Chương 3
Jake Brigance leo qua vợ, loạng choạng bước vào căn phòng tắm nhỏ ở cách giường vài bộ, nơi anh mò mẫm trong bóng tối để tìm chiếc đồng hồ báo thức đang reo inh ỏi. Anh tìm ra nó ở nơi anh đã đặt, rồi làm cho nó câm nín bằng một phát vỗ nhanh và mạnh. Lúc này là năm giờ ba mươi sáng thứ Tư ngày 15 tháng Năm.
Anh đứng trong bóng tối một hồi lâu, nín thở, khiếp nhược, tim đập rộn, mắt dán vào những con số huỳnh quang đang rọi soi vào anh từ mặt đồng hồ, một chiếc đồng hồ mà anh thù hận. Tiếng kêu chói lọi của nó ngay cả ở ngoài đường cũng còn nghe thấy được. Sáng nào anh cũng thót tim khi cái vật ấy bùng phát. Thi thoảng, chừng hai lần mỗi năm, anh cũng xô được Carla xuống sàn, và có thể cô sẽ tắt nó rồi leo vào giường trở lại. Nhưng, hầu hết trường hợp, cô không được dễ thương cho lắm. Cô nghĩ anh bị khùng nên mới dậy sớm như thế.
Chiếc đồng hồ nằm trên bậu cửa sổ nên Jake phải di chuyển một chút mới làm cho nó tắt tiếng. Một khi đã thức dậy, Jake không cho phép mình chui trở lại vào chăn. Đó là một trong những điều luật của anh. Từng có lúc chiếc đồng hồ báo thức được đặt trên bàn đầu giường và được giảm âm lượng. Carla có thể với tới và tắt nó trước khi Jake kịp nghe thấy gì. Thế là anh ngủ luôn cho đến bảy tám giờ và làm hỏng bét cả một ngày. Anh không được đến văn phòng vào lúc bảy giờ, một điều luật khác nữa. Chiếc đồng hồ do đó đã được đặt trong phòng tắm và làm đúng chức năng của nó.
Jake bước đến bồn rửa mặt, vốc nước lạnh lên mặt và tóc. Anh bật đèn và khiếp hãi trước hình ảnh của mình trong gương. Mái tóc nâu duỗi thẳng của anh đâm lởm chởm tứ tung, và đường chân tóc đã lui lại ít nhất năm centimet trong đêm. Hoặc là thế, hoặc là trán của anh đã nở ra. Mắt anh mờ và sưng, ghèn trắng tụ lại ở khóe. Đường viền của tấm chăn để lại một vệt đỏ dọc bên trái khuôn mặt. Anh sờ, rồi chà nó và tự hỏi không biết nó có chịu tan đi hay không. Bằng tay phải, anh vuốt tóc ra sau và xem xét đường chân tóc. Ở tuổi ba mươi hai, anh không có tóc bạc. Tóc bạc không phải là vấn đề. Vấn đề là triệu chứng hói, điều mà Jake thừa hưởng dồi dào từ cả hai phía bên nội ngoại. Anh ước có một đường chân tóc rậm và dày, cách chân mày khoảng chừng một inch. Anh vẫn còn nhiều tóc lắm, Carla bảo thế. Nhưng điều đó chẳng kéo dài được đâu, căn cứ theo tốc độ chúng biến mất. Cô cũng trấn an anh rằng dẫu thế nào anh vẫn cứ đẹp trai, và anh đã tin lời cô. Cô giải thích rằng đường chân tóc lùi lại sẽ khiến anh trông chững chạc hơn, và đó là điều thiết yếu đối với một luật sư trẻ. Anh cũng tin luôn cả điều đó.
Nhưng còn các luật sư già và hói thì sao nhỉ, thậm chí các luật sư chững chạc trung niên và bị hói? Cớ sao tóc không chịu mọc lại sau khi anh đã mọc những vết nhăn cùng những sợi mai bạc và trông đã chững chạc lắm rồi?
Jake nghĩ ngợi những điều này trong lúc tắm. Anh tắm nhanh, сạо mặt, rồi mặc nhanh quần áo. Anh phải đến tiệm cà phê vào lúc sáu giờ sáng—lại một điều luật nữa. Anh bật đèn, kéo rồi sập các ngăn bàn và cửa tủ trong nỗ lực đánh thức Carla dậy. Đó là một thông lệ vào mùa hè, khi cô được nghỉ dạy ở trường. Anh đã giải thích cho cô vô số lần rằng cô sẽ phải rượt đuổi suốt cả ngày sau mỗi lần ngủ quên, và hai vợ chồng cần chia sẻ những thời khắc sớm ở bên nhau. Cô rên rỉ sâu hơn vào chăn. Mặc đồ xong, Jake nhảy lên giường rồi hôn vào tai cô, hôn xuống cổ, hôn khắp khuôn mặt cho đến khi cô rốt cuộc cũng ngọ nguậy theo anh. Rồi anh giật chăn ra khỏi giường và bật cười khi thấy cô co rúm, run rẩy, van xin anh trả lại. Anh trao nó lại và chiêm ngưỡng đôi chân rám nắng, hầu như hoàn hảo của cô. Chiếc áo ngủ thùng thình không che đậy được gì bên dưới eo, và hàng trăm ý nghĩ dung tục nhảy múa trong đầu anh.
Mỗi tháng một lần, cái thông lệ ấy lại vuột khỏi tầm kiểm soát. Cô sẽ không chống cự, và chiếc chăn sẽ được tung ra bởi cả hai. Trong những sáng như thế, Jake cởi đồ ra thậm chí còn nhanh hơn và phá vỡ ít nhất ba điều luật của mình. Đó là cách mà Hanna đã được thụ thai.
Nhưng không phải là sáng hôm đó. Anh đắp chăn cho vợ, trìu mến hôn cô rồi tắt đèn. Cô thở nhẹ hơn rồi thiếp đi.
Trên đường xuống nhà, anh khẽ mở cửa phòng Hanna rồi quỳ xuống bên con gái. Nó mới lên bốn, là đứa con duy nhất, và sẽ không có thêm em. Nó nằm trên giường, xung quanh là những búp bê và thú nhồi bông. Anh hôn nhẹ lên má nó. Con bé đẹp giống mẹ, hai mẹ con giống y chang nhau cả bề ngoài lẫn điệu bộ. Cả hai đều có đôi mắt xanh xám có thể lập tức đổ lệ mỗi khi cần. Cả hai đều có mái tóc sậm cùng một kiểu—như do cùng một người cắt và được cắt cùng lúc. Cả hai thậm chí ăn mặc cũng giống nhau.
Jake yêu thương hai người phụ nữ của đời anh. Anh hôn tạm biệt người thứ hai rồi vào bếp pha cà phê cho Carla. Trên đường ra khỏi nhà, anh thả Max, con chó lai, vào sân sau, nơi nó liên tục xả nước và sủa con mèo của bà Pickle ở kế bên.
Rất ít người hoạt động vào sáng sớm như Jake Brigance. Anh nhanh nhẹn đi đến cuối đường xe chạy, lấy những tờ báo sáng cho Carla. Trời vẫn tối, không khí trong lành và mát mẻ, hứa hẹn một mùa hè đang nhanh chóng đến gần.
Anh đi dạo trong bóng tối từ đầu đường đến cuối đường Adams, rồi trở về ngắm nghía ngôi nhà của mình. Ở hạt Ford có hai ngôi nhà được chứng nhận là địa điểm lịch sử cấp quốc gia, và Jake Brigance đang sở hữu một trong hai ngôi nhà đó. Mặc dù nó bị thế chấp nặng nề, anh vẫn cứ tự hào về nó. Đó là một ngôi nhà mang phong cách Victoria thế kỷ thứ mười chín, được xây bởi một ông cụ làm việc trong ngành đường sắt đã nghỉ hưu. Ông này đã chết ngay vào đêm Giáng sinh đầu tiên của ông ta trong ngôi nhà mới. Mặt tiền nhà là một đầu hồi lớn được trụ ở giữa, với mái điểm phía bên trên một hàng hiên rộng. Dưới đầu hồi có một cửa mạn bọc gỗ diềm nằm thoai thoải trên hàng hiên. Năm chiếc cột trụ tròn, sơn trắng và lam đá phiến, mỗi cột được chạm khắc thủ công nhiều loại hoa khác nhau—thủy tiên, diên vĩ, hướng dương. Hàng rào giữa các cột được che chắn bởi những công trình đan tết. Trên gác có ba cửa sổ mở ra một ban công nhỏ, bên trái ban công có một cột tháp hình bát giác với cửa sổ kính màu nhô ra và dựng thẳng trên đầu hồi cho đến khi lên đến đỉnh của hình chạm bằng sắt ở đầu mái. Dưới tháp phía bên trái là một hàng hiên rộng và duyên dáng với hàng rào trang trí, nới rộng từ nhà ra và được dùng làm nơi để đậu xe. Các tấm pa-nô phía trước là một tác phẩm cắt dán gồm bánh gừng, đá cuội tuyết tùng, vỏ sò điệp, lưới vây cá, những cột chống tí tẹo, và những con suốt thu nhỏ.
Carla đã tìm được một nhà tư vấn về sơn ở New Orleans, và cô tiên này đã lựa ra sáu màu nguyên thủy—hầu hết có sắc xanh lam, xanh ngọc, hồng đào, và trắng. Việc sơn phết kéo dài đến hai tháng và làm cho Jake hao tổn đến năm ngàn đô la, đó là chưa kể vô số giờ đồng hồ mà anh và Carla đã dành ra để tha thẩn từ chỗ các bậc thang đến chỗ các nẹp trần hoa văn. Và mặc dù vẫn chưa ưng ý một số màu, anh không bao giờ dám gợi ý việc sơn lại.
Như mọi công trình thời Victoria, ngôi nhà trông vinh quang và độc đáo. Nó có cái duyên thầm, có sự khêu gợi, sự cuốn hút đến từ vẻ chân phương. Và nó có sự vui vẻ hầu như trẻ thơ. Carla đã muốn sở hữu nó từ trước cả khi họ lấy nhau. Đến khi người chủ sở hữu ở Memphis rốt cuộc qua đời và ngôi nhà được niêm phong, họ mới tậu được nó với giá rẻ như bèo vì chẳng ai muốn nó cả. Nó đã bị bỏ hoang trong suốt hai mươi năm. Họ vay nợ rất nhiều từ ba ngân hàng ở Clanton, rồi dành ba năm sau đó đổ mồ hôi hoàn thiện cột mốc son của họ. Nay nhiều người đi ngang qua đã dừng lại và chụp ảnh nó.
Ngân hàng địa phương thứ ba giữ thế chấp chiếc xe của Jake, chiếc Saab duy nhất ở hạt Ford, mà lại còn màu đỏ nữa chứ. Anh lau sương đọng trên kính chắn gió rồi mở cửa xe. Max vẫn đang sủa, đánh thức cả một đội quân chim giẻ ngụ trên cây phong bên nhà bà Pickle. Chúng líu lo với anh và nói lời tạm biệt khi anh cười và huýt sáo đáp trả. Anh trở lại đường Adams. Vượt qua hai dãy nhà phía đông, anh rẽ hướng nam đi ra đường Jefferson, từ đó qua hai dãy nhà nữa là đâm thẳng ra đường Washington. Jake thường thắc mắc vì sao mọi thị trấn nhỏ phương nam đều có đường mang tên Adams, Jefferson và Washington, nhưng chẳng có đường nào mang tên Lincoln hay Grant. Đường Washington chạy ra phía đông và tây ở mạn bắc của quảng trường Clanton.
Do Clanton là thủ phủ của hạt nên nó có một quảng trường, và một quảng trường thì hiển nhiên phải có một tòa án đặt ở trung tâm. Tướng Clanton đã bỏ nhiều tâm huyết khi sắp đặt thị trấn, vì vậy quảng trường này vừa dài vừa rộng, bãi cỏ quanh tòa được những cây sồi khổng lồ phủ bóng, tất cả các cây đều ngay hàng thẳng lối và cách quãng đều nhau. Tòa án hạt Ford đã bước sang thế kỷ tồn tại thứ hai. Được xây lên sau khi quân Yankee thiêu cháy tòa án đầu tiên, nó ngạo nghễ hướng mặt về phía nam, như thể để răn đe người miền Bắc, buộc họ phải lễ độ và vĩnh viễn hôn đằng sau nó. Tòa nhà ấy cổ kính và đường bệ, với hàng cột trắng chạy dọc mặt tiền và những cửa chớp đen quanh hàng tá cửa sổ. Gạch đỏ nguyên thủy từ lâu đã được sơn lại thành màu trắng, và cứ bốn năm một lần Boy Scout lại bổ sung một lớp men dày sáng loáng để chuẩn bị cho các hoạt động truyền thống vào mùa hè. Nhiều giao ước ban hành qua năm tháng đã cho phép việc bồi đắp và tu sửa. Bãi cỏ quanh tòa rất tươm tất và được cắt xén gọn gàng. Cứ hai tuần một lần, một đội từ nhà giam lại đến đó tỉa tót.
Clanton có ba quán cà phê—hai cho dân da trắng và một cho dân da đen, và cả ba đều nằm trên quảng trường. Việc dân da trắng ăn uống ở Claude’s—quán cà phê da đen ở phía tây—thì chẳng có gì là bất hợp pháp hay bất thường cả. Và dân da đen cũng được an toàn khi ăn uống ở Tea Shoppe ở phía nam hay Coffee Shop trên đường Washington. Nhưng họ không làm vậy vì được căn dặn rằng họ có thể sẽ bị rơi trở lại vào thập niên bảy mươi. Thứ Sáu nào Jake cũng ăn thịt nướng ở Claude’s giống như phần lớn người da trắng theo chủ nghĩa tự do ở Clanton. Nhưng sáu buổi sáng còn lại trong tuần thì anh thường ăn uống ở Coffee Shop.
Anh đậu chiếc Saab trước văn phòng của mình trên đường Washington, rồi đi qua ba cánh cửa để đến Coffee Shop. Quán đã mở cửa từ một giờ trước đó và lúc này đang hoạt động nhộn nhịp. Các cô hầu bàn chạy loanh quanh, phục vụ cà phê và điểm tâm, không ngớt trò chuyện với các anh nông dân, thợ máy và cảnh sát, vốn là những khách ruột. Không có quán cà phê nào dành cho giới văn phòng. Giới văn phòng tụ tập muộn hơn vào buổi sáng tại Tea Shoppe ở bên kia quảng trường, thảo luận về các chính sách quốc gia, tennis, golf và thị trường chứng khoán. Tại Coffee Shop, họ bàn luận về chính sách địa phương, bóng bầu dục, và câu cá vược. Jake là một trong số ít ỏi dân văn phòng được phép lai vãng ở Coffee Shop. Anh được giới văn phòng ưa thích và chấp nhận, hầu hết đều đã từng lúc này lúc khác đến văn phòng của anh để lập chúc thư, chứng thư, đơn ly hôn, đơn bào chữa, hay bất kể công chuyện gì trong hàng ngàn công chuyện khác nhau. Họ nhắm vào anh để kể những câu chuyện tiếu lâm móc mỉa về nghề luật sư, nhưng da mặt anh rất dày. Trong bữa điểm tâm, họ nhờ anh giải thích các điều luật của Tòa Thượng Thẩm và những điều bất cập của luật pháp và tại Coffee Shop, anh đã cho họ rất nhiều tư vấn pháp lý miễn phí. Họ biết ơn điều đó. Không phải lúc nào họ cũng đồng ý với anh, nhưng họ luôn nhận được câu trả lời trung thực. Đôi lúc họ tranh cãi, nhưng chưa bao giờ ác ý.
Anh bước vào quán lúc sáu giờ, và mất năm phút để chào hỏi, bắt tay, vỗ vai mọi người, nói những câu dí dỏm với các cô hầu bàn. Lúc anh ngồi vào bàn, cô gái mà anh ưa chuộng, Dell, đã chuẩn bị xong cho anh cà phê và bữa sáng thường lệ, gồm bánh mì nướng, rau câu và cháo ngô. Cô nựng anh, gọi anh là cục cưng, là người yêu, và nói chung là cứ rối rít quanh anh. Tuy dấm dẳng và hay cự cãi những người khác, nhưng cô lại có một lề thói khác đối với Jake.
Anh ăn cùng Tim Nunley, thợ máy của hãng Chevrolet, và hai anh em Bill và Bert West, cùng làm việc tại nhà máy giày ở phía bắc thị trấn. Anh rưới ba giọt sốt tiêu Tabasco lên cháo ngô rồi khuấy chúng đầy nghệ thuật cùng với một lát bơ. Anh trét một lớp rau câu dâu nhà làm lên bánh mì nướng. Khi đã chuẩn bị hoàn chỉnh hết các món, anh nếm cà phê rồi bắt đầu ăn. Họ lặng lẽ ăn và thảo luận về việc món cá thu bị cay như thế nào.
Trong khoang giáp cửa sổ, cách bàn của Jake vài bộ, ba viên cảnh sát đang trò chuyện với nhau. Viên cảnh sát to béo, Marshall Prather, quay sang Jake, lớn tiếng hỏi. “Jake này, có phải anh từng cãi cho Billy Ray Cobb cách đây vài năm không?”
Quán cà phê lập tức im bặt, mọi con mắt đều đổ dồn về vị luật sư. Không ngạc nhiên về câu hỏi mà về ngạc nhiên về phản ứng, Jake nuốt chỗ cháo rồi cố nhớ lại cái tên.
“Billy Ray Cobb ấy à,” anh cao giọng đáp lại. “Vụ gì thế nhỉ?”
“Ma túy,” Prather nói. “Hắn bị bắt quả tang bán ma túy cách đây bốn năm. Ngồi tù ở Pachman rồi được thả năm ngoái.”
Jake nhớ ra. “Không, tôi chưa cãi cho hắn. Tôi nhớ đó là một luật sư ở Memphis.”
Prather có vẻ hài lòng. Ông quay lại với món bánh kếp của mình.
Jake chờ đợi.
Cuối cùng, anh lên tiếng hỏi, “Sao vậy? Hắn lại làm gì nữa à?”
“Chúng tôi mới tóm hắn đêm qua vì tội hiếp dâm.
“Hiếp dâm!”
“Phải, hắn cùng với Pete Willard.”
“Chúng hiếp ai vậy?”
“Anh còn nhớ gã da đen Hailey mà anh bào chữa trong vụ án giết người cách đây vài năm không?”
“Lester Hailey. Dĩ nhiên tôi nhớ.”
“Anh biết Carl Lee, anh của Lester chứ?”
“Dĩ nhiên. Tôi biết rõ ông ta. Tôi biết mọi người nhà Hailey. Tôi đại diện cho hầu hết gia đình họ mà.”
“Vậy thì nạn nhân chính là cô bé con đấy.”
“Ông đùa à?”
“Không hề.”
“Con bé bao nhiêu tuổi?”
“Mười.”
Jake mất hết cả khẩu vị khi quán cà phê trở lại bình thường. Anh khuấy khuấy tách cà phê và lắng nghe cuộc trò chuyện chuyển từ câu cá sang xe hơi Nhật Bản rồi trở lại chuyện câu cá. Khi hai anh em nhà West đi khỏi, anh chuồn sang khoang có các viên cảnh sát.
“Con bé thế nào?” anh hỏi.
“Ai cơ?”
“Con bé gái nhà Hailey ấy mà.”
“Tệ lắm,” Prather nói. “Nó đang nằm viện.”
“Chuyện gì đã xảy ra?”
“Chúng tôi chưa biết hết. Con bé không nói được nhiều. Mẹ con bé sai nó ra tiệm tạp hóa. Họ ngụ trên đường Craft, phía sau tiệm tạp hóa Bates.”
“Tôi biết họ sống ở đâu.”
“Cách chi đó chúng lôi được con bé lên chiếc bán tải của thằng Cobb rồi đưa nó đến nơi nào đó ở trong rừng và cưỡng hiếp nó.”
“Cả hai tên?”
“Phải, và nhiều lần. Rồi chúng đấm đá con bé thậm tệ. Vài người họ hàng còn chẳng nhận ra được nó nữa. Nó bị đánh thảm lắm.”
Jake lắc đầu. “Bệnh thật!”
“Là cái chắc. Bệnh chưa từng thấy. Chúng định giết con bé. Bỏ cho nó chết.”
“Ai tìm ra con bé vậy?”
“Mấy cu cậu da đen nhà Buncha đang câu cá xuôi theo mạn Fogny Creek. Chúng thấy con bé bị bỏ lại giữa đường, tay bị trói quặt ra sau. Con bé còn nói được chút đỉnh—nó nói tên cha nó, và chúng đưa nó về.” -
“Làm sao các ông biết đó là Billy Ray Cobb?”
“Con bé nói với mẹ rằng đó là chiếc bán tải màu vàng có treo lá cờ Liên minh Miền Nam ở cửa sổ hậu. Ozzie chỉ cần biết có thế. Nó mới vừa nhập viện thì ông ta đã hình dung ra tất tật.”
Prather thận trọng không tiết lộ quá nhiều. Ông thích Jake, nhưng Jake là luật sư và đang nắm giữ nhiều vụ việc hình sự.
“Pete Willard là ai vậy?”
“Là thằng bạn nào đó của Cobb”
“Các anh tóm chúng ở đâu?”
“Ở Huey’s.”
“Cũng dễ đoán thôi.” Jake uống cà phê và nghĩ về Hanna. “Bệnh, bệnh, bệnh hết cỡ nói” Looney làu bàu.
“Carl Lee thế nào rồi?”
Prather chùi chỗ xi rô dính trên ria mép. “Cá nhân mà nói, tôi không quen biết ông ta, nhưng tôi chưa bao giờ nghe chuyện gì xấu về ông ta cả. Họ vẫn đang ở bệnh viện. Tôi nghĩ Ozzie đã ở cùng họ suốt đêm qua. Ông ta biết họ rất rõ, dĩ nhiên rồi, ông ta biết tất tật họ hàng nhà bên đó. Hastings cũng có họ với con bé đấy.”
“Khi nào thì phiên sơ bộ diễn ra?”
“Bullard xác định vào lúc một giờ chiều nay. Phải không vậy, Looney?”
Looney gật đầu.
“Có bảo lãnh gì không?”
“Chưa xác định. Bullard sẽ đợi phiên sơ thẩm. Nếu con bé chết, chúng sẽ bị xem xét tội danh giết người gia trọng, đúng không nhỉ?” Jake gật đầu.
“Chúng không thể được bảo lãnh nếu phạm tội giết người gia trọng, đúng không?” Looney hỏi.
“Chúng có thể đấy, nhưng tôi chưa bao giờ thấy ai như thế được bảo lãnh. Tôi biết Bullard sẽ không cho bảo lãnh đối với tội danh giết người gia trọng, mà nếu ông ta có muốn cho đi nữa thì cũng chẳng được.”
“Nếu con bé không chết thì chúng phải ngồi tù bao lâu?” Nesbit, viên cảnh sát thứ ba, hỏi.
Mọi người lắng nghe Jake giải thích. “Chúng đáng bị kết án chung thân vì tội cưỡng hiếp. Tôi cho rằng chúng còn bị kết tội bắt cóc và hành hung nghiêm trọng nữa kìa.”
“Chúng quả thật đã phạm các tội đó mà.”
“Vậy thì chúng đáng nhận thêm hai mươi năm vì tội bắt cóc và hai mươi năm vì tội hành hung nghiêm trọng.”
“Phải, nhưng chúng sẽ ngồi hết bao lâu?” Looney hỏi.
Jake suy nghĩ một lát. “Có thể hình dung chúng sẽ được phóng thích sau mười ba năm. Ngồi bảy năm vì tội cưỡng hiếp, ba năm vì tội bắt cóc, ba năm vì hành hung nghiêm trọng. Đó là giả sử chúng bị kết án tất cả các tội danh trên và bị xử tối đa.”
“Cobb thì sao? Hắn có tiền án mà.”
“Phải, nhưng hắn không tái phạm. Phải có hai tiền án thì mới ăn thua.”
“Mười ba năm,” Looney lắc đầu lặp lại.
Jake nhìn qua cửa sổ. Quảng trường đang sinh động lên với những chiếc bán tải đầy hoa quả đậu sát vỉa hè quanh thảm cỏ tòa án, nơi các ông bà cụ nông dân trong bộ áo liền quần bạc phếch đang sắp lại ngay ngắn những chiếc rổ nhỏ đựng cà chua, dưa leo và bí ở cửa sau và mui xe. Dưa hấu từ Florida được đặt cạnh những bánh xe bẩn thỉu, nhớp nhúa, rồi các bác nông dân rời đi để dự một cuộc họp sớm dưới đài tưởng niệm Việt Nam, nơi họ ngồi trên các băng ghế, nhai Red Man và gọt cắt trong khi tán gẫu với nhau những câu chuyện ngồi lê đôi mách. Có lẽ họ đang bàn tán về vụ cưỡng hiếp, Jake nghĩ. Lúc này trời đã sáng, và đã đến giờ tới văn phòng. Các viên cảnh sát đang ăn nốt, và Jake xin cáo lui. Anh ôm nhẹ Dell, thanh toán séc, và trong một phút đã nghĩ đến việc lái về nhà để kiểm tra Hanna.
Bảy giờ kém ba phút, anh mở khóa cửa văn phòng và bật đèn.
Carl Lee nằm trằn trọc trên chiếc trường kỷ trong phòng đợi. Tình trạng của Tonya tuy nghiêm trọng nhưng ổn định. Họ đã vào thăm bé lúc nửa đêm, sau khi bác sĩ cảnh báo rằng bé có vẻ không ổn lắm. Bé trông như vậy thật. Gwen hôn lên khuôn mặt nhỏ băng bó kín mít trong khi Carl Lee đứng ở cuối giường, cam chịu, bất động, không biết phải làm gì ngoài việc ngây nhìn cái thân hình bé bỏng bao bọc bởi các kiểu máy móc, ống truyền, và các cô y tá. Gwen sau đó được cho thuốc an thần rồi đưa về nhà mẹ của bà ở Clanton. Đám con trai thì về nhà người em của Gwen.
Đám đông giải tán vào lúc một giờ, để lại Carl Lee một mình trên chiếc trường kỷ. Ozzie mang cà phê và bánh rán đến vào lúc hai giờ. Ông kể cho Carl Lee tất cả những gì ông biết về Cobb và Willard.
Văn phòng của Jake là một tòa nhà hai tầng trong dãy nhà hai tầng nhìn ra tòa án ở phía bắc quảng trường, chỗ từ Coffee Shop đi xuống. Tòa nhà được gia đình Wilbanks xây từ hồi thập niên 1890, lúc mà họ còn sở hữu hạt Ford. Việc hành nghề luật của nhà Wilbanks đã tồn tại trong tòa nhà kể từ ngày nó được xây cho đến năm 1979, tức vào năm khai trừ.
Bên cạnh, về phía đông, là đại lý bảo hiểm mà Jake đã từng kiện về việc xuyên tạc một yêu sách của Tim Nunley, người thợ máy của hãng Chevrolet. Ở phía tây là ngân hàng nắm thế chấp chiếc Saab. Tất cả các tòa nhà quanh quảng trường đều có hai tầng, ngoại trừ các ngân hàng. Tòa nhà bên cạnh—cũng được xây bởi nhà Wilbanks—chỉ có hai tầng thôi, nhưng tòa nhà ở góc đông nam của quảng trường lại có ba tầng, và tòa nhà mới nhất ở góc tây nam thì có đến bốn tầng.
Jake hành nghề một mình từ năm 1979, tức vào năm khai trừ. Anh thích công việc đó, đặc biệt vì chẳng có luật sư nào khác ở Clanton có đủ năng lực để hành nghề cùng anh. Ở thị trấn có nhiều luật sư giỏi, nhưng phần lớn lại làm việc cho hãng Sullivan, ngụ ở cái tòa nhà ngân hàng bốn tầng lầu. Jake ghét hãng Sullivan này. Mọi luật sư đều ghét hãng Sulivan ngoại trừ các luật sư của hãng đó. Họ có tám người cả thảy, tám gã phô trương và ngạo mạn chưa từng thấy. Hai gã có bằng Harvard. Họ nắm các nhà nông lớn, các ngân hàng, các công ty bảo hiểm, các công ty đường sắt, tất cả những ai có tiền. Mười bốn luật sư khác trong hạt nhặt nhạnh những phần thừa thẹo và đại diện cho người dân—những sinh linh đang sống, đang thở, hầu hết chỉ có chút ít tiền. Họ là những “luật sư đường phố”—những kẻ vượt khó để giúp những người lâm nạn. Jake tự hào anh là một luật sư đường phố.
Văn phòng của anh rất rộng lớn. Anh chỉ sử dụng năm trong số mười căn phòng trong tòa nhà. Dưới nhà có một phòng tiếp tân, một phòng họp lớn, một nhà bếp, và một phòng kho nhỏ hơn. Trên gác, Jake có cái văn phòng rộng lớn của anh và một phòng khác nữa, nhỏ hơn, mà anh gọi là phòng tác chiến. Nó không có cửa sổ, điện thoại, những thứ làm phân tâm. Có ba phòng trống ở trên gác và hai phòng như thế ở dưới nhà. Suốt nhiều năm trong quá khứ, những căn phòng này được trấn giữ bởi hãng Wilbanks danh giá, mãi cho đến năm khai trừ. Văn phòng của Jake ở trên gác—Văn Phòng—rất đồ sộ: chín nhân chín mét, với trần gỗ cao ba mét, sàn gỗ cứng, lò sưởi khổng lồ, và ba chiếc bàn làm việc—bàn làm việc của anh, bàn họp nhỏ nằm ở một góc, và một chiếc bàn có bệ nằm ở một góc khác, dưới bức chân dung của William Faulkner. Những bàn ghế cổ bằng gỗ sồi đã nằm đó gần cả thế kỷ, cũng như các cuốn sách và giá sách phủ kín một bên bờ tường. Khung cảnh quảng trường và tòa án là rất ấn tượng, và nó có thể còn hoàn thiện hơn nữa nếu mở các cánh cửa kiểu Pháp và bước ra chiếc ban công nhỏ nhô ra vỉa hè, gần đường Washington. Không nghi ngờ gì nữa, Jake đang có một văn phòng đẹp nhất ở Clanton. Ngay cả những kẻ thù khốc liệt nhất của anh trong hãng Sullivan cũng chào thua chuyện này. Để có sự khang trang và cảnh quan quảng trường đó, Jake phải trả bốn trăm đô la mỗi tháng cho chủ nhà và cũng là chủ cũ của anh, Lucien Wilbanks, người đã bị khai trừ khỏi luật sư đoàn vào năm 1979.
Suốt nhiều thập niên, nhà Wilbanks đã thống trị hạt Ford. Họ là những người kiêu hãnh, giàu có, tài ba trong các lĩnh vực nông sản, ngân hàng, chính trị, và đặc biệt là luật pháp. Tất cả những người đàn ông nhà Wilbanks đều là luật sư, được giáo dục tại các trường Ivy League. Họ lập ra các ngân hàng, nhà thờ, trường học, và có nhiều người phục vụ trong lĩnh vực hành chánh công. Hãng Wilbanks & Wilbanks từng là một hãng hùng mạnh và danh giá bậc nhất ở bắc Mississippi trong suốt nhiều năm.
Rồi Lucien đã đến. Trong thế hệ của ông, ông là nam nhân duy nhất của nhà Wilbanks. Ông có hai người chị và vài cô cháu gái, nhưng họ chỉ mong lấy được chồng tốt. Lúc ông còn bé, mọi người đều kỳ vọng nơi ông những điều lớn lao, nhưng khi ông lên lớp ba thì ai cũng thấy rõ ông sẽ là một Wilbanks khác. Ông thừa hưởng hãng luật vào năm 1965 sau khi cha và chú của ông tử nạn trong một vụ rơi máy bay. Mặc dù đã bốn mươi tuổi, nhưng chỉ gần đây thôi tức nhiều tháng trước cái chết của họ—ông mới học xong môn luật qua các khóa hàm thụ. Cách chi đó, ông vượt qua được các kỳ thi lấy chứng chỉ. Ông nắm quyền kiểm soát hãng và thế là khách hàng bắt đầu bay biến. Các thân chủ lớn, như các công ty bảo hiểm, ngân hàng, và nông gia, tất cả đều rũ áo ra đi rồi tập kết tại hãng Sullivan mới thành lập. Sullivan từng là một nhân viên cấp thấp trong hãng Wilbanks cho đến khi bị Lucien sa thải. Sullivan ra đi, kéo theo nhiều nhân viên cấp thấp khác và phần lớn khách hàng. Rồi Lucien lại tiếp tục sa thải tất cả những người khác—các phụ tá, lục sự, văn thư—tất cả ngoại trừ Ethel Twitty, bà thư ký mà người cha quá cố của ông ưa chuộng nhất.
Ethel và John Wilbanks đã gần gũi nhau suốt nhiều năm. Thực tế là bà có một cậu con trai trông rất giống Lucien. Anh chàng tội nghiệp này dành phần lớn thời gian tới lui các bệnh viện tâm thần. Lucien thường bông đùa gọi anh ta là người em trai thiểu năng của ông. Sau vụ rơi máy bay, người em trai thiểu năng này chợt xuất hiện ở Clanton và bắt đầu nói với mọi người rằng anh ta là con trai ngoài giá thú của John Wilbanks. Ethel thấy tủi nhục, nhưng không thể kiểm soát được con mình. Clanton sục sôi trong tai tiếng. Một đơn kiện được hãng Sullivan tung ra với tư cách luật sư của người em thiểu năng nhằm tranh chấp một phần tài sản. Lucien tức điên. Một phiên sơ thẩm đã diễn ra tiếp theo đó, và Lucien đã quyết liệt bảo vệ thanh danh, sự kiêu hãnh và tên tuổi gia đình ông. Ông cũng quyết liệt bảo vệ tài sản của cha, toàn bộ đã được chia lại cho ông và các người chị. Tại tòa, bồi thẩm đoàn đã ghi nhận sự giống nhau đáng ngạc nhiên giữa Lucien và con trai bà Ethel, vốn trẻ hơn ông nhiều tuổi. Người em trai thiểu năng đã tuân thủ cái chiến lược cố ngồi thật gần Lucien. Các luật sư của Sullivan đã hướng dẫn anh ta cách đi lại, nói năng, ngồi và làm mọi thứ y hệt như Lucien. Họ thậm chí còn cho anh ta ăn mặc giống Lucien. Ethel và chồng của bà phủ nhận con trai họ có dính líu đến nhà Wilbanks, nhưng bồi thẩm đoàn không cảm thấy như vậy. Anh ta được phán xét là người thừa kế của John Wilbanks, và được hưởng một phần ba tài sản. Lucien chửi bới bồi thẩm đoàn, bợp tai anh chàng đáng thương kia, để rồi, trong cơn la hét, bị lôi ra khỏi phòng xử và đưa thẳng đến nhà giam. Quyết định của bồi thẩm đoàn đã bị đảo ngược và bãi bỏ trong phiên kháng cáo, nhưng Lucien vẫn sợ sẽ có thêm tranh chấp nếu Ethal thay đổi lời khai của bà. Vì thế mà Ethel Twitty đã ở lại với hãng Wilbanks.
Lucien hài lòng với việc hãng của ông bị tan rã. Ông chưa bao giờ có ý định hành nghề luật giống như cách các vị tổ tiên của ông. Ông muốn là một luật sư hình sự, trong khi khách hàng cũ của hãng rõ ràng đã trở thành giới công ty. Ông muốn có các vụ hiếp dâm, giết người, lạm dụng trẻ em, những vụ việc xấu xí mà chẳng ai khác muốn nhận. Ông muốn là một luật sư dân quyền, tranh tụng cho các quyền tự do dân sự. Nhưng trên tất cả, Lucien muốn là một luật sư cấp tiến, một luật sư cấp tiến chói sáng với những vụ án và lý tưởng không được ưa thích, và với rất nhiều sự chú ý nữa.
Ông bắt đầu để râu, ly dị vợ, bỏ đi lễ, bán cổ phần tại câu lạc bộ thể thao ngoài trời, gia nhập NAACP và ACLU, rút lui khỏi hội đồng quản trị ngân hàng, và nói chung đã trở thành một mối họa của Clanton. Ông kiện các trường học về việc tách ly, kiện thống đốc về tình trạng nhà tù, kiện thị trấn vì đã từ chối lát vỉa hè ở khu vực da đen, kiện ngân hàng vì không có thủ quỹ người da đen, kiện nhà nước về án tử hình, kiện các nhà máy vì không công nhận các tổ chức công đoàn. Ông đã chiến đấu và thắng nhiều vụ án hình sự, và các chiến thắng đó không chỉ diễn ra ở hạt Ford. Uy tín của ông lan rộng và một sự ủng hộ lớn đã phát triển trong số những người da đen, người da trắng nghèo, và vài tổ chức công đoàn ở bắc Mississipi. Ông lấn sang vài lĩnh vực béo bở như gây thương tích cá nhân và án tử hình bất công. Đã có những dàn xếp tốt đẹp. Hãng của ông, gồm ông và Ethel, đã sinh lãi hơn bao giờ hết. Lucien không cần tiền. Ông vốn đã sinh ra cùng tiền và chưa bao giờ nghĩ về nó. Việc đếm tiền là do Ethel làm.
Luật đã trở thành cuộc sống của ông. Do không có gia đình, ông trở thành một người nghiện công việc. Mười lăm giờ mỗi ngày, bảy ngày mỗi tuần, Lucien hành nghề với tất cả sự đam mê. Ông không có mối quan tâm nào khác ngoại trừ rượu. Cuối thập niên sáu mươi, ông thấy mình hợp khẩu vị với Jack Daniel’s. Sang đầu thập niên bảy mươi, ông là người mê rượu chè, và khi ông tuyển mộ Jake vào năm 1978 thì ông đã là con sâu rượu thứ thiệt. Nhưng ông chưa bao giờ để cho việc say xỉn ảnh hưởng đến công việc. Ông đã học được cách vừa uống vừa làm việc cùng một lúc. Lucien luôn nửa tỉnh nửa say, và trong tình trạng như thế, ông luôn là một luật sư nguy hiểm. Với tính cách quyết liệt và lỗ mãng, ông thực sự đáng sợ khi rượu vào. Tại tòa, ông làm cho các luật sư đối nghịch phải lúng túng, ông chửi mắng thẩm phán, sỉ nhục nhân chứng, rồi xin bồi thẩm đoàn cáo lỗi. Ông chẳng nể nang gì ai và chẳng ai dọa được ông. Người ta sợ ông vì ông có thể nói và làm bất cứ điều gì. Người ta đi nhón gót khi ở quanh ông. Ông biết điều đó và thích như thế. Ông trở nên ngày càng quái gở. Càng uống nhiều thì ông càng hành động điên rồ, vì vậy mọi người càng nói nhiều về ông, và ông càng uống nhiều hơn nữa.
Từ năm 1966 đến năm 1978, Lucien tuyển mộ rồi sa thải mười một trợ thủ. Ông thuê người da đen, người Do Thái, người nói tiếng Tây Ban Nha, phụ nữ, và không một người nào theo kịp những đòi hỏi của ông. Ông là một bạo chúa ở văn phòng, liên tục chửi bới, mắng mỏ các luật sư trẻ tuổi. Vài người bỏ đi chỉ sau tháng đầu. Một người bỏ đi sau hai năm. Khó mà chịu đựng nổi sự điên rồ của Lucien. Ông có tiền nên có quyền lập dị—còn các trợ thủ của ông thì không.
Ông tuyển mộ Jake vào năm 1978, khi anh vừa chân ướt chân ráo tốt nghiệp trường luật. Jake đến từ Karaway, một thị trấn nhỏ hai mươi lăm ngàn dân cách Clanton gần 30 cây số. Anh sáng dạ, thủ cựu, theo Giáo hội Trưởng lão, có một cô vợ đẹp thích sinh nhiều em bé. Lucien tuyển mộ anh để xem thử có thể làm tha hóa anh được không. Jake nhận việc và tỏ ra rất khiêm cung vì anh không có sự chào mời nào khác ở gần nhà.
Một năm sau, Lucien bị khai trừ khỏi luật sư đoàn. Đó là một bi kịch đối với những người ít ỏi mến mộ ông. Công đoàn nhỏ của nhà máy giày phía bắc thị trấn đã kêu gọi đình công. Đó là công đoàn mà Lucien đã tổ chức ra và đại diện. Nhà máy bắt đầu thuê nhân công mới để thay thế những người đình công, và bạo lực đã diễn ra. Lucien xuất hiện ở tuyến đầu để quy tụ người của ông. Ông say xỉn hơn thường lệ. Một nhóm phá đình công tìm cách vượt phòng tuyến và một vụ cãi cọ đã bùng phát. Lucien cầm đầu nên bị bắt bỏ tù. Ở tòa án thị trấn, ông bị kết tội hành hung và gây rối. Ông kháng cáo và bị thua, kháng cáo và lại bị thua tiếp.
Luật sư đoàn Hoa Kỳ đã ngán ngẩm Lucien suốt từ nhiều năm qua. Không có luật sư nào ở Hoa Kỳ nhận nhiều kiện cáo như Lucian Wilbanks. Khiển trách riêng, khiển trách công cộng, treo giò, tất cả đều đã được vận dụng mà chẳng được tích sự gì. Ủy ban Khiếu kiện và Kỷ luật Tòa án đã nhanh nhẹn vào cuộc. Ông bị khai trừ khỏi luật sư đoàn vì hành vi lăng mạ. Ông kháng cáo và thua, kháng cáo và lại thua tiếp.
Thế là ông điêu đứng. Vào lúc Jake đang ở văn phòng của Lucien, tức căn phòng lớn trên gác, thì có tin từ Jackson rằng Tòa Tối cao đã tán thành việc tước quyền. Lucien gác điện thoại, bước đến các cánh cửa trông ra quảng trường. Jake quan sát ông sít sao, chờ đợi một tràng chửi bới. Nhưng Lucien không nói năng gì cả. Ông chầm chậm xuống thang, dừng lại nhìn Ethel, lúc đó đang khóc, rồi ông nhìn Jake. Ông mở cửa và nói, “Hãy chăm nom nơi này nhé. Hẹn gặp lại anh sau.”
Họ chạy ra cửa sổ, nhìn ông phóng đi từ quảng trường trên chiếc Porsche cũ tả tơi của ông. Suốt nhiều tháng, anh không có tin tức gì về ông. Jake vẫn cày bừa các vụ án của Lucien, còn Ethel thì cố giữ cho văn phòng không hỗn loạn. Một số vụ án đã được giải quyết, số được chuyển giao cho các luật sư khác, một số được đưa ra xử.
Sáu tháng sau, khi Jake trở về văn phòng sau một ngày dài ở tòa án, anh thấy Lucien đang nằm ngủ trên tấm thảm Ba Tư tại văn phòng lớn. “Lucien! Ông ổn chứ?” anh hỏi.
Lucien bật dậy, đến ngồi trên chiếc ghế da lớn phía sau bàn làm việc. Trông ông tỉnh táo, rám nắng, thư thái.
“Jake, anh bạn của tôi, anh thế nào rồi?” ông nồng nhiệt hỏi.
“Ổn, tôi ổn. Ông đi đâu biệt tăm vậy?”
“Quần đảo Caymann.”
“Ông làm gì ở đó?”
“Nốc rượu rum, nằm ườn ngoài bãi biển, săn mấy em gái nhỏ bản địa.”
“Nghe thú vị đấy nhỉ. Thế sao ông lại bỏ về?”
“Tôi thấy chán.”
Jake đi bọc qua bàn. “Lucien, gặp lại ông thật dễ chịu.”
“Gặp lại anh cũng dễ chịu, Jake ạ. Công việc nơi đây thế nào rồi?”
“Dồn dập. Nhưng cũng ổn, tôi nghĩ vậy.”
“Anh giải quyết vụ Medley chưa?”
“Rồi. Họ trả tám ngàn.”
“Rất tốt. Ông ta có vui không?”
“Vui chứ, có vẻ thế.”
“Cruger có ra tòa không?”
Jake nhìn xuống sàn nhà. “Không, ông ta thuê Fredrix. Tôi nghĩ phiên tòa sẽ được thiết lập vào tháng tới.”
“Lẽ ra tôi phải nói chuyện với ông ta trước khi đi.”
“Ông ta có tội đúng không?”
“Phải. Rất có tội. Ai đại diện cho anh ta thì cũng đến nước đó thôi. Hầu hết các bị cáo đều có tội. Hãy nhớ lấy điều này” Lucien bước đến cánh cửa kiểu Pháp, chằm chặp nhìn tòa án. “Kế hoạch của anh là gì vậy, Jake?”
“Tôi mong được ở lại đây. Còn kế hoạch của ông là gì?”
“Anh là người tốt, Jake ạ. Tôi muốn anh ở lại. Phần tôi thì tôi chưa biết. Tôi đã nghĩ đến việc di chuyển sang Caribean, nhưng tôi sẽ không đến đó đâu. Đó là một nơi đẹp để viếng thăm, nhưng nó xưa lắm rồi. Tôi thực sự chẳng có kế hoạch gì cả. Có lẽ tôi sẽ đi du lịch, tiêu cho bớt tiền đi. Tôi giàu lắm đấy, anh biết mà.”
Jake đồng ý. Lucien quay lại, khoát tay quanh căn phòng. “Tôi muốn anh có tất cả những thứ này, Jake ạ. Tôi muốn anh ở đây và ít nhiều làm ra vẻ như hãng vẫn đang hoạt động. Hãy dọn đến văn phòng này, sử dụng chiếc bàn mà ông nội tôi đưa từ Virginia đến sau nội chiến. Hãy giữ các hồ sơ, vụ việc, khách hàng, sách vở, tất tật mọi thứ.”
“Ông hào phóng quá, Lucien.”
“Hầu hết khách hàng sẽ biến mất. Không chỉ trích gì anh đâu đấy nhé—ngày nào đó anh sẽ là một luật sư tuyệt vời. Nhưng hầu hết khách hàng của tôi đã theo tôi suốt nhiều năm qua.”
Jake chẳng muốn sở hữu hầu hết khách hàng của ông. “Tiền thuê thì thế nào?”
“Anh trả được bao nhiêu thì trả. Lúc đầu tiền bạc sẽ eo hẹp đấy, nhưng anh sẽ kiếm được thôi. Tôi không cần tiền, còn anh thì có đấy.”
“Ông thật là tốt bụng.”
“Tôi tốt bụng thật mà."
Cả hai lúng túng cười. Jake ngưng cười.
“Còn Ethel thì sao?”
“Tùy theo anh thôi. Bà ấy là một thư ký giỏi. Anh không biết người nào quên nhiều luật lệ như bà ấy đâu. Tôi biết anh không ưa bà ấy, nhưng bà ấy khó thay thế lắm đấy. Cứ sa thải bà ấy nếu anh muốn. Tôi chẳng quan tâm.”
Lucien bước ra cửa. “Cần thì gọi tôi nhé. Tôi sẽ ở quanh đây. Tôi muốn anh dọn vào văn phòng này. Nó từng là của cha tôi và ông nội tôi. Hãy bỏ mấy thứ linh tinh của tôi vào vài chiếc hộp, tôi sẽ đến lấy sau.”
Cobb và Willard thức dậy với cái đầu đau nhói và đôi mắt sưng đỏ. Ozzie đang quát tháo chúng. Chúng bị nhốt riêng trong một phòng giam nhỏ. Sau các chấn song bên phải là phòng giam nơi các tù nhân của bang đang chờ chuyến đến Pachman. Một tá gã da đen cố thò đầu qua chấn song, chật vật dụi mắt khi ngó thấy hai gã tù da trắng. Bên trái là một phòng giam nhỏ hơn, cũng đầy ắp dân da đen. Ozzie quát gọi chúng thức dậy và bảo chúng giữ yên lặng, nếu không ông sẽ cho nhập phòng.
Thời gian yên lành của Jake là từ bảy giờ cho đến khi Ethel đến vào lúc tám giờ ba mươi. Anh luôn bo bo giữ cho riêng mình khoản thời gian đó. Anh khóa cửa trước, phớt lờ điện thoại, từ chối các cuộc hẹn. Anh lập kế hoạch chi li trong ngày. Đến tám giờ ba mươi anh sẽ có đủ việc để giao phó cho Ethel, giữ cho bà ấy bận rộn và im ắng cho đến trưa. Khoảng chín giờ anh sẽ lên tòa hay gặp gỡ các thân chủ. Anh sẽ không nhận điện thoại trước mười một giờ, lúc anh phải trả lời các tin nhắn buổi sáng một cách có hệ thống—toàn bộ chúng. Anh chưa bao giờ trì hoàn trả lời bất cứ cú điện thoại nào—một điều luật khác. Jake làm việc quy củ và hiệu quả, với rất ít thời gian bị lãng phí. Những thói quen này anh không hề học hỏi từ Lucien.
Vào lúc tám giờ ba mươi, Ethel khai trương cuộc xuất hiện ồn ào của bà ở nhà dưới. Bà pha tách cà phê mới rồi mở thư như vẫn làm hàng ngày suốt bốn mươi mốt năm qua. Năm nay bà đã sáu mươi bốn tuổi mà trông như chỉ mới năm mươi. Bà tuy đẫy đà nhưng không mập, giữ eo tốt nhưng không mấy cuốn hút. Ngấu nghiến xong cây xúc xích béo ngậy và chỗ bánh quy mang từ nhà đến, bà bắt đầu đọc các thư từ của Jake.
Jake nghe thấy giọng bà. Ethel đang nói chuyện với một người phụ nữ. Anh kiểm tra cuốn sổ ghi lịch hẹn—không có ai trước mười giờ cả.
“Chào ông Brigance,” Ethel nói qua nội đàm.
“Chào bà Ethel.” Bà thích được gọi là “bà Twitty” hơn. Lucien và mọi người luôn gọi bà như thế. Nhưng Jake thì vẫn gọi bà là Ethel kể từ khi anh sa thải bà trong một quãng thời gian ngắn sau vụ khai trừ.
“Có bà đây muốn gặp ông.”
“Bà ta chưa được hẹn.”
“Vâng, thưa ông, tôi biết.”
“Hẹn bà ta sáng mai vào lúc mười giờ ba mươi đi. Hiện thời tôi đang bận.””
“Vâng, thưa ông. Nhưng bà ta nói đây là chuyện khẩn cấp.”
“Ai thế?” anh gắt lên. Luôn luôn là khẩn cấp khi họ xông vào mà không hề báo trước, cứ như xông vào nhà tang lễ hay tiệm giặt ủi vậy. Co lẽ đó chỉ là vài câu hỏi khẩn cấp về di chúc của bác Luke hay một vụ án sẽ xét xử trong ba tháng tới.
“Một bà tên là Willard,” Ethel đáp.
“Tên thánh là gì?”
“Earnestine Willard. Ông không biết bà ta đâu, nhưng con trai bà ta đang ngồi tù.”
Jake thấy anh vẫn còn thu xếp được cuộc hẹn, nhưng tự tung tự tác xông vào lại là một chuyện khác. Ethel hoặc sẽ phải đẩy bà ta đi, hoặc phải xếp lịch hẹn cho hôm sau hay một ngày nào đó. Ông Brigance đang rất bận, bà sẽ phải giải thích như vậy, nhưng ông ta có thể làm việc với bà vào ngày mốt. Nói như vậy sẽ tạo được ấn tượng.
“Nói với bà ta rằng tôi không quan tâm.”
“Nhưng bà ta nói bà ta phải tìm bằng được một luật sư. Con trai của bà ta phải ra tòa vào lúc một giờ chiều nay.”
“Bảo bà ta gặp Drew Jack Tyndale, luật sư bào chữa công ấy. Ông ấy giỏi mà lại cãi miễn phí.”
Ethel chuyển lời nhắn. “Nhưng, thưa ông Brigance, bà ta muốn thuê ông cãi. Có ai đó nói với bà ta rằng ông là luật sư hình sự giỏi nhất hạt.” Sự giễu cợt lộ rõ trong giọng nói của Ethel.
“Bảo bà ta rằng quả thật là như thế, nhưng tôi không quan tâm.”
Ozzie còng tay Willard, dẫn hắn ra hành lang đi đến văn phòng của ông ở mặt tiền của nhà giam hạt Ford. Ông tháo còng rồi bảo hắn ngồi lên chiếc ghế gỗ ở tâm căn phòng hẹp. Ozzie thì ngồi trên chiếc ghế lớn bên kia bàn, nhìn xuống bị cáo.
“Anh Willard, đây là trung úy Griffin của Đội Tuần tra Cao tốc Mississippi. Đây là thanh tra Rady thuộc văn phòng của tôi, còn đây là cảnh sát Looney và cảnh sát Prather mà anh đã gặp đêm qua, chẳng hay anh còn nhớ không. Tôi là cảnh sát trưởng Walls.”
Willard sợ hãi gật gù, nhìn từng người. Hắn đã bị bao vây. Cánh cửa đã đóng. Hai chiếc máy ghi âm nằm cạnh nhau ở mép bàn của cảnh sát trưởng
“Chúng tôi muốn hỏi anh vài câu được chứ?”
“Tôi không biết.”
“Trước khi bắt đầu, tôi muốn đảm bảo anh hiểu các quyền của anh. Trước hết, anh có quyền giữ im lặng. Hiểu chưa?”
“Ờờờờ.”
“Anh không phải nói điều gì mà anh không muốn nói, nhưng nếu anh nói thì mọi điều anh nói có thể sẽ được sử dụng để chống lại anh tại tòa. Hiểu chưa?”
“Ờờờờ.”
“Anh biết đọc, biết viết chứ?”
“Biết.”
“Tốt, vậy hãy đọc tờ này rồi ký tên vào. Nó nói rằng anh đã được tư vấn về các quyền của anh.”
Willard ký tên. Ozzie bấm chiếc nút đỏ trên một trong các máy ghi âm.
“Ông biết máy ghi âm đã được bật rồi chứ?”
“Ờờờờ.”
“Và hôm nay là thứ hai ngày 15 tháng Năm, lúc tám giờ bốn mươi ba phút sáng.”
“Ông nói thế thì tôi biết thế.”
“Tên họ đầy đủ của ông là gì?”
“James Louis Willard.”
“Biệt danh?”
“Pete. Pete Willard.”
“Địa chỉ?”
“Lộ 6, lô 14. Hồ Village, Mississippi.”
“Đường nào?”
“Đường Bethel.”
“Ông sống với ai?”
“Với mẹ tôi. Earnestine Willard. Tôi đã ly hôn.”
“Ông biết Billy Ray Cobb chứ?”
Willard lưỡng lự nhìn xuống chân. Giày của hắn ở trong buồng giam. Đôi vớ trắng trông bẩn thỉu và không che giấu được những ngón chân to dùng. Câu hỏi này an toàn, hắn nghĩ.
“Phải. Tôi biết nó.”
“Hôm qua ông đi với hắn phải không?”
“Ờờờờ.”
“Hai người ở đâu?”
“Ra miệt hồ.”
“Các người đi vào lúc mấy giờ?”
“Khoảng ba giờ.”
“Các người lái xe gì?”
“Tôi không lái.”
“Các người ngồi xe gì?”
Ngập ngừng. Hắn chăm chú nhìn các ngón chân. “Tôi không muốn nói nữa.”
Ozzie nhấn một nút khác và máy ghi âm dừng lại.
Ông hít một hơi sâu, nhìn Willard. “Anh đã từng đến Pachman chưa?”
Willard lắc đầu.
“Anh biết có bao nhiêu người da đen ở Pachman không?” Willard lắc đầu.
“Chừng năm ngàn. Anh biết có bao nhiêu thanh niên da trắng ở đó không?”.
“Không.”
“Chừng một ngàn.”
Willard vục cằm xuống ngực. Ozzie để hắn nghĩ một phút rồi nháy mắt với trung úy Griffin. “Anh có hình dung được những người da đen này sẽ làm gì với một gã da trắng cưỡng hiếp một cô bé da đen không?”
Không trả lời.
“Trung úy Griffin, hãy cho ông Willard đây biết các thanh niên da trắng bị xử như thế nào ở Pachman."
Griffin bước đến bàn của Ozzie rồi ngồi lên mép. Ông nhìn xuống Willard.
“Khoảng năm năm về trước có một gã da trắng ở vùng đồng bằng hạt Helena đã cưỡng hiếp một cô bé da đen. Cô bé này mười hai tuổi. Họ biết hắn đang được chuyển đến Pachman nên đón lõng hắn ở đó. Đêm đầu tiên, chừng ba mươi người da đen đã trói hắn vào một chiếc trống hơn 200 lít rồi leo lên đó. Các cai ngục chỉ đứng nhìn và cười. Chẳng ai ưa mấy đứa hiếp dâm cả. Họ hành hắn hàng đêm trong suốt ba tháng trời, rồi khử hắn luôn. Người ta phát hiện hắn bị thiến, bị nhồi vào trong trống.”
Willard co rúm lại rồi ngửa đầu ra sau, nhìn trần nhà thở dốc.
“Coi nào, Pete,” Ozzie nói, “chúng tôi không truy anh. Chúng tôi muốn gã Cobb. Tôi đã để mắt đến hắn kể từ hồi hắn rời khỏi Pachman. Tôi rất muốn tóm hắn. Anh giúp chúng tôi tóm Cobb, chúng tôi sẽ giúp anh tối đa. Tôi không hứa hẹn gì cả, nhưng tôi và bên D.A. có quan hệ mật thiết với nhau. Anh giúp tôi tóm Cobb, tôi sẽ giúp anh đối phó bên D.A. Chỉ cần cho chúng tôi biết chuyện gì đã xảy ra.”
“Tôi muốn có luật sư,” Willard nói.
Ozzie gục đầu xuống, rên rỉ. “Luật sư thì làm được cái quái gì, hả Pete? Có cứu anh khỏi đám da đen được không? Tôi đang tìm cách giúp anh mà anh cứ ngoan cố.”
“Cậu phải nghe lời cảnh sát trưởng, con trai ạ. Ông ấy đang cố cứu mạng cậu đấy,” Griffin phụ họa.
“Nếu may mắn thì cậu sẽ chỉ phải ngồi vài năm trong nhà giam tại đây,” Rady nói.
“An toàn hơn nhiều so với ở Pachman,” Prather nói.
“Tùy anh lựa chọn thôi, Pete,” Ozzie nói. “Anh có thể chết ở Pachman hay ở lại đây. Tôi thậm chí sẽ cân nhắc cho anh làm tù nhân tin cậy nếu anh cư xử tốt.”
Willard gục đầu xuống, chà xát hai thái dương.
“Được rồi, được rồi.” Ozzy bấm chiếc nút đỏ.
“Các người phát hiện con bé ở đâu?”
“Trên con đường sỏi nào đó.”
“Đường nào?”
“Tôi không biết, tôi đã uống xỉn rồi.”
“Các người tóm con bé ở đâu?”
“Tôi không biết.”
“Chỉ có ông và Cobb thôi hả?”
“Vâng.”
“Ai hãm hiếp nó?”
“Cả hai chúng tôi. Billy Ray đầu tiên.”
“Bao nhiêu lần?”
“Tôi không nhớ. Tôi đã hút cỏ và uống bia.”
“Cả hai người đã hãm hiếp nó?”
“Vâng.”
“Các người vứt nó ở đâu?”
“Không nhớ. Tôi thề là tôi không nhớ mà.” Ozzie nhấn vào chiếc nút khác. “Chúng tôi sẽ gõ những lời này ra để anh ký tên vào.”
Willard lắc đầu. “Xin đừng nói cho Billy Ray biết.”
“Chúng tôi không nói đâu,” ông cảnh sát trưởng hứa.
⚝ ✽ ⚝
[✽] Quân miền Bắc trong cuộc nội chiến ở Hoa Kỳ
⚝ ✽ ⚝
[✽] Tổ chức Hướng đạo sinh Nam
⚝ ✽ ⚝
[✽] Khai trừ khỏi luật sư đoàn, đồng nghĩa với việc bị tước quyền hành nghề.
⚝ ✽ ⚝
[✽] Câu lạc bộ quốc gia vì sự thăng tiến của người da màu (National Association for the Advancement of Colored people).
⚝ ✽ ⚝
[✽] Liên đoàn tự do dân sự Mỹ (American Civil Liberties Union).
⚝ ✽ ⚝
[✽] Ngụ ý việc tách học sinh da đen khỏi học sinh da trắng.
⚝ ✽ ⚝
[✽] District Attorney, công tố hạt.