Chương 14
Cuộc sống của chúng tôi ở Đất Digan bắt đầu như vậy đó. Chúng tôi không tìm ra một cái tên khác cho ngôi nhà. Buổi tối đầu tiên đó đã khắc sâu tên Đất Digan vào tâm trí chúng tôi.
“Chúng mình sẽ gọi nó là Đất Digan,” Ellie nói, “chỉ để bày tỏ thôi! Một kiểu thách thức, anh không nghĩ thế sao? Đây là đất của chúng mình, và quỷ tha ma bắt những lời cảnh cáo của dân digan đi!”
Hôm sau đó, cô trở lại với bản tính vui vẻ và chẳng bao lâu sau chúng tôi bận rộn với việc ổn định cuộc sống, rồi còn tìm hiểu về vùng lân cận và hàng xóm láng giềng nữa. Ellie và tôi đi xuống căn nhà nhỏ nơi mụ digan sinh sống. Tôi cảm thấy sẽ thật là hay nếu chúng tôi tìm thấy mụ ta đang đào đất trong vườn nhà. Lần duy nhất Ellie gặp mụ trước đây là lúc mụ coi bói cho chúng tôi. Giá như cô trông thấy mụ chỉ là một bà già bình thường - đang đào bới khoai tây - nhưng chúng tôi không gặp mụ. Căn nhà đóng kín cửa. Tôi hỏi có phải mụ đã chết, nhưng bà hàng xóm lắc đầu:
“Chắc hẳn bà ta đã bỏ đi rồi. Thỉnh thoảng vẫn bỏ đi, cô cậu biết đấy. Là dân digan chính cống. Chính vì thế bà ta không thể ở mãi trong nhà. Cứ bỏ đi lang thang rồi lại quay về.” Bà hàng xóm vỗ vỗ lên trán. “Không hẳn về ngay chỗ này đâu.”
Ngay sau đó bà hỏi, cố che giấu tính tò mò, “Cô cậu đến từ ngôi nhà mới trên kia, phải không? Ngôi nhà trên đỉnh đồi vừa mới xây xong ấy.”
“Đúng vậy,” tôi đáp, “Chúng tôi vừa dọn vào đêm hôm qua.”
“Đấy là nơi trông thật tuyệt vời,” bà nói. “Chúng tôi đều đã lên trên ấy để xem lúc đang xây nhà. Ngắm một ngôi nhà như thế ở nơi trước đây toàn là cây cối tối tăm quả có khác, phải không?” Bà hỏi Ellie khá rụt rè, “Nghe nói quý cô đây là người Mỹ, đúng thế không?”
“Vâng,” cô đáp, “tôi là người Mỹ - hay từng là như thế, nhưng bây giờ đã kết hôn với một người Anh, vì thế tôi là một phụ nữ Anh ạ.”
“Và cô cậu đến đây để định cư, phải không?”
Chúng tôi đáp đúng vậy.
“À, hy vọng cô cậu sẽ thích, tôi chắc chắn như thế.” Giọng bà ta nghe có vẻ hoài nghi.
“Sao chúng tôi lại không thích chứ?”
“Ồ, không, trên ấy thật quạnh hiu đơn độc. Người ta không phải lúc nào cũng thích sống ở một nơi hiu quạnh giữa đám cây cối um tùm.”
“Là Đất Digan,” Ellie nói.
“A, cô biết tên gọi ở địa phương, phải không? Nhưng ngôi nhà ở đấy lúc trước gọi là Các Tòa Tháp. Không hiểu sao nữa. Chẳng hề có tòa tháp nào cả, chí ít suốt thời gian tôi ở đây.”
“Tôi nghĩ Các Tòa Tháp là một cái tên thật ngớ ngẩn,” Ellie nói. “Chắc chúng tôi sẽ tiếp tục gọi nó là Đất Digan.”
“Nếu vậy mình phải báo cho bưu điện biết,” tôi nói, “bằng không sẽ chẳng nhận được thư từ đâu em.”
“Đúng rồi, chắc sẽ không nhận được.”
“Như thế, em nghĩ mà xem,” tôi nói, “có thành vấn đề gì đâu chứ? Như vậy sẽ tốt hơn, phải không Ellie? Chẳng phải sẽ tuyệt hơn rất nhiều nếu chúng ta chẳng nhận được thư từ nào hết?”
“Có thể sẽ gây ra lắm chuyện rắc rối đấy,” Ellie nói. “Thậm chí chúng mình sẽ không nhận được các hóa đơn nữa.”
“Đó là một ý hay tuyệt,” tôi nói.
“Không, không được đâu anh. Đám thừa phát lại sẽ vào cắm chốt ở đấy. Dầu sao em cũng chẳng muốn là không nhận được bức thư nào. Em rất muốn nghe chị Greta kể chuyện.”
“Đừng bận tâm tới Greta,” tôi bảo. “Chúng ta hãy tiếp tục khảo sát địa bàn!”
Vậy là chúng tôi khảo sát làng Kingston Bishop. Đó là một ngôi làng thật tuyệt, những con người thật tuyệt trong các cửa hàng. Nơi này chẳng có gì quái gở cả. Những người giúp việc nhà cho chúng tôi chẳng kết làng này nhiều lắm, nhưng chúng tôi sớm sắp xếp các xe hợp đồng chở họ vào thị xã ở bờ biển gần nhất hoặc tới Phố Chợ Chadwell vào những ngày họ được nghỉ việc. Họ chẳng thích vị trí của ngôi nhà, nhưng những điều mê tín chẳng hề khiến họ lo âu. Tôi chỉ ra cho Ellie thấy rõ chẳng ai có thể nói ngôi nhà bị ma ám vì nó vừa mới được xây xong.
“Không,” cô đồng ý, “chẳng phải là ngôi nhà. Nó chẳng có gì không ổn cả. Ở bên ngoài ấy. Là khúc quanh nơi con đường cái xuyên qua đám cây, và khu rừng nhỏ khá âm u nơi cái bà kia đã đứng và khiến em phải nhảy nhổm lên ngày hôm ấy.”
“À, sang năm chúng ta có thể chặt những cây đó rồi trồng thật nhiều cây đỗ quyên hay cây gì đó cùng một loại.”
Chúng tôi tiếp tục lên kế hoạch.
Greta tới ở lại với chúng tôi vào hai ngày nghỉ cuối tuần. Cô ta rất thích ngôi nhà và khen chúng tôi về việc bày biện đồ đạc, tranh ảnh và phối màu. Cô ta rất khéo xử sự. Sau kỳ nghỉ cuối tuần cô ta nói sẽ không quấy rầy hai người đang hưởng tuần trăng mật lâu hơn nữa, và dù sao cũng phải quay trở lại với công việc của mình.
Ellie rất sung sướng khi cho cô ta xem ngôi nhà. Có thể thấy cô yêu thích Greta biết chừng nào. Tôi cố cư xử rất đúng mực và vui vẻ nhưng thật mừng khi cô ta trở về London vì cô ta ở lại đã khiến tôi bị căng thẳng.
Khi đã ở đó hai tuần chúng tôi được dân địa phương tiếp đón và được làm quen với Thượng Đế. Ông tới thăm chúng tôi vào một buổi chiều. Ellie và tôi đang tranh luận về việc trồng hoa làm ranh giới thì từ trong nhà đi ra anh chàng giúp việc đứng đắn đàng hoàng, nhưng với tôi, trông có vẻ hơi làm bộ làm tịch. Anh ta thông báo thiếu tá Phillpot đang ở trong phòng khách. Khi ấy, tôi thì thầm nói với Ellie: “Thượng Đế!” Cô ấy hỏi tôi muốn nói gì.
“À, dân địa phương xem ông ta như Thượng Đế vậy đó em,” tôi đáp.
Vậy là chúng tôi đi vào và ông thiếu tá Phillpot đang ở đó. Đúng là một người đàn ông vui tính gần sáu chục tuổi, thật khó miêu tả. Ông ta mặc đồ nhà quê đã khá sờn rách. Mái tóc hoa râm hơi lưa thưa trên đỉnh đầu và hàng ria ngắn lởm chởm. Ông xin thứ lỗi vì bà vợ không thể đến viếng thăm. “Bà ấy gần như tàn phế rồi,” ông nói. Ông ngồi xuống tán chuyện với chúng tôi. Chẳng nói chuyện gì đáng lưu tâm hay đặc biệt thú vị. Ông có sở trường khiến người khác cảm thấy thoải mái. Đề cập hết sức nhẹ nhàng đến nhiều đề tài khác nhau. Ông không hỏi trực tiếp một câu nào nhưng chẳng mấy chốc đã hình dung được trong đầu sở thích đặc biệt của chúng tôi nằm ở đâu. Ông bàn với tôi về chuyện đua ngựa và với cô ấy về việc làm vườn, những loài cây nào phù hợp với loại đất đặc biệt này. Ông từng qua Mỹ một hai lần rồi. Ông phát hiện tuy Ellie chẳng quan tâm mấy đến những cuộc đua ngựa nhưng lại rất thích cưỡi ngựa. Ông cho cô biết nếu định nuôi ngựa cô có thể phi lên một lối mòn đặc biệt xuyên qua rừng thông rồi đi ra một dải đất hoang rất thích hợp để phi nước đại. Rồi chúng tôi bàn tới đề tài nhà cửa và những câu chuyện về Đất Digan.
“Tôi hiểu cô cậu biết tên gọi ở địa phương này,” ông nói, “và có lẽ tất cả những chuyện mê tín dị đoan nữa.”
“Có rất nhiều lời cảnh cáo của dân digan, ” tôi nói. “Nhiều quá chừng quá đỗi. Chủ yếu là bà Lee.”
“Ôi trời,” Phillpot nói. “Bà lão Esther tội nghiệp: bà ấy đã gây rối, phải không?”
“Có phải bà ta hơi gàn dở một chút?” tôi hỏi.
“Không quá gàn dở đâu, bà ấy thích làm ra vẻ như thế thôi. Tôi thấy mình ít nhiều phải chịu trách nhiệm về bà ấy. Tôi đã cho bà ta vào ở trong căn nhà nhỏ ấy, thế mà bà ấy chẳng hề biết ơn. Tôi thích bà lão mặc dù đôi khi bà ấy có thể gây chuyện phiền phức.”
“Coi bói à?”
“Không, không phải là chuyện ấy. Này, có phải bà ấy đã xem bói cho cô cậu không?”
“Tôi không biết ông có thể gọi đấy là bói toán hay không,” Ellie nói. “Đúng hơn đấy là cảnh cáo chúng tôi không được đến đây.”
“Có vẻ khá kỳ quặc nhỉ.” Hai hàng lông mày lởm chởm của thiếu tá Phillpot nhướn lên. “Trước đây bà ấy hay có miệng lưỡi mật ngọt khi xem bói kia mà. Người lạ đẹp trai, đám cưới rình rang, sáu đứa con và cả đống của cải tiền bạc trong bàn tay cô, thưa quý cô xinh đẹp.” Ông bắt chước khá bất ngờ cái giọng digan rền rĩ của mụ ta. “Dân Di Gan thường đến dựng lều ở đây khi tôi còn bé,” ông nói. “Có lẽ tôi đã mê họ, mặc dù họ là phường trộm đạo, dĩ nhiên thế. Nhưng tôi vẫn luôn bị họ thu hút. Chỉ cần không xem họ là người biết tôn trọng luật pháp thì không sao cả. Lúc còn là học sinh tôi từng xơi nhiều lon sắt tây đầy thịt hầm digan. Tôi cảm thấy gia đình mình nợ bà Lee gì đấy, bà ấy đã cứu mạng một đứa em trai tôi khi nó còn bé. Kéo nó lên khỏi ao, khi nó lọt xuống đấy qua mặt nước đóng băng.”
Tôi làm một cử chỉ vụng về, va mạnh vào một cái gạt tàn thủy tinh văng ra khỏi mặt bàn. Nó vỡ tan tành. Tôi nhặt các mảnh vỡ lên và thiếu tá Phillpot giúp tôi.
“Tôi mong bà Lee hoàn toàn không làm gì thật sự tổn hại,” Ellie nói. “Tôi thật ngu ngốc vì đã quá hoảng sợ.”
“Hoảng sợ, thật chứ?” Hàng lông mày ông ta lại nhướn lên. “Như thế thật quá tệ, phải không?”
“Tôi không lạ vì cô ấy sợ hãi,” tôi nói thật nhanh. “Đúng hơn đó là một lời đe dọa chứ chẳng phải là cảnh báo.”
“Đe dọa ư?” Giọng ông ta nghe có vẻ như không tin nổi.
“À, tôi cũng không thể nào tin. Và sau đó, đêm đầu tiên chúng tôi dọn vào đây đã xảy ra một chuyện khác.”
Tôi kể cho ông nghe chuyện cục đá làm vỡ kính xuyên qua cửa sổ.
“Tôi e rằng dạo này có khá nhiều lũ trẻ du côn ở khắp nơi,” ông nói, “mặc dù ở quanh đây thì chẳng có nhiều. Hầu như không tồi tệ như một số nơi. Thế mà chuyện ấy vẫn xảy ra, phải nói thật là đáng tiếc.” Ông ngó Ellie. “Tôi rất tiếc vì cô đã hoảng sợ. Đúng là một trò bẩn thỉu đê tiện, lại xảy ra ngay đêm đầu tiên cô mới dọn vào đây.”
“Ồ, bây giờ tôi đã vượt qua được rồi,” Ellie nói. “Không chỉ có chuyện ấy thôi đâu, còn… còn có chuyện khác đã xảy đến chẳng bao lâu sau đấy.”
Tôi kể cho ông nghe cả chuyện đó nữa. Một buổi sáng chúng tôi xuống dưới nhà và thấy một con chim đã chết vì một lưỡi dao xuyên qua với một tờ giấy nhỏ có ghi nguệch ngoạc dòng chữ của một kẻ dốt nát: Ra khỏi đây nếu biết cái gì tốt cho chúng mày.
Lúc đó Phillpot thật sự có vẻ rất tức giận. “Lẽ ra cô cậu nên báo cho cảnh sát biết chứ.”
“Chúng tôi không muốn,” tôi nói. “Dù sao cũng chỉ làm cho kẻ đó thậm chí còn chống lại chúng tôi nhiều hơn.”
“À chuyện kiểu ấy phải ngăn chặn thôi.” Thiếu tá Phillpot bỗng dưng trở thành quan tòa, “Bằng không chúng sẽ tiếp tục. Cứ nghĩ là đùa. Chỉ là… chỉ là có vẻ đùa hơi quá lố. Thật là kinh tởm, hiểm độc, không phải là…,” ông nói hầu như với chính mình, “dường như không thể nào có chuyện ai đấy ở quanh đây ác cảm với cô cậu, với một trong hai người, tôi muốn nói là hằn thù cá nhân.”
“Không,” tôi nói, “không thể như vậy vì ở đây cả hai chúng tôi đều là người xa lạ.”
“Tôi sẽ xem xét vụ này,” Phillpot nói.
Ông đứng dậy vừa đi vừa nhìn xung quanh.
“Tôi thích ngôi nhà này của cô cậu. Cứ tưởng mình sẽ không thích chứ. Tôi hơi giống một ông già cổ hủ, trước đây vẫn quen gọi là lão hủ lậu đấy. Tôi thích những ngôi nhà cũ và những tòa kiến trúc cổ xưa. Chẳng thích tất cả những nhà xưởng hình hộp diêm đang dựng lên khắp vùng quê. Những cái hộp to tướng giống như tổ ong. Tôi thích các kiến trúc trên đấy có trang hoàng đôi chút, trang nhã đôi chút. Nhưng tôi thích ngôi nhà này. Nó giản dị và rất hiện đại, tôi cho là như thế, nhưng có nhiều hình thể và ánh sáng. Và từ trong nhà nhìn ra ngoài thì thấy thứ này thứ nọ - à, một cách khác hẳn mình từng trông thấy trước đấy. Thật thú vị. Rất thú vị. Ai thiết kế nó thế? Một kiến trúc sư người Anh, hay là người ngoại quốc?”
Tôi cho ông ta biết về anh Santonix.
“Ờ,” ông nói, “tôi nghĩ mình từng đọc về anh ta ở đâu đấy rồi. Có phải trong tạp chí Nhà và Vườn không nhỉ?”
Tôi nói anh ấy khá nổi tiếng.
“Lúc nào đấy tôi cũng muốn gặp anh ta, mặc dù chẳng biết phải nói chuyện gì. Tôi không rành rẽ về nghệ thuật,” ông nói.
Sau đó ông yêu cầu chúng tôi định một ngày tới dùng bữa trưa với vợ chồng ông.
“Cô cậu sẽ thấy thích ngôi nhà của tôi lắm đấy.”
“Chắc là một ngôi nhà cổ hả ông?” tôi hỏi.
“Xây năm 1720. Thời kỳ thật tuyệt. Ngôi nhà nguyên thủy là dưới thời Nữ hoàng Elizabeth. Đã bị thiêu rụi khoảng chừng năm 1700 và một ngôi nhà mới được xây lên ngay chỗ ấy.”
“Vậy ông vẫn luôn sống ở đây hay sao?” Tất nhiên tôi muốn hỏi không chỉ một mình ông ta, nhưng ông hiểu ý tôi.
“Phải, dòng họ nhà tôi đã ở đây từ thời Nữ hoàng Elizabeth. Có lúc hưng thịnh, có lúc suy sụp và phải dọn ra ngoài, bán đất đi khi tình hình trở nên tồi tệ, mua lại khi mọi sự tốt đẹp. Tôi sẽ rất vui được cho cả hai người xem.” Rồi nhìn Ellie ông mỉm cười nói tiếp, “Tôi biết người Mỹ thích những ngôi nhà cổ. Cậu là người có lẽ không nghĩ nhiều đến điều ấy,” ông nói với tôi.
“Tôi sẽ không giả vờ biết nhiều về những thứ cổ xưa,” tôi nói.
Rồi ông bước lộp cộp ra về. Trên xe hơi có một con chó Tây Ban Nha đang đợi. Đó là một chiếc xe cũ móp méo đã bị tróc sơn, nhưng lúc đó tôi đã biết đánh giá. Tôi biết ở vùng này ông ta vẫn đúng là Thượng Đế, và đã đóng triện chấp thuận lên chúng tôi. Tôi có thể thấy điều đó. Ông thích Ellie. Có nhiều khả năng ông cũng sẽ thích tôi, mặc dù tôi để ý thấy thỉnh thoảng ông lại liếc nhìn tôi đánh giá, như thể đang phán đoán thật nhanh về một điều gì đó trước đây ông chưa từng tình cờ gặp phải.
Ellie đang cẩn thận bỏ mảnh thủy tinh vào sọt rác khi tôi trở vào phòng khách.
“Nó bị vỡ em tiếc lắm,” cô nói vẻ tiếc rẻ. “Em thích nó.”
“Chúng ta có thể mua một cái khác y như vậy,” tôi nói. “Không phải đồ cổ mà.”
“Em biết rồi. Điều gì khiến anh hoảng hốt thế, Mike?”
Tôi ngẫm nghĩ một lát rồi đáp:
“Điều ông Phillpot vừa nói. Nó làm anh nhớ lại một chuyện đã xảy ra lúc anh còn là một thằng nhóc. Một thằng bạn của anh ở trường cùng anh trốn học đi chơi trượt băng trên một cái ao trong vùng. Mặt băng không chịu nổi sức nặng của bọn anh, hai con lừa nhỏ ngu ngốc. Bạn anh bị lọt xuống qua lớp băng và chết đuối không ai kịp lôi lên.”
“Thật khiếp quá!”
“Đúng vậy. Anh đã quên tuốt luốt cho đến khi ông Phillpot nhắc tới em trai ông ta.”
“Em thích ông ấy, Mike ạ, anh không thích sao?”
“Thích chứ. Rất thích. Anh thắc mắc không biết vợ ông ta là người như thế nào.”
Chúng tôi tới ăn trưa với gia đình Phillpot vào đầu tuần sau. Đó là một ngôi nhà kiểu thời vua George màu trắng, khá xinh đẹp so với những ngôi nhà cùng thời tuy không quá thú vị. Bên trong tồi tàn nhưng thật thoải mái. Có những bức tranh tôi cho là hình ông bà tổ tiên treo trên vách tường phòng ăn dài. Hầu hết khá tệ mặc dù lẽ ra có thể trong đỡ hơn nếu được lau chùi. Có một bức vẽ một cô gái tóc vàng hoe mặc y phục bằng satin màu hồng khiến tôi ưa thích.
Thiếu tá Phillpot mỉm cười nói:
“Cậu chọn đúng một trong những bức tranh đẹp nhất của chúng tôi. Đấy là một bà ở Gainsborough, là người tử tế mặc dù cũng bị tai tiếng vào thời của bà ấy. Bị quy cho cái tội đầu độc chồng. Có thể là định kiến vì bà ấy là người ngoại quốc. Ông Gervase Phillpot đã gặp bà ấy và đưa về từ đâu đấy ở nước ngoài.”
Vài người láng giềng khác được mời tới gặp mặt chúng tôi. Bác sĩ Shaw, một người đàn ông có tuổi tính tình hiền lành nhưng dáng vẻ mệt mỏi. Ông phải vội đi ngay khi chúng tôi chưa dùng bữa xong. Có một cha xứ trẻ đứng đắn, và một phụ nữ trung niên có giọng nói ồm ồm như nạt nộ chuyên nuôi chó Corgi. Còn có một cô tóc đen cao ráo trông cũng được mắt tên là Claudia Hardcastle dường như sống vì ngựa, dù bị cản trở do dị ứng gây bệnh sốt cỏ khô rất nặng.
Cô ta và Ellie rất thân thiết với nhau. Ellie mê cưỡi ngựa lắm nhưng cũng bị dị ứng nặng.
“Ở nước Mỹ chủ yếu là cỏ lưỡi chó khiến tôi bị dị ứng,” cô nói, “đôi khi cả những con ngựa nữa. Dạo này không gây phiền toái cho tôi nhiều lắm vì có những thử thuốc công hiệu quá tuyệt vời mà các bác sĩ có thể kê cho ta tùy theo các kiểu dị ứng khác nhau. Tôi sẽ cho cô một vài viên thuốc của tôi. Chúng màu vàng cam chói. Và nếu cô nhớ uống một viên trước khi xuất phát cô sẽ không bị hắt hơi dù chỉ một lần.”
Claudia Hardcastle nói vậy thì tuyệt quá.
“Lạc đà gây dị ứng tệ hơn ngựa. Năm ngoái tôi đến Ai Cập và nước mắt cứ chảy ròng ròng xuống mặt tôi suốt con đường tôi đi vòng quanh kim tự tháp.”
Ellie nói một số người bị dị ứng với mèo. Và cả những cái gối nữa. Họ tiếp tục bàn về chứng dị ứng.
Tôi ngồi kế bên bà Phillpot, cao và ẻo lả. Bà ta không bàn đến chuyện gì khác ngoài sức khỏe của mình lúc tạm dừng trong khi dùng một bữa ăn thịnh soạn. Bà kê khai đầy đủ hết thảy các bệnh tật khác nhau của mình, và nhiều chuyên gia ngành y danh tiếng đã bối rối như thế nào về ca bệnh của bà ta.
Thỉnh thoảng bà nói lạc ra chuyện ngoài xã hội và hỏi tôi làm nghề gì. Tôi lảng tránh câu hỏi ấy, và bà ta cố làm ra vẻ như muốn tìm hiểu xem tôi quen biết những ai. Lẽ ra tôi có thể thành thật trả lời là “Không ai hết,” nhưng tôi nghĩ cứ nín đi sẽ tốt hơn, nhất là khi bà ta thật ra chẳng phải thứ trưởng giả học làm sang và không thật sự muốn biết.
Bà nuôi chó Corgi, không rõ tên riêng là gì, hỏi han tỉ mỉ hơn nhiều, nhưng tôi nói lảng đi về tình trạng bất công nói chung và sự ngu dốt của các bác sĩ thú y. Thật hết sức êm ả và an bình nếu không nói là buồn tẻ.
Sau đó, khi chúng tôi đi dạo một vòng khá ngẫu hứng quanh vườn hoa, Claudia tới gặp tôi. Cô ta nói khá bất ngờ.
“Tôi có nghe anh tôi nói về cậu đó.”
Tôi ngẩn người ra kinh ngạc. Không thể nào hình dung ra mình có thể quen biết một ông anh của cô ta.
“Cô có chắc không?” tôi hỏi.
Cô ta có vẻ thích thú.
“Thật ra anh ấy đã xây ngôi nhà của cậu mà.”
“Ý cô muốn nói Santonix là anh của cô sao?”
“Anh cùng mẹ khác cha thôi. Tôi không biết anh ấy rõ lắm. Chúng tôi hiếm khi gặp nhau.”
“Anh ấy thật tuyệt vời,” tôi nói.
“Một số người vẫn nghĩ thế, tôi biết mà.”
“Cô không nghĩ vậy sao?”
“Tôi không chắc chắn. Anh ấy có hai mặt. Có lúc tuột luôn xuống dốc… Người ta bó tay với anh ấy luôn. Rồi sau đó anh ấy dường như thay đổi. Bắt đầu thành công trong nghề nghiệp của mình một cách hết sức phi thường. Như thể anh ấy…” cô ta tạm dừng để tìm từ thích hợp, “anh ấy tận hiến.”
“Tôi nghĩ anh ấy là - đúng như vậy đó.”
Rồi tôi hỏi cô ta đã trông thấy ngôi nhà của chúng tôi hay chưa.
“Chưa - chưa thấy từ lúc nó xây xong. “
Tôi bảo cô ta phải đến xem mới được.
“Tôi sẽ không thích nó đâu, xin báo cho cậu biết đó. Tôi chẳng ưa những ngôi nhà hiện đại. Thời nữ hoàng Anne là thời kỳ tôi yêu thích nhất.”
Cô ta nói sẽ giới thiệu Ellie vào câu lạc bộ choi golf. Và họ sẽ cùng cưỡi ngựa. Ellie sẽ mua một con ngựa, có lẽ hơn một con. Dường như cô ta và Ellie đã kết bạn với nhau.
Khi đang cho tôi xem chuồng ngựa, Phillpot nói một đôi lời về Claudia.
“Cưỡi ngựa đi săn với bầy chó giỏi lắm đấy. Đáng tiếc cô ấy đã phá hỏng cả đời mình.”
“Vậy sao?”
“Lấy một người giàu có. Lớn tuổi hơn nhiều. Một người Mỹ. Họ Lloyd đấy. Chẳng ăn thua gì. Ly dị gần như ngay lập tức. Cô ấy trở lại với họ của mình. Chớ tưởng cô ấy sẽ lấy chồng lần nữa. Cô ta chống lại cánh đàn ông mà. Tội nghiệp.”
Khi chúng tôi lái xe về nhà, Ellie nói: “Buồn tẻ - nhưng thật tuyệt. Những người ấy thật tử tế. Chúng mình sẽ rất hạnh phúc ở nơi đây, phải không anh Mike?”
“Phải, mình sẽ rất hạnh phúc.” Một bàn tay tôi rời khỏi tay lái đặt lên bàn tay cô.
Khi về tới nơi tôi thả Ellie xuống trước nhà rồi đưa xe vào gara.
Lúc đi trở ra tôi thoáng nghe có tiếng Ellie búng dây đàn ghita. Cô có một cây đàn ghita Tây Ban Nha khá đẹp, chắc mua cũng tốn rất nhiều tiền. Cô ấy vẫn thường vừa đàn vừa hát ngâm nga, giọng êm ái nhẹ nhàng. Nghe rất vui tai. Hầu như tôi chẳng biết những bài hát ấy. Phần nào đó là đạo ca của người Mỹ gốc Phi, tôi nghĩ vậy, và một số bản ballad xưa của Ireland và Scotland – thật êm ái dịu dàng và khá buồn bã. Đó chẳng phải là nhạc pop hay loại tương tự thế. Có lẽ là dân ca.
Tôi đi vòng qua sân hiên và dừng lại một lát cạnh cửa sổ rồi mới vào bên trong.
Ellie đang hát bài tôi yêu thích nhất. Tôi không biết tên bài hát đó. Cô đang khẽ ngâm nga những ca từ thật ngọt ngào với chính mình, cúi đầu xuống cây đàn ghita và ngón tay vuốt nhẹ trên dây. Đó là một giai điệu nhẹ nhàng, dịu dàng mà rầu rĩ như ám vào lòng người.
Vì niềm vui người được tạo ra
Với nỗi buồn da diết trong ta
An lành vào trần thế bao la…
Từng đêm dài và từng buổi sáng
Bao kẻ ra đời khổ đau cay đắng
Từng buổi sáng và từng đêm dài
Ngọt ngào sướng vui bao kẻ ra đời
Ngọt ngào sướng vui bao kẻ ra đời
Bao kẻ ra đời đêm vô tận…
Cô ngẩng lên và trông thấy tôi.
“Sao anh lại nhìn em như thế, Mike?”
“Như gì chứ?”
“Anh đang nhìn em như thể từng yêu em.”
“Tất nhiên là anh yêu em mà.”
“Nhưng lúc nãy anh nghĩ gì thế?”
Tôi trả lời chậm rãi và thành thật: “Anh vừa nghĩ đến em khi lần đầu trông thấy em đứng bên một gốc linh sam u ám.” Đúng vậy, tôi vừa hồi tưởng lại giây phút đầu tiên nhìn thấy Ellie, nỗi ngạc nhiên vì điều ấy và niềm phấn khích…
Ellie mỉm cười với tôi rồi hát thật dịu dàng:
“Từng buổi sáng và từng đêm dài
Ngọt ngào sướng vui bao kẻ ra đời
Ngọt ngào sướng vui bao kẻ ra đời
Bao kẻ ra đời đêm vô tận.”
Ta không hề nhận ra trong đời mình có một khoảnh khắc thật sự quan trọng - không hề nhận ra cho tới khi đã quá muộn màng.
Ngày hôm đó khi chúng tôi đến dùng bữa trưa với gia đình Phillpot và trở về nhà vô vàn hạnh phúc, đã có một khoảnh khắc như vậy. Nhưng mãi tới sau này tôi mới biết.
Tôi bảo, “Hát một bài về con ruồi đi em!” Và cô ấy đổi sang một điệu vũ nhạc ngắn vui tươi:
Bé Ruồi mi
Mùa hạ múa ca
Vô tình tay ta
Đã xua mi đi
Chẳng phải ta
Là ruồi như mi?
Hay mi không phải
Là người như ta?
Vì ta khiêu vũ
Uống rượu hát ca
Đến khi tay mù
Quất gãy cánh ta.
Suy tư là sống
Còn sức còn hơi
Nếu như ý muốn
Suy tư chết rồi;
Thế ta có phải
Con ruồi vui tươi
Liệu ta còn sống
Hay đã chết rồi.
Ôi, Ellie, Ellie ơi…