← Quay lại trang sách

Chương 10

Chắc đó là ngày hôm sau. Chúng tôi đang ở Athens. Thình lình trên các bậc thềm của thành cổ Acropolis, Ellie tình cờ gặp người quen. Họ vừa từ một tàu du lịch Hy Lạp lên bờ. Một người đàn bà chừng ba mươi lăm tuổi tách ra khỏi đoàn rồi hấp tấp chạy tới gặp cô, kêu lên:

“Ôi, chưa bao giờ có chuyện thế này. Có đúng là cô không, Ellie Guteman? À, cô đang làm gì ở đây? Tôi không nghĩ ra đấy. Cô du ngoạn trên biển à?”

“Không ạ,” Ellie đáp, “chỉ lưu tạm ở đây thôi.”

“Ôi giời, nhưng gặp được cô thật vui đấy. Bà Cora khỏe không, có đến đây không?”

“Không, Cora chắc đang ở Salzburg ạ.”

“À, à,” người đàn bà nhìn sang tôi và Ellie lịch sự nói, “Cho phép tôi giới thiệu - đây là anh Rogers, còn đây là bà Bennington.”

“Hân hạnh gặp cậu. Cô cậu ở đây bao lâu thế?”

“Mai tôi sẽ rời khỏi đây,” Ellie đáp.

“Ôi giời ôi, tôi sẽ lạc mất đoàn mình nếu không đi ngay, và tôi chẳng muốn bỏ sót một lời nào trong bài thuyết trình và tả cảnh. Có bị chen lấn một chút. Cuối ngày đúng là tôi mệt muốn đứt hơi. Có cơ may nào cùng trong với cô cậu hay không?”

“Hôm nay không được ạ,” Ellie đáp. “Chúng tôi đang đi tham quan.”

Bà Bennington vội chạy đi theo đoàn du lịch của mình. Đang cùng tôi đi lên các bậc thềm của thành cổ, Ellie lại quay trở xuống.

Cô hỏi tôi: “Thế là mọi sự hầu như đã an bài rồi, phải không anh?”

“An bài cái gì vậy em?”

Ellie không trả lời chừng một hai phút, rồi thở dài, “Đêm nay em phải viết thư thôi.”

“Viết cho ai?”

“À, cho bà Cora và chú Frank, có lẽ cả chú Andrew nữa.”

“Chú Andrew là ai vậy? Lại thêm một ông chú nữa.”

“Là ông Andrew Lippincott. Thật ra không phải là một ông chú. Ông ấy là người giám hộ được ủy thác trông nom tài sản của em, anh muốn gọi là gì cũng được. Đấy là một luật sư - rất nổi tiếng anh ạ.”

“Em sẽ nói gì?”

“Em sẽ cho họ biết đã kết hôn rồi. Em không thể đột nhiên nói với bà Nora Bennington lúc nãy: ‘Xin giới thiệu đây là chồng của tôi.’ Hẳn sẽ có những tiếng thét kinh hồn và những lời cảm thán: ‘Tôi chưa hề nghe nói cô từng kết hôn, kể hết cho tôi nghe đi, cưng ạ!’ vân vân và vân vân. Mẹ kế của em, hai chú Frank và Andrew phải là những người được biết trước tiên, như thế mới công bằng chứ.” Cô thở dài. “Thôi thế cũng được, cho đến bây giờ chúng mình đã được vui hưởng một quãng thời gian rất tuyệt vời rồi.”

“Họ sẽ nói gì, hay sẽ làm gì hả em?” tôi hỏi.

“Chắc sẽ làm ầm lên thôi,” cô đáp, vẫn tỉnh bơ như thường. “Họ có làm thế cũng chẳng ăn thua gì, và sẽ đủ tỉnh trí để hiểu được điều ấy. Chắc chúng mình phải dự một buổi họp mặt thôi. Có thể sẽ đi New York đấy. Anh có thích thế không?” Cô nhìn tôi dò hỏi.

“Không,” tôi đáp. “Anh không thích một chút nào hết.”

“Như thế có lẽ họ sẽ đến London, hay một số trong bọn họ. Em không rõ anh có thích hơn chút nào hay không.”

“Thế nào anh cũng chẳng thích. Chỉ muốn ở bên em và cùng em ngắm ngôi nhà của mình được xây lên từng viên, từng viên gạch ngay khi anh Santonix tới đó.”

“Chúng mình có thể làm như thế. Dầu sao gặp mặt gia đình sẽ không mất nhiều thời gian đâu. Có thể chỉ một trận cãi vã om sòm nổi đình nổi đám là đủ. Giải quyết một lần cho xong. Hoặc mình bay sang đấy, hoặc bọn họ bay qua đây.”

“Anh tưởng mẹ kế em đang ở Salzburg như em vừa nói chứ.”

“Ôi, em chỉ nói thế thôi. Nghe có vẻ kỳ quặc nếu em bảo chẳng biết bà ta ở đâu. Vâng,” Ellie thở dài, “chúng mình sẽ trở về nhà gặp tất cả bọn họ. Mike này, em hy vọng anh sẽ không quá phiền lòng.”

“Phiền lòng cái gì - gia đình em à?”

“Vâng, anh sẽ không phiền lòng nếu bọn họ làm anh bực mình.”

“Anh cho đó là cái giá phải trả để được lấy em. Anh sẽ chịu đựng.”

“Còn mẹ anh nữa,” Ellie nói có vẻ đăm chiêu.

“Vì Chúa, Ellie à, xin em đừng cố sắp xếp một cuộc gặp mặt giữa bà mẹ kế sống trong nhung lụa của em với bà mẹ ở đường phố tồi tàn của anh nhé! Em nghĩ họ sẽ nói gì với nhau đây?”

“Giá như bà Cora là mẹ đẻ của em, họ có thể có rất nhiều điều để nói với nhau đấy. Em ước mong anh sẽ không bị ám ảnh quá nhiều vì cách biệt giai cấp, Mike ạ.”

“Anh sao!” Tôi hỏi với vẻ hoài nghi. “Thành ngữ trong tiếng Mỹ của em nói sao nhỉ - anh không môn đăng hộ đối, có phải vậy không?”

“Anh không muốn viết câu ấy lên một tấm áp phích rồi dán lên ngực mình đâu mà.”

“Anh không biết phải mặc đồ gì cho thích hợp,” tôi nói thật cay đắng. “Chẳng biết phải nói năng ra sao cho đúng đắn, thật tình chẳng biết gì về tranh ảnh, nghệ thuật hay âm nhạc cả. Thật ra anh chỉ biết ai phải cho tiền boa và cho bao nhiêu mà thôi.”

“Mike à, anh không nghĩ như thế lại càng thêm thú vị với anh hay sao? Em nghĩ thế đấy.”

“Dù sao em cũng không được lôi mẹ anh tới dự tiệc nhà em đó.”

“Em chẳng hề đề nghị lôi bất cứ ai đến bất cứ nơi nào, nhưng em nghĩ, anh Mike ạ, em phải đến gặp mẹ anh khi chúng mình trở về Anh.”

“Không,” tôi bùng nổ.

Cô nhìn tôi hơi sửng sốt.

“Sao lại không chứ, Mike? Nếu không có chuyện gì khác thì em muốn nói không làm thế thật là thất lễ. Anh đã cho mẹ biết mình cưới nhau rồi hay chưa?”

“Chưa.”

“Sao anh chưa nói?”

Tôi không trả lời.

“Chẳng phải cách đơn giản nhất là cho bà biết anh đã kết hôn rồi đưa em về gặp bà khi mình về Anh sao?”

“Không,” tôi lại nói. Lần này không đùng đùng giận dữ những vẫn rõ là dằn giọng.

“Anh chẳng muốn em gặp mẹ rồi,” Ellie nói thật chậm rãi.

Tất nhiên tôi chẳng muốn. Tôi cho đó là điều hiển nhiên thôi, nhưng sau cùng cũng phải giải thích. Tôi không hiểu phải giải thích cách nào cho rõ ràng.

“Làm vậy không nên đâu,” tôi nói chậm rãi. “Em phải hiểu điều đó. Chắc chắn sẽ gây ra rắc rối.”

“Anh nghĩ mẹ sẽ không thích em hay sao?”

“Chẳng ai có thể không thích em, nhưng sẽ không - ôi, anh không biết phải nói sao. Bà có thể ngại ngùng bối rối. Dù sao đi nữa, anh muốn nói anh kết hôn thế này là tiền dâm hậu thú. Đó là kiểu nói đời xưa. Bà sẽ không thích thế đâu.”

Ellie lắc đầu chầm chậm.

“Đời nay có ai thật sự nghĩ như thế không anh?”

“Tất nhiên là có. Ở nước em cũng vậy.”

“Vâng, cũng đúng nhưng mà - nếu ai đấy có thể làm tốt thì…”

“Ý em muốn nói nếu một người đàn ông làm ra thật nhiều tiền chứ gì.”

“À, không phải chỉ tiền thôi đâu.”

“Phải rồi,” tôi nói. “Là tiền. Nếu một thằng đàn ông có rất nhiều tiền, hắn sẽ được ngưỡng mộ và kính trọng, dù có sinh ra ở nơi nào cũng không sao cả.”

“À, ở đâu cũng thế thôi anh ạ.”

“Làm ơn đi, Ellie,” tôi nói. “Xin em đừng đi gặp mẹ anh!”

“Em vẫn nghĩ như thế là không đàng hoàng tử tế.”

“Không phải vậy đâu. Em không thể để yên cho anh sao? Anh biết điều gì tốt nhất cho mẹ mình mà. Bà sẽ ngại ngùng, bối rối. Anh cho em biết bà sẽ như vậy đó.”

“Nhưng anh phải cho mẹ anh biết anh đã cưới vợ chứ.”

“Được thôi. Anh sẽ báo.”

Tôi nảy ra ý định viết thư cho mẹ từ nước ngoài, như vậy sẽ dễ dàng hơn. Tối hôm đó khi cô ấy viết cho hai ông chú và bà mẹ kế, thì tôi cũng viết lá thư của tôi. Nó ngắn ngủn.

“Thưa mẹ,” tôi viết. “Đáng lẽ con phải báo cho mẹ biết trước, nhưng con hơi ngượng ngùng. Con đã cưới vợ cách đây ba tuần rồi. Mọi chuyện xảy ra khá đột ngột. Vợ con là một cô gái rất xinh đẹp và hiền lành. Cô ấy có rất nhiều tiền, nên đôi khi cũng có một chút ngượng ngùng lúng túng. Chúng con sẽ xây cho mình một ngôi nhà đâu đó ở miền quê. Hiện giờ chúng con đang đi du lịch vòng quanh châu Âu. Chúc mẹ mọi điều tốt lành. Con trai của mẹ, Mike.”

Kết quả của việc trao đổi thư tín tối hôm đó khá khác biệt. Mẹ tôi để một tuần trôi qua rồi mới gửi một lá thư rõ ràng theo cách riêng của bà.

“Mike thân yêu. Mẹ rất vui khi nhận được thư anh. Hy vọng anh sẽ thật hạnh phúc. Mẹ thương mến của anh.”

Đúng như Ellie đã tiên đoán, phía bên cô có chuyện rùm beng hơn rất nhiều. Chúng tôi đã chọc tung một cái tổ ong vò vẽ thường xuyên gây phiền nhiễu. Chúng tôi bị đám phóng viên bao vây để moi tin tức về cuộc hôn nhân lãng mạn, trên mặt báo có những bài viết về nữ thừa kế của dòng họ Guteman và cuộc trốn nhà theo trai thật lãng mạn của cô, có cả thư của các chủ ngân hàng và luật sư. Rồi cuối cùng các cuộc gặp mặt chính thức được sắp xếp. Chúng tôi gặp anh Santonix trên mặt bằng xây dựng của Đất Digan, xem các sơ đồ ở đó và thảo luận điều này chuyện nọ. Rồi sau khi thấy mọi chuyện đều ổn thỏa chúng tôi tới London, thuê một dãy phòng tại khách sạn Claridge rồi chuẩn bị sẵn sàng như sách vở đời xưa thường viết là nghênh tiếp đám kỵ binh.

Người đến trước tiên là ông Andrew P. Lippincott. Đó là một người đàn ông có tuổi, vẻ ngoài lãnh đạm và kỹ tính. Ông ta cao lêu nghêu và gầy còm, cách cư xử thật khéo léo lịch thiệp. Là dân Boston, và qua giọng nói tôi đã không nhận ra ông là người Mỹ. Nhờ thu xếp qua điện thoại ông đến thăm chúng tôi ở khách sạn lúc mười hai giờ trưa. Tôi có thể nhận ra Ellie bồn chồn lo lắng dù cô che giấu rất tài tình.

Ông khách hôn cô rồi chìa tay cho tôi bắt và mỉm cười vui vẻ với tôi.

“Này Ellie thân mến, trông cháu rất khỏe mạnh, có thể nói là tươi như hoa mới nở ấy.”

“Chú có khỏe không, chú Andrew? Đến bằng cách nào ạ? Đi máy bay à?”

“Không, ta đã lên tàu Nữ hoàng Mary sang đây, một chuyến đi rất thú vị. Và đây là chồng cháu sao?”

“Đây là Mike, đúng thế ạ.”

Tôi nói khích, hay tưởng là vậy, “Ngài có khỏe không, thưa ngài?” Rồi tôi mời ông ta dùng rượu, nhưng ông vui vẻ từ chối. Ông ngồi xuống một cái ghế lưng dựa thẳng đứng và có hai tay vịn như thể mạ vàng, vẫn tươi cười, ông hết ngó Ellie rồi lại nhìn tôi.

“Này,” ông bảo, “thanh niên các cháu vẫn luôn khiến bọn ta bị sốc. Mọi sự rất lãng mạn, hử?”

“Cháu xin lỗi ạ,” cô nói, “thật sự xin lỗi chú.”

“Thế sao?” ông Lippincott hỏi, khá lạnh nhạt.

“Cháu thiết tưởng đấy là cách tốt nhất ạ,” cô đáp.

“Chuyện ấy thì ta không hoàn toàn đồng ý đâu, cháu ạ.”

“Chú Andrew ơi,” Ellie nói, “chú hoàn toàn biết rõ nếu như cháu làm bất cứ cách nào khác hẳn đã có chuyện ầm ĩ hết sức kinh hồn rồi.”

“Sao lại có chuyện ầm ĩ kinh hồn chứ?”

“Chú biết rõ bọn họ sẽ thế nào mà. Cả chú nữa,” cô nói như buộc tội, rồi tiếp lời, “Cháu đã nhận được hai bức thư của bà Cora. Một bức hôm qua và một bức sáng nay.”

“Phải bớt khích động phần nào đi, cháu ạ. Chỉ là trong hoàn cảnh này lẽ dĩ nhiên phải thế thôi, cháu không nghĩ thế sao?”

“Lấy ai, như thế nào và ở đâu là chuyện riêng của cháu mà.”

“Cháu có thể nghĩ thế, nhưng rồi sẽ thấy các bà trong bất kỳ gia đình nào đều hiếm khi đồng ý chuyện ấy."

“Thật sự cháu đã khiến mọi người tránh được rất nhiều phiền phức đấy ạ.”

“Cháu muốn nói cái kiểu ấy cũng được thôi.”

“Nhưng quả đúng là thế mà, phải không chú?”

“Nhưng cháu đã thực hiện khá nhiều trò lừa dối nhờ sự giúp đỡ của ai đấy lẽ ra phải hiểu biết chứ không làm điều cô ta đã làm, phải thế không?”

Ellie đỏ bừng mặt.

“Chú muốn nói đến chị Greta à? Chị ấy chỉ làm những gì cháu yêu cầu thôi mà. Có phải tất cả bọn họ đều rất bực tức với chị ấy?”

“Lẽ dĩ nhiên. Cả cô ta và cháu đều không thể trông mong bất cứ điều gì khác, phải không? Nên nhớ cô ta ở vị thế được tin cậy đấy.”

“Cháu đã đến tuổi rồi cơ mà. Có thể làm những gì mình thích.”

“Ta đang nói tới cái lúc trước khi cháu đến tuổi tự lập. Những chuyện lừa lọc đã bắt đầu từ lúc ấy, chẳng phải thế sao?”

“Ngài không được trách mắng Ellie, thưa ngài,” tôi nói. “Trước hết tôi đã không biết điều gì đang xảy ra và bởi vì tất cả họ hàng của cô ấy đều ở một nước khác, nên để tôi tiếp xúc với họ thật chẳng dễ dàng gì.”

“Tôi hoàn toàn hiểu rõ,” ông luật sư nói, “rằng Greta đã gửi đi một số thư từ và báo một số thông tin cho bà van Stuyvesant và chính tôi theo yêu cầu của cháu Ellie đây, và có thể nói đã làm việc rất hiệu quả. Cậu đã gặp Greta Andersen rồi, phải không Michael? Tôi có thể gọi cậu là Michael vì cậu là chồng của Ellie, được không?”

“Tất nhiên,” tôi đáp, “cứ gọi tôi là Mike. Không, tôi chưa gặp cô Andersen ạ.”

“Thật thế sao? Điều ấy khiến tôi ngạc nhiên đấy.” Ông ta nhìn tôi chằm chặp thật lâu, có vẻ đăm chiêu suy nghĩ. “Tôi cứ tưởng cô ta có mặt ở lễ cưới chứ.”

“Không ạ, chị Greta không đến đấy,” Ellie nói. Cô ngó tôi có vẻ phiền trách khiến tôi cục cựa không được thoải mái.

Ông Lippincott vẫn đăm chiêu nhìn tôi khiến tôi bực mình khó chịu. Dường như ông ta sắp nói ra điều gì đó chứ không phải đang đổi ý.

Một lúc khá lâu sau đó ông ta mới nói, “Ta e là hai cháu Michael và Ellie sẽ phải kiên nhẫn chịu đựng khá nhiều lời trách móc chỉ trích của gia đình Ellie đấy.”

“Cháu cho rằng bọn họ sẽ bổ nhào xuống đầu cháu cả một bầy,” cô nói.

“Rất có thể như thế,” ông Lippincott nói thêm, “ta đã cố lót đường rồi.”

“Chú về phe chúng cháu, phải không chú Andrew?” Ellie mỉm cười với ông luật sư.

“Hầu như cháu không được yêu cầu một luật sư cẩn trọng đi xa đến thế. Ta đã hiểu được sống ở trên đời phải biết khôn ngoan chấp nhận những sự đã rồi. Hai cháu đã phải lòng nhau rồi kết hôn, và ta đã hiểu cháu nên mới nói, Ellie ạ, cháu đã mua một tài sản ở miền nam nước Anh và đã khởi công xây dựng một ngôi nhà trên đấy. Thế là cháu định sống ở đất nước này hay sao?”

“Chúng tôi muốn xem nơi đây là nhà của mình, đúng như vậy đó. Ngài phản đối việc chúng tôi đang làm hay sao?” tôi nói với giọng có chút tức giận. “Ellie đã lấy tôi và bây giờ là dân của Vương quốc Anh. Vậy tại sao cô ấy lại không thể sống ở đây chứ?”

“Hoàn toàn chẳng có lý do nào cả. Thật ra chẳng có lý do nào mà Fenella không được sống ở bất cứ đất nước nào mình chọn lựa, hay nói đúng ra có tài sản ở hơn một đất nước. Ngôi nhà ở Nassau là của cháu đấy, có nhớ không, Ellie?”

“Cháu cứ tưởng là của bà Cora chứ. Bà ta lúc nào cũng hành xử như thể đấy là nhà bà ấy.”

“Nhưng quyền sở hữu tài sản ấy hiện thời được xác định thuộc về cháu. Cháu còn có một ngôi nhà ở Long Island nữa, bất cứ lúc nào muốn đến viếng thăm thì cứ đến. Cháu là chủ sở hữu của rất nhiều khu đất có trữ lượng dầu hỏa cao ở Miền Tây nước Mỹ.” Giọng ông ta vui vẻ hòa nhã, nhưng thật kỳ lạ là không hiểu sao tôi lại có cảm giác những lời lẽ đó nhắm thẳng vào tôi. Phải chăng ông ta cố ý nói bóng gió nhằm chia rẽ tôi và Ellie? Tôi không dám chắc. Có vẻ không hay ho gì cho lắm khi nhồi nhét điều đó vào đầu một kẻ có vợ là chủ sở hữu tài sản khắp thế giới và giàu đến nứt đố đổ vách. Dường như có gì đó khiến tôi nghĩ ông này hẳn đã xem nhẹ quyền sở hữu tài sản của cô ấy, tiền và những thứ còn lại nữa. Nếu tôi là một tên đào mỏ như rõ ràng ông ta tưởng, thì sẽ có thêm nhiều lợi lộc vào tay tôi. Nhưng quả thật tôi nhận thấy ông Lippincott này là một người rất tinh tế. Bất cứ lúc nào cũng khó lòng biết được ông ta định nói gì, đang nghĩ gì trong đầu đằng sau cái vẻ thản nhiên vui tính của ông ta. Phải chăng theo kiểu cách của mình ông ta đang cố làm cho tôi khó chịu, khiến tôi có cảm giác mình sẽ bị bọn họ gần như công khai quy kết là một tên đào mỏ?

Ông Lippincott nói với Ellie, “Ta có mang đến một số văn bản theo luật định mà cháu phải cùng ta xem qua, Ellie ạ. Ta muốn cháu ký tên vào nhiều văn bản đấy.”

“Vâng, dĩ nhiên rồi, chú Andrew ạ. Lúc nào cũng được.”

“Như cháu nói đấy, lúc nào cũng được. Chẳng cần phải vội. Ta còn có việc khác ở London và sẽ ở bên này chừng mười ngày.”

Mười ngày, tôi thầm nghĩ, đúng là một thời gian dài. Tất nhiên tôi ước gì ông ta đừng ở đây mười ngày nữa. Tuy ông ta có vẻ khá thân thiện với tôi, nhưng có thể nói điều đó cho thấy ông ta vẫn bảo lưu phán đoán của mình về một số vấn đề nào đó, nhưng lúc ấy tôi lại tự hỏi phải chăng ông ta thật sự là kẻ thù của tôi. Nếu đúng như vậy ông ta sẽ không phải là hạng người để lộ bài.

“À,” ông nói tiếp, “giờ đây khi tất cả chúng ta đã gặp gỡ và thỏa thuận về tương lai, cháu có thể nói như thế, ta muốn gặp riêng chồng cháu một lát.”

“Chú có thể nói chuyện với cả hai chúng cháu cơ mà,” cô ấy phản đối. Tôi đặt bàn tay lên cánh tay cô:

“Thôi đừng nổi cáu, em yêu! Em có phải là gà mẹ bảo vệ gà con đâu chứ.” Tôi đẩy nhẹ cô đi tới cửa vào buồng ngủ. “Chú Andrew muốn đánh giá nhận xét anh mà. Ông ấy hoàn toàn có quyền làm như vậy.”

Tôi nhẹ nhàng đẩy cô ấy qua cửa. Rồi đóng cả hai lớp cửa lại, tôi quay trở ra gian phòng. Đó là một phòng khách rộng rãi thật đẹp. Tôi lấy một cái ghế và ngồi đối diện với ông luật sư. “Được thôi,” tôi nói. “Bắn đi!”

“Cảm ơn Michael,” ông nói. “Trước tiên ta muốn cam đoan với cậu dù thế nào ta cũng không phải là kẻ thù của cậu như có lẽ cậu tưởng đâu.”

“À, tôi rất vui khi nghe nói như vậy,” giọng tôi có vẻ không chắc chắn lắm.

“Để cho ta nói thật thẳng thắn nhé,” ông Lippincott nói, “còn thẳng thắn hơn cả trước mặt đứa cháu mà ta là người giám hộ và rất quý mến ấy. Cậu có thể chưa hoàn toàn đánh giá đúng, Michael ạ, nhưng Ellie là một cô gái ngoan hiền đáng yêu hết sức tuyệt vời đấy.”

“Xin ngài đừng lo! Tôi yêu cô ấy thật lòng mà.”

“Hoàn toàn không phải chuyện ấy,” ông ta nói với vẻ lạnh nhạt cố hữu. “Ta hy vọng cậu yêu quý nó nhưng cũng đánh giá được nó thật sự đáng yêu và lại rất dễ bị tổn thương.”

“Tôi sẽ cố gắng,” tôi nói. “Chắc chẳng phải cố gắng nhiều lắm đâu. Ellie là nhất rồi.”

“Thế thì ta sẽ tiếp tục điều mình định nói. Ta sẽ hết sức thẳng thắn nói toạc ra hết. Cậu chẳng phải là loại thanh niên ta vẫn mong muốn Ellie kết hôn. Cũng như gia đình con bé, ta muốn cháu ta lấy một cậu cùng môi trường sống, cùng một giới…”

“Nói cách khác là một thiếu gia,” tôi nói.

“Không, không chỉ thế thôi. Ta nghĩ nền tảng và trải nghiệm tương đồng là yêu cầu căn bản của cuộc sống vợ chồng. Điều ấy chẳng liên quan gì đến thái độ của bọn rởm đời. Dù sao Herman Guteman, ông nội của con bé, lúc mới vào đời cũng từng là nhân viên bốc xếp hàng hóa ở bến tàu. Rốt cuộc ông ấy đã trở thành một trong những người giàu có nhất nước Mỹ.”

“Từ tất cả những điều ngài biết, tôi có thể làm y như vậy,” tôi nói. “Cuối cùng tôi có thể trở thành một trong những người giàu có nhất nước Anh.”

“Mọi sự đều có thể,” ông Lippincott nói. “Cậu có tham vọng kiểu ấy hay không?”

“Không chỉ là tiền thôi đâu,” tôi đáp. “Tôi muốn - tôi muốn đến nơi nào đó làm việc này việc nọ và…” Tôi ngần ngừ, rồi dừng lại.

“Cậu có tham vọng, đúng chứ? À, đấy là một điều rất tốt, chắc chắn như thế.”

“Tôi bắt đầu làm những việc vặt một thời gian dài,” tôi nói, “khởi đầu từ những việc linh tinh. Tôi chẳng có gì, cũng không ai giúp đỡ và sẽ không giả vờ nói khác đi.”

Ông ta gật đầu đồng tình.

“Nói thật thẳng thắn và rộng lượng, ta đánh giá cao điều ấy. Này Michael, ta chẳng phải họ hàng của Ellie, nhưng vẫn đóng vai giám hộ của con bé, là người quản trị quỹ ủy thác do ông nội nó để lại và lo liệu mọi việc, quản lý tài sản và việc đầu tư. Do đó ta đảm nhận một số trách nhiệm nhất định về những chuyện ấy. Bởi thế ta muốn biết tất cả những gì có thể biết được về người chồng mà nó đã lựa chọn.”

“Dạ, ngài có thể điều tra về tôi, và phát hiện bất cứ điều gì ngài thích ạ.”

“Hoàn toàn đúng như thế. Đấy là một cách để làm việc ấy. Một sự thận trọng khôn ngoan cần phải có. Nhưng bây giờ đây, Michael ạ, ta muốn biết tất cả những gì có thể về cậu từ chính miệng cậu nói ra. Ta muốn nghe cậu kể chuyện của cậu cho đến bây giờ.”

Tất nhiên tôi không thích điều đó. Mong ông ta hiểu tôi chẳng muốn. Chẳng ai ở vào địa vị của tôi mà ưa cho nổi. Làm những gì tốt nhất cho mình là một thói quen đã khắc sâu tận xương tủy rồi. Ở trường học tôi từng xem điều đó là quan trọng và từ đó có hơi khoe khoang khoác lác về điều này chuyện nọ một chút xíu, nói một vài câu ra xa ngoài sự thật một chút xíu. Tôi không hề thấy ngượng. Chỉ là lẽ tự nhiên thôi. Tôi nghĩ đó là chuyện ta phải làm nếu muốn tiếp tục sống. Tạo dựng một hoàn cảnh sống tốt đẹp cho chính mình. Thiên hạ thường hiểu mình qua đánh giá của chính mình, và tôi chẳng thích mình giống như anh chàng nọ trong tiểu thuyết của Dickens. Họ đã đọc chuyện ấy trên tivi và phải nói đó là một chuyện bịa đặt thật tài tình. Tên hắn là Uriah, họ gì đó không rõ, vẫn luôn đi đây đó tỏ ra khiêm nhường và cứ xoa xoa hai bàn tay, thật ra hắn luôn bày mưu tính kế này nọ đằng sau vẻ nhún nhường khúm núm ấy. Tôi chẳng muốn giống như hắn đâu.

Tôi từng sẵn sàng nói dóc một chút xíu với những anh chàng đã gặp hay tạo ra một hoàn cảnh sống thật tốt đẹp với một ông chủ có thể sẽ thuê mình. Dù sao bản thân ai chẳng có mặt tốt lẫn mặt xấu và chẳng dại gì lại khoe ra mặt xấu của mình, cứ lải nhải nói mãi về điều đó. Không, tôi vẫn luôn nói tốt về mình khi kể lại những việc mình đã làm ngay lúc đó. Nhưng tôi chẳng dám nghĩ tới chuyện làm như vậy với ông Lippincott. Tốt hơn hết ông ta nên dẹp bỏ ý định tiến hành điều tra đời tư của tôi, nhưng dù sao tôi cũng không hoàn toàn chắc chắn ông sẽ không điều tra. Vì vậy tôi cho ông ta biết sự thật không hề vẽ vời hoa lá, có thể nói như vậy.

Lúc ban đầu thật nghèo khổ, cha tôi từng nghiện rượu, nhưng tôi lại có một bà mẹ hiền, bà chịu làm lụng cực khổ một chút để giúp cho tôi được học hành tử tế. Tôi không hề giấu giếm chuyện mình từng là một hòn đá lăn, cứ chuyển từ việc làm này sang việc làm khác. Ông lắng nghe thật kỹ, luôn động viên khuyến khích, có hiểu tôi muốn nói gì không? Tuy vậy thỉnh thoảng tôi nhận thấy ông ta khôn ngoan đáo để cứ lẹ làng xen vào những câu hỏi nhỏ hay những lời bình phẩm, một số bình phẩm giá như vô ý có thể tôi đã hấp tấp sa vào, hoặc là thừa nhận hoặc là phủ nhận.

Đúng vậy, tôi đã có cái cảm giác tốt hơn hết nên tỏ ra chán ngán và dợm đứng dậy bỏ đi. Và mười phút sau tôi hết sức vui mừng khi ông ta dựa ngửa vào lưng ghế và dường như cuộc thẩm tra đã kết thúc, có thể gọi đó là một cuộc thẩm tra mặc dù không hoàn toàn như vậy.

“Cậu có quan điểm sống thật phiêu lưu, cậu Rogers - Michael ạ. Chẳng phải chuyện xấu xa. Cậu cho ta biết thêm về ngôi nhà mà cậu và Ellie đang xây đi!”

“Dạ, nó cách không xa một thị trấn gọi là Phố Chợ Chadwell ạ.”

“Đúng đấy,” ông nói, “ta biết đích xác nó ở đâu. Thật ra ta đã vội vàng xuống đấy để xem rồi. Nói chính xác là hôm qua.”

Chuyện đó làm tôi giật mình sửng sốt. Nó cho thấy ông ta là một thằng cha ranh ma kiểu nào đó hay đi loanh quanh lo nhiều việc hơn là ta tưởng.

“Đó là một khu đất đẹp,” tôi nói vẻ thủ thế, “và ngôi nhà đang xây sẽ là một ngôi nhà đẹp. Kiến trúc sư tên là Santonix. Rudolf Santonix. Không rõ ngài có bao giờ nghe nhắc tới tên anh ấy hay không nhưng…”

“À, có chứ,” ông luật sư đáp, “anh ta là một tên tuổi hết sức nổi tiếng trong giới kiến trúc sư.”

“Anh ấy từng xây dựng công trình bên Mỹ.”

“Phải đấy, là một kiến trúc sư đầy triển vọng và cực kỳ tài giỏi. Thật không may ta tin là sức khỏe anh ta không được tốt.”

“Anh ấy nghĩ mình sắp chết, nhưng tôi không tin đâu. Tôi tin anh ấy sẽ lành bệnh, sẽ khỏe lại thôi. Mấy ông bác sĩ - chuyện gì họ cũng nói được.”

“Hy vọng tính lạc quan của cậu sẽ được minh chứng. Cậu lạc quan thật đấy.”

“Tôi đang nói về anh Santonix kia mà.”

“Hy vọng tất cả những điều cậu ước mơ sẽ thành hiện thực. Phải nói là tôi nghĩ cậu và Ellie đã làm một giao dịch cực kỳ tốt đẹp khi cô cậu mua khu đất ấy.”

Tôi nghĩ thật tuyệt khi ông trai già này nói là ‘cô cậu’. Chuyện Ellie tự mình mua đất vừa rồi đã không được nhắc tới.

“Ta đã hỏi ý kiến ông Crawford…”

“Crawford sao?” tôi hơi nhăn nhó.

“Ông Crawford ở Reece & Crawford, một công ty tư vấn pháp luật Anh. Ông ta là thành viên của công ty ấy đảm nhiệm việc điều hành các giao dịch mua bán. Đó là một công ty tư vấn rất tốt và ta được biết bất động sản này đã tậu được với giá rất hời. Phải nói là ta hơi thắc mắc về chuyện ấy. Ta quen thuộc với giá cả đất đai hiện thời ở nước này và thật sự đã khá lúng túng khi tính toán để mua đất ấy. Chắc chính ông Crawford ngạc nhiên lắm vì chỉ bán được nó với giá quá thấp. Ta tự hỏi không rõ cậu có biết một chút nào vì sao tài sản ấy ngẫu nhiên lại mua được với giá quá hời như thế. Ông Crawford chẳng đưa ra bất cứ ý kiến nào về chuyện ấy cả. Thực tế ông ấy dường như hơi bối rối khi ta nêu lên câu hỏi ấy.”

“Dạ, là vì có một lời nguyền trù ếm nó.”

“Xin lỗi Michael, cậu nói gì thế?”

“Một lời nguyền, thưa ngài,” tôi giải thích. “Lời cảnh cáo của dân digan, là như vậy đó. Ở địa phương nó được gọi là Đất Digan.”

“A. Một câu chuyện?”

“Dạ phải, và có vẻ khá phức tạp, không biết người ta bịa ra bao nhiêu, và bao nhiêu là sự thật nữa. Có một án mạng hay cái gì đó cách đây đã lâu. Một người đàn ông, vợ ông ta và một người đàn ông khác. Một số người kể lại người chồng đã giết hai người kia rồi tự sát. Ít ra đó là phán quyết đã được tuyên bố trước tòa. Nhưng còn nhiều chuyện khác đủ kiểu cứ loan truyền khắp nơi. Chắc chẳng một ai biết chuyện gì thật sự đã xảy ra. Cách đây đã khá lâu rồi. Từ dạo đó nó đã được trao tay chừng bốn năm lần gì đấy, nhưng chẳng ai ở lâu cả.”

“A,” ông Lippincott tỏ ý tán thành, “phải đấy, đúng là một câu chuyện dân gian kiểu Anh.” Ông tò mò ngó tôi. “Cậu và Ellie không sợ lời nguyền ấy hay sao?” Ông khẽ hỏi, miệng hơi mỉm cười.

“Tất nhiên là không,” tôi đáp. “Cả Ellie và tôi đều không tin bất cứ chuyện rác rưởi nào đại loại như thế. Thật may mắn, chúng tôi đã mua được với giá rẻ.” Khi nói như vậy, một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu tôi. Theo nghĩa nào đó thì đúng là may mắn thật, nhưng với tất cả tiền bạc, tài sản và những thứ còn lại của Ellie, chuyện mua một khu đất với giá rẻ hay giá cao ngất cũng không thể là một vấn đề quan trọng đối với cô. Rồi tôi lại nghĩ là không đúng, mình đã sai lầm. Dù sao đi nữa cô ấy cũng có ông nội xuất thân là phu bốc xếp ở bến tàu rồi mới trở thành triệu phú. Bất cứ ai thuộc hạng người đó lúc nào cũng mong muốn mua rẻ bán đắt.

“À, ta không mê tín dị đoan đâu,” ông chú nói. “Và phong cảnh nhìn từ khu đất của cô cậu thật là hoành tráng.” Ông ngần ngừ. “Ta chỉ hy vọng khi dọn vào ở trong ngòi nhà đó, Ellie sẽ không nghe quá nhiều những câu chuyện đã được loan truyền ấy.”

“Tôi sẽ giữ cho mọi chuyện đừng tới tai cô ấy nếu có thể được. Chắc sẽ không có ai nói gì với cô ấy đâu ạ.”

“Dân ở các làng quê rất ưa lặp lại những chuyện đại loại như thế,” ông nói. “Và nên nhớ Ellie không cứng cỏi như cậu đâu, Michael ạ. Nó có thể dễ dàng bị tác động. Theo cách nào đó. Điều ấy khiến ta…” ông dừng lại, không nói tiếp điều định nói ra. Ông gõ gõ một ngón tay lên mặt bàn. “Bây giờ ta sẽ nói với cậu một vấn đề có đôi chút khó khăn. Lúc nãy cậu vừa bảo chưa từng gặp cái cô Greta Andersen này.”

“Dạ, chưa ạ, như đã nói tôi chưa gặp cô ta.”

“Kỳ quặc. Rất kỳ quặc đấy.”

“Sao ạ?” tôi ngó ông dò hỏi.

“Ta cứ tưởng hầu như chắc chắn cậu phải gặp cô ta rồi chứ,” ông nói chậm rãi. “Cậu biết về cô ta được bao nhiêu rồi?”

“Tôi biết cô ta đã ở với Ellie khá lâu rồi ạ.”

“Đã ở với Ellie từ lúc con bé mới mười bảy tuổi. Cô ta giữ một nhiệm vụ cần có một số trách nhiệm và được tin cậy. Ban đầu khi đến nước Mỹ cô ta có giấy chứng nhận khả năng làm thư ký và người theo kèm. Một kiểu phụ nữ giám sát Ellie khi mẹ kế con bé ra khỏi nhà, có thể nói là hết sức thường xuyên.” Ông nhắc tới chuyện đó đặc biệt lạnh nhạt. “Ta được biết cô ta sinh ra trong một gia đình tử tế, được chứng nhận rất xuất sắc, mang hai dòng máu Đức và Thụy Điển. Ellie trở nên rất gắn bó với cô ta một cách hết sức tự nhiên.”

“Dạ, điều đó tôi cũng được biết ạ,” tôi nói.

“Ellie đã gắn bó kiểu nào đấy, ta cho là hầu như gắn bó với cô ta quá mức. Ta nói như thế cậu không phiền lòng chứ?”

“Không đâu. Sao tôi lại phải phiền lòng chứ? Thực tế tôi đã… à, chính tôi cũng từng nghĩ vậy đôi lần. Greta thế này, Greta thế nọ. Tôi đã thấy - à, tôi biết không phải việc của mình, nhưng đôi lúc thấy chán ngấy.”

“Tuy thế con bé chẳng hề tỏ ý muốn cậu gặp Greta hay sao?”

“Dạ,” tôi đáp, “cũng hơi khó giải thích. Nhưng tôi nghĩ, phải, tôi nghĩ có lẽ cô ấy từng gợi ý một cách nhẹ nhàng một hai lần gì đó, nhưng mà, dạ, chúng tôi đã quá chú tâm gặp mặt nhau, Hơn nữa, dạ đúng vậy, thật tình tôi cũng không muốn gặp Greta. Tôi chẳng muốn chia sẻ Ellie với bất cứ ai.”

“Ta hiểu. À, ta hiểu rồi. Và Ellie không đề nghị mời Greta đến dự lễ cưới của cô cậu sao?”

“Dạ, có chứ.”

“Nhưng - nhưng cậu không muốn cô ta đến dự. Vì sao thế?”

“Tôi không biết. Thật tình không biết. Tôi chỉ cảm thấy cô Greta này, cô gái hay người đàn bà này tôi chưa từng gặp, cô ta cứ luôn can thiệp vào mọi chuyện. Ngài biết rồi đó, sắp xếp mọi chuyện trên đời cho Ellie. Gửi bưu thiếp và thư từ rồi lấp liếm giùm Ellie, sắp đặt cả một lộ trình rồi chuyển lời cho gia đình. Tôi có cảm giác Ellie đang phụ thuộc vào cô ta sao đó, để cho cô ta điều khiển, muốn làm mọi chuyện cô ta muốn. Tôi - ôi, tôi xin lỗi ngài Lippincott, có lẽ tôi không nên nói ra tất cả những chuyện đó. Ngài cứ cho chỉ đơn thuần vì tôi ghen tuông. Nói sao cũng được, tôi đã nổi nóng và nói không muốn Greta tới dự, lễ cưới đó là của chúng tôi, chỉ là chuyện riêng của chúng tôi chứ chẳng phải của ai khác. Và vậy là chúng tôi cùng tới phòng đăng ký kết hôn và viên chức ở đó với cô thư ký đánh máy là hai nhân chứng. Xin nói tôi thật nhỏ mọn vì đã từ chối không mời cô ta, nhưng tôi chỉ muốn giữ Ellie cho riêng mình mà thôi.”

“Ta hiểu. À, ta hiểu rồi, và phải nói là cậu khôn ngoan thật đấy, Michael ạ.”

“Ngài cũng chẳng ưa Greta mà,” tôi khôn khéo nói.

“Cậu không thể nói là ta cũng thế nhé, Michael, khi thậm chí cậu chưa từng gặp cô ta.”

“Dạ, tôi biết là không thể, nhưng mà - à, ý tôi muốn nói nếu ngài từng nghe rất nhiều điều về một người, ngài có thể nảy ra những ý nghĩ về những điều ấy, có những phán xét nào đó. Thôi được, ngài cứ cho đó chỉ là ghen tuông cũng được. Tại sao ngài không thích Greta?”

“Chẳng hề có thành kiến gì trong chuyện này,” ông nói, “nhưng cậu là chồng của Ellie, Michael ạ, và tận đáy lòng ta rất mong muốn Ellie thật hạnh phúc. Ta chẳng ưa ảnh hưởng của Greta đối với cháu ta. Cô ta bao biện ôm đồm quá nhiều chuyện.”

“Ngài có nghĩ cô ta sẽ cố gây rắc rối giữa hai chúng tôi hay không?” tôi hỏi.

“Ta nghĩ mình chẳng có quyền nói bất cứ điều gì như thế.”

Ông ngồi nhìn tôi có vẻ thận trọng, nhấp nháy đôi mắt như một con rùa già yếu nhăn nheo.

Tôi hoàn toàn chẳng biết phải nói gì tiếp theo. Ông lên tiếng trước tiên, lựa lời mà nói khá dè dặt.

“Thế không hề có đề nghị cho Greta Andersen đến cư trú ở đấy với cô cậu sao?”

“Không đâu nếu tôi có thể ngăn cản được.”

“À ra đấy là điều cậu cảm nhận ư? Ý kiến ấy đã được nêu lên để bàn luận.”

“Ellie từng nói gì đó đại loại như thế. Nhưng chúng tôi là vợ chồng mới cưới, ngài Lippincott à. Chúng tôi muốn ngôi nhà của mình - tổ ấm mới của chúng tôi - dành riêng cho chúng tôi mà thôi. Tất nhiên đôi lúc cô ta sẽ đến chơi và ở lại. Cũng là lẽ tự nhiên thôi.”

“Như cậu nói, đấy chỉ là lẽ tự nhiên. Nhưng có lẽ cậu nhận thấy Greta sẽ rơi vào một tình thế khá khó khăn về việc làm sau này. Ta muốn nói vấn đề không phải là Ellie nghĩ gì về cô ta, mà là những người đã thuê mướn và đặt hết niềm tin vào cô ta cảm thấy gì.”

“Ý ngài muốn nói là ngài hay bà van gì đó sẽ không giới thiệu cô ta làm một nhiệm vụ tương tự vậy nữa sao?”

“Người ta hầu như không thể nào làm như thế, ngoại trừ chỉ đến mức độ để thỏa mãn những yêu cầu thuần túy do luật định.”

“Và ngài nghĩ cô ta sẽ muốn sang Anh sống nương nhờ vào Ellie.”

“Ta chẳng muốn làm cậu có quá nhiều thành kiến đối với cô ta đâu. Dù sao điều này chủ yếu chỉ ở trong đầu ta. Ta không ưa một số việc cô ta đã làm và cách cô ta làm những việc ấy. Ta nghĩ Ellie vốn có tấm lòng rất rộng lượng sẽ rối trí vì có thể nói là đã làm tàn lụi tiền đồ của Greta về nhiều mặt. Con bé có thể khăng khăng yêu cầu một cách bốc đồng để cho cô ta đến sống chung với cô cậu.”

“Chắc Ellie sẽ không khăng khăng yêu cầu đâu ạ,” tôi nói chậm rãi. Dù sao giọng tôi cũng nghe có vẻ hơi bối rối và có lẽ ông luật sư đã để ý thấy. “Nhưng chúng tôi có thể - tôi muốn nói là Ellie - Ellie có thể trả trợ cấp hưu trí cho cô ta hay không?”

“Nói chính xác chúng ta không nên đặt vấn đề như thế. Còn có yêu cầu về tuổi tác khi trả hưu bổng cho ai đấy nữa, mà cô ta vẫn còn trẻ, có thể nói trông rất được mắt. Xinh đẹp thật đấy,” ông chú nói thêm với giọng chê bai dè bỉu. “Cô ta còn rất hấp dẫn đối với đàn ông nữa đấy.”

“Dạ, có lẽ cô ta sẽ đi lấy chồng,” tôi nói. “Nếu như cô ta toàn diện như vậy, tại sao chưa chịu đi lấy chồng trước khi có chuyện này chứ?”

“Ta tin đã có lắm kẻ chết mê chết mệt vì cô ta, song cô ta chẳng thèm để ý đến. Tuy nhiên ta nghĩ đề nghị của cậu rất hợp lý đấy. Có thể thực hiện mà không chạm tự ái của bất cứ người nào. Dường như sẽ là một việc làm hoàn toàn hợp lẽ tự nhiên vì Ellie đã đến tuổi thừa kế và hôn nhân của nó đã được thuận lợi nhờ sự giúp đỡ của Greta - chuyển một số tiền cho cô ta để đền ơn đáp nghĩa.” Ông luật sư nhắc tới chuyện đền ơn đáp nghĩa nghe chua lè lè như giấm.

“Dạ, vậy là ổn thỏa rồi,” tôi phấn khởi nói.

“Một lần nữa ta lại thấy cậu đúng là lạc quan. Hãy cùng hy vọng cô ta sẽ chấp nhận đề nghị ấy!”

“Sao cô ta lại không chấp nhận chứ? Họa có điên khùng mới không chấp nhận.”

“Ta không biết nữa. Phải nói sẽ lạ thường nếu cô ta chẳng chịu và dĩ nhiên chúng nó sẽ duy trì quan hệ bạn bè.”

“Ngài nghĩ là… ngài nghĩ gì vậy?”

“Ta muốn thấy ảnh hưởng của cô ta đối với Ellie bị phá vỡ,” ông ta nói rồi đúng dậy. “Hy vọng cậu sẽ phụ giúp cho ta và làm mọi việc có thể làm được để đưa quan hệ ấy tới chỗ kết thúc, được không?”

“Ngài cứ yên tâm đi ạ. Tôi chẳng hề muốn cô ta dắt mũi chúng tôi suốt.”

“Cậu có thể đổi ý chí gặp cô ta đấy.”

“Tôi không nghĩ vậy đâu,” tôi nói. “Không ưa phụ nữ nắm quyền, dù cho họ có năng lực, thậm chí dù có xinh đẹp đến đâu đi nữa.”

“Cảm ơn cậu Michael đã kiên nhẫn lắng nghe ta nói. Hy vọng cả hai cô cậu sẽ vui lòng dùng bữa với ta. Tối thứ ba tới được không? Bà Cora van Stuyvesant và ông Frank Barton lúc ấy có lẽ sẽ có mặt ở London đấy.”

“Và tôi phải gặp họ sao?”

“À phải đấy, chuyện đó hoàn toàn không thể nào tránh khỏi.” Ông mỉm cười với tôi, lần này có vẻ thành thật hơn trước. “Cậu không nên quá bận tâm. Ta cho là bà Cora sẽ rất khiếm nhã với cậu, ông Frank sẽ đối xử không được lịch thiệp lắm. Còn Reuben thì sẽ không sang đây ngay lúc này đâu.”

Tôi không biết Reuben là ai, chắc là một người có quan hệ họ hàng khác.

Tôi băng qua phòng tới cửa ngăn cách và mở hai lớp cửa ra. “Nào, Ellie,” tôi nói. “Cuộc tra hỏi đã kết thúc.”

Cô trở ra phòng khách, đưa mắt nhìn thật nhanh từ ông Lippincott sang tôi rồi đi tới hôn ông ta.

“Chú Andrew thân mến,” cô nói, “cháu có thể thấy rô chú đã đối xử thật tử tế với anh Michael.”

“Này cháu, nếu ta không đối xử tử tế với chồng cháu, hẳn cháu sẽ không nhờ ta giải quyết nhiều việc trong tương lai, phải không? Ta vẫn bảo lưu quyền thỉnh thoảng được khuyên bảo một vài lời. Cả hai cháu đều còn trẻ người non dạ lắm.”

“Được ạ,” cô nói, “chúng cháu sẽ kiên nhẫn lắng nghe.”

“Bây giờ, cháu ạ, ta muốn nói vài lời với cháu nếu có thể được.”

“Tới lượt tôi là người thừa ra rồi,” tôi nói rồi cũng đi vào buồng ngủ. Tôi cố ý đóng cả hai lớp cửa để hai người nghe thấy, nhưng lại mở cánh bên trong khi đã vào rồi. Tôi không được dạy dỗ thật tử tế như cô ấy nên hơi nóng lòng muốn khám phá phải chăng ông ta hóa ra lại là người hai mặt. Nhưng thật ra chẳng có gì tôi cần phải nghe cả. Ông cho cô ấy một vài lời khuyên thật khôn ngoan. Ông bảo cô phải nhận rõ tôi có thể thấy khó khăn vì là trai nghèo cưới vợ giàu có, rồi sau đó tiếp tục thăm dò cô về việc chuyển tiền cho Greta. Cô ấy đồng ý thật hăng hái rồi nói lẽ ra chính mình phải yêu cầu ông làm chuyện ấy. Ông còn gợi ý nên chuyển thêm một khoản tiền phụ trội cho bà mẹ kế.

“Chẳng cần làm như thế một chút nào,” ông nói. “Bà ta đã được chu cấp rất đầy đủ với các khoản tiền cấp dưỡng từ rất nhiều ông chồng đã ly dị. Và như cháu biết đấy, bà ta còn được trả một khoản lợi tức tuy không lớn lắm từ quỹ ủy thác do ông nội cháu để lại.”

“Thế mà chú nghĩ cháu vẫn phải cho bà ta thêm nữa hay sao?”

“Ta nghĩ chẳng hề có nghĩa vụ phải làm như thế về cả hai mặt đạo đức và pháp luật. Nếu cháu làm như thế chắc bà ta sẽ bớt gây phiền nhiễu và phải nói là bớt mồm mép ranh ma rất nhiều đấy. Ta sẽ tạo ra khoản phụ trội ấy dưới hình thức lợi tức gia tăng, và cháu có thể thu hồi bất cứ lúc nào. Nếu cháu thấy bà ta loan truyền những tin đồn hiểm độc về chồng cháu, về chính cháu hay cuộc sống vợ chồng của hai cháu vì biết cháu có thể làm như thế nên miệng lưỡi bà ta sẽ thôi không phun ra thêm những lời lẽ châm chích độc địa nữa. Bà ta quá rành rẽ chuyện bày mưu tính kế mà cháu.”

“Bà Cora vẫn luôn ghét cháu. Cháu đã biết rõ điều ấy rồi.” Cô hỏi thêm khá lạnh nhạt, “Chú quả có thích anh Mike, phải không chú Andrew?”

“Ta nghĩ cậu ấy là một thanh niên cực kỳ hấp dẫn đấy,” ông đáp. “Và ta có thể hoàn toàn hiểu được vì sao cháu lại tiến tới hôn nhân với cậu ấy.”

Thật tôi chẳng trông mong điều gì tốt hơn thế. Tôi thật sự không phải tuýp người giống như ông ta và tôi biết điều đó. Tôi nhẹ nhàng đẩy cánh cửa khép lại, và chừng một hai phút sau Ellie vào gọi tôi ra.

Cả hai chúng tôi đang đứng chào tạm biệt ông Lippincott thì có tiếng gõ cửa rồi một cậu bé chạy việc cho khách sạn cầm một tờ điện tín đi vào. Cô ấy mở ra. Hơi chút ngạc nhiên cô khẽ kêu lên mừng rỡ.

“Là chị Greta. Đêm nay chị ấy sẽ đến London, và ngày mai sẽ đến gặp chúng mình. Thật tuyệt quá!” Cô nhìn cả hai chúng tôi. “Không phải thế sao ạ?”

Cô trông thấy hai bản mặt khó chịu và nghe thấy hai giọng nói thật lịch sự. Một giọng đáp: “Quả đúng như thế, cháu ạ.” Còn giọng kia thì trả lời: “Tất nhiên rồi.”