thoại. “Thời tiết có thuận để đánh cá không anh Henrik?”. Nhưng thế nghĩa là gì? Bác Henrik đi đánh cá mỗi ngày nắng hay mưa cũng đi. Những ngư dân Đan Mạch không chờ tới ngày nắng mới dong thuyền ra khơi quăng lưới. Annemarie không nói lời nào, ngồi cạnh Ellen dưới gốc táo, quan sát bác em.

Mẹ nhìn bác, hỏi: “Thời tiết có thuận không?”

Bác Henrik gật đầu và nhìn trời. Bác mỉm cười với khoảng không. “Đêm nay sau bữa khuya, anh sẽ quay lại thuyền. Sáng mai chúng ta rời bến rất sớm. Anh sẽ ở ngoài thuyền cả đêm.”

Annemarie tự hỏi ở trên thuyền cả đêm sẽ như thế nào. Nằm chỗ mỏ neo, lắng nghe tiếng biển vỗ vào hai bên mạn thuyền. Từ nơi mình nằm ngoài biển ngắm nhìn các vì sao.

“Em đã sửa soạn phòng khách chưa?”. Đột nhiên bác Henrik hỏi.

Mẹ gật đầu. “Phòng sạch sẽ rồi, và em dẹp đồ lại cho rộng chỗ hơn một chút.”

“Mà anh trông thấy chỗ hoa rồi đấy,” mẹ nói thêm. “Em đã không nghĩ đến hoa, nhưng ba đứa trẻ đã hái hoa khô ngoài đồng cỏ về.”

“Sửa soạn phòng khách để làm gì ạ?”. Annemarie hỏi. “Sao lại dẹp đồ đạc ạ?”

Mẹ nhìn bác Henrik. Bác đã vươn tay bế chú mèo con lên lúc nó đang chạy lướt qua, và giờ bác ôm nó sát ngực, dịu dàng gãi gãi cái cằm của nó. Con mèo võng cái lưng nhỏ nhắn của mình xuống với vẻ thích thú.

“Được rồi, các cháu gái,” bác nói. “Đó là một sự việc buồn, nhưng không quá buồn, thật đấy, bởi bà ấy đã già lắm lắm rồi. Cái chết đã xảy tới, và đêm nay, bà cụ cố Birte của các cháu sẽ yên nghỉ trong quan tài đặt trong phòng khách trước khi cụ được chôn cất vào ngày mai. Đó là một phong tục xưa cũ, cháu à, để người quá cố nằm yên nghỉ tại nhà và những người thương yêu sẽ ở bên người ấy trước khi đem chôn.”

Kirsti lắng nghe, mắt ngời phấn khích. “Ngay ở đây ạ?”. Nó hỏi. “Một người chết ở ngay đây ạ?”

Annemarie không nói gì. Em thấy bối rối. Đây là lần đầu tiên em nghe về cái chết của một người trong gia đình. Không một ai điện thoại lên Copenhagen báo rằng có người đã qua đời. Dường như không một ai tỏ vẻ buồn thương.

Và - khó hiểu hơn cả - em chưa từng nghe thấy cái tên đó bao giờ. Cụ bà Birte. Chắc chắn rằng em đã biết nếu như em có một người bà con có tên như vậy. Kirsti có thể không biết; nó còn nhỏ và không để ý mấy chuyện như thế.

Nhưng Annemaire thì biết. Em lúc nào cũng thấy thích thú với những câu chuyện mẹ em kể về thời thơ ấu của mẹ. Mẹ nhớ tên của tất cả các anh chị em họ, các cụ bà, các bác các chú, những người đã từng trêu chọc, những người đã từng gắt gỏng, những người đã từng mắng mỏ đến nỗi chồng của mẹ cuối cùng phải chuyển đến một căn nhà khác, mặc dầu hai người họ vẫn ăn tối chung mỗi ngày. Thật quả là những câu chuyện hấp dẫn vô cùng, ngập tràn những tính cách đặc trưng của bà con họ hàng bên ngoại.

Và dù không nói lời nào, nhưng Annemarie hoàn toàn, một mực chắc chắn, rằng không hề có cụ bà Birte nào cả. Cụ bà Birte không tồn tại.