← Quay lại trang sách

Chương 11

Claude chưa bao giờ cần đến thực đơn trong quán cà phê của ông. Nhiều năm trước, hồi mới mở quán, ông không đủ tiền để in thực đơn, và nay khi đã đủ tiền rồi thì ông lại không cần thực đơn nữa vì hầu hết mọi người đều biết ông phục vụ món gì. Điểm tâm thì ông nấu nướng mọi thứ trừ cơm và bánh mì rán, giá cả thì tùy theo món. Bữa trưa thứ Sáu thì ông nướng thịt vai và sườn heo lọc, và ai cũng biết điều đó cả. Trong tuần, ông có một ít khách hàng da trắng, nhưng đến trưa thứ Sáu, mọi trưa thứ Sáu, quán cà phê nhỏ của ông có đến một nửa số khách là người da trắng. Claude từ lâu đã biết dân da trắng cũng thích thịt nướng chẳng kém gì dân da đen, chỉ là họ không biết cách nấu mà thôi.

Jake và Atcavage tìm một chiếc bàn nhỏ ở gần bếp. Đích thân Claude mang đến hai đĩa thịt sườn và rau cải trộn. Ông khom xuống, thì thầm vào tai Jake, “Chúc anh may mắn. Mong anh giải thoát được ông ấy.”

“Cảm ơn, Claude. Tôi thì mong có ông trong bồi thẩm đoàn.” Claude bật cười, nói lớn hơn, “Tôi tình nguyện thì có được không?”

Jake tấn công món sườn và càu nhàu với Atcavage về chuyện không cho vay. Ông chủ nhà băng vẫn không suy suyển, nhưng đã đề nghị cho vay năm ngàn nếu Jake chịu ký tên cùng. Như vậy là trái đạo lý, Jake giải thích.

Trên vỉa hè, một dòng người xếp hàng đã hình thành, những khuôn mặt đang nhìn soi qua những dòng chữ sơn trên chiếc cửa sổ trước quán. Claude có mặt khắp nơi, nhận đặt món, nấu nướng, tính tiền, la hét, văng tục, đón khách, và yêu cầu khách nhường chỗ. Vào thứ Sáu, khách hàng được cho hai mươi phút sau khi thức ăn được phục vụ, sau đó Claude sẽ yêu cầu (và đôi khi đòi hỏi) họ trả tiền và ra về để ông bán được nhiều thịt nướng hơn nữa.

“Đừng nói nữa, lo ăn đi!” ông sẽ hét lên như thế.

“Để tôi ngồi thêm mười phút nữa, Claude.”

“Anh có bảy phút thôi đấy.”

Vào thứ Tư, ông chiên cá da trơn, và cho phép khách ngồi ba mươi phút vì còn phải gỡ xương. Dân da trắng tránh quán của Claude vào thứ Tư, và ông biết vì sao. Đó là do mỡ, một công thức mỡ bí mật mà ông được bà nội truyền lại, ông nói vậy. Nó nặng, dính, và quậy phá tưng bừng ruột dưới của dân da trắng. Nó không làm phiền dân da đen, vốn thường ngồi chật xe kéo đến mỗi thứ Tư.

Hai người lạ ngồi xuống gần quầy tính tiền, sợ sệt nhìn Claude điều hành bữa trưa. Có lẽ là phóng viên, Jake nghĩ. Mỗi lần Claude lượn tới nhìn, họ ngoan ngoãn nhặt một khúc thịt sườn lên gặm. Họ chưa từng nếm món thịt sườn này, và tất cả mọi người đều thấy rõ họ đến từ miền bắc. Họ đã đặt món chef salad, nhưng lại bị Claude chửi mắng, bảo họ hoặc là ăn thịt nướng, hoặc là đi chỗ khác chơi. Rồi ông lại tố giác với đám đông về những gã ngốc muốn ăn món chef salad.

“Đồ ăn của các ông đây. Ăn mau lên nhé,” ông yêu cầu khi mang thức ăn đến cho họ.

“Không có dao cắt thịt hả?” một người hỏi ngay.

Claude nhíu mắt rồi loạng choạng bỏ đi, vừa đi vừa làu bàu.

Một người nhận ra Jake. Sau khi nhìn anh vài phút, ông này cuối cùng đã bước đến, khom xuống bên bàn. “Có phải ông là Jake Brigance, luật sư của ông Hailey?”

“Là tôi đây. Ông là ai vậy?”

“Tôi là Roger McKittrick, của tờ The New York Times.”

“Hân hạnh được biết ông,” Jake nói với một nụ cười và một thần thái cởi mở.

“Tôi đang đưa tin về vụ Hailey, và tôi rất mong được trò chuyện với ông vào một lúc nào đó. Thật ra thì càng sớm càng tốt.”

“Dĩ nhiên. Chiều nay tôi không quá bận, thứ Sáu mà.”

“Tôi gặp ông muộn một chút cũng được.”

“Bốn giờ nhé?”

“Tốt,” McKittrick nói khi để ý thấy Claude tiến đến từ nhà bếp. “Hẹn gặp ông khi đó!”

“Nào, các ông bạn,” Claude quát McKittrick. “Đến giờ đứng dậy rồi. Thanh toán rồi đi thôi.”

Jake và Atcavage ăn xong trong mười lăm phút rồi ngồi chờ cuộc tấn công bằng võ miệng của Claude. Họ mút ngón tay, lau mặt rồi bình phẩm về độ mềm của món thịt sườn.

“Vụ này sẽ làm cho anh trở thành nổi tiếng, đúng không?” Atcavage hỏi.

“Hy vọng là vậy. Hiển nhiên tôi chẳng kiếm được đồng nào từ nó.”

“Hỏi nghiêm túc đấy, Jake, nó có giúp cho việc hành nghề của anh không?”

“Nếu tôi thắng thì tôi sẽ nhận được nhiều thân chủ hơn cả mức có thể nhận. Chắc chắn nó sẽ giúp. Tôi có thể lựa chọn các vụ án, có thể chọn thân chủ.”

“Cuối cùng thì điều đó có nghĩa gì?”

“Tôi không biết. Chẳng có cách nào để đoán trước nó sẽ lôi được về những ai và những gì. Nhưng tôi sẽ có nhiều vụ để lựa chọn hơn, và điều đó có nghĩa là nhiều tiền hơn. Tôi có thể thôi lo lắng về tổng chi phí.”

“Chắc chắn anh không phải lo lắng về tổng chi phí rồi.”

“Coi nào, Stan, đâu phải tất cả chúng ta đều giàu sụ. Tấm bằng luật sư nay không còn giá trị như trước nữa rồi. Có quá nhiều luật sư. Tình trạng này còn tệ hơn nữa ở các thị trấn nhỏ. Cạnh tranh khốc liệt lắm, ngay cả ở Clanton này. Những vụ ngon ăn thì không đủ, mà luật sư thì lại quá đông. Nó tệ hơn cả ở các thị trấn lớn, và sinh viên tốt nghiệp ngành luật cứ ngày một đông đảo hơn lên, nhiều người không tìm được việc làm. Mỗi năm tôi có mười tên nhóc gõ cửa xin việc. Một hãng lớn ở Memphis đã sa thải vài luật sư cách đây mấy tháng. Anh hình dung nổi không? Y hệt như ở nhà máy vậy, họ bị sa thải như thế đó. Tôi nghĩ họ phải đến sở giải quyết việc làm, đứng xếp hàng cùng những người lái xe ủi mất thôi. Nay đến phiên luật sư chứ chẳng phải là thư ký hay tài xế xe tải nữa rồi, luật sư đấy nhé!”

“Tôi rất tiếc.”

“Chắc chắn tôi phải quan tâm đến tổng chi phí. Nó ngốn của tôi đến bốn ngàn đô la mỗi tháng, và đấy là tôi hành nghề có một mình thôi nhé. Con số đó có nghĩa là năm mươi ngàn đô la mỗi năm trước khi tôi dôi ra được đồng nào. Có tháng cao, có tháng thấp. Tất cả đều không thể dự đoán trước. Tôi chẳng dám ước tính mình kiếm được bao nhiêu trong tháng tới nữa. Đó là vì sao vụ án này lại quan trọng đến thế. Sẽ chẳng bao giờ tôi có lại một vụ án giống vậy. Nó là lớn nhất. Tôi sẽ hành nghề suốt phần đời còn lại mà không bao giờ được một phóng viên của The New York Times chặn tôi ở quán cà phê để xin được phỏng vấn. Nếu tôi thắng, tôi sẽ là nhân vật hàng đầu ở khu vực này của tiểu bang. Tôi có thể quên béng cái tổng chi phí đó đi.”

“Còn nếu như anh thua?”

Jake ngừng một lúc, nhìn quanh quất tìm Claude. “Danh tiếng vẫn đủ dồi dào, bất kể kết quả có như thế nào. Thắng hay thua thì vụ này cũng sẽ giúp được tôi hành nghề. Nhưng thua thì đau lắm. Mọi luật sư ở hạt này đều thầm mong tôi bị hỏng ăn. Họ muốn ông ta bị kết án. Họ ganh tỵ, họ sợ tôi trở nên quá lớn và lấy đi các thân chủ của họ. Các luật sư luôn cực kỳ đố kỵ nhau.”

“Cả anh cũng vậy à?”

“Tất nhiên rồi. Cứ lấy hãng Sullivan mà xem. Tôi khinh ghét từng luật sư của hãng đó, nhưng ở chừng mực nào đó tôi cũng ganh tỵ với họ nữa. Tôi ước có được vài thân chủ của họ, có được vài khoản thanh toán trước của họ, sự an toàn mà họ có. Họ biết trước mỗi tháng mình sẽ nhận một chi phiếu ngon lành. Đó hầu như là sự đảm bảo, và đến mỗi Giáng sinh họ lại nhận thêm một khoản thưởng lớn. Họ là hiện thân của tiền bạc theo lối cũ, tiền bạc đều đặn. Điều đó sẽ tạo ra sự khác biệt. Tôi thì đại diện cho những gã say rượu, những tên côn đồ, những gã đánh vợ, những mụ đánh chồng, những kẻ bị gây thương tích, hầu hết chỉ có chút ít tiền hay chẳng có. Và tôi không bao giờ biết, tháng này hay tháng tới, liệu có bao nhiêu người như thế sẽ xuất hiện tại văn phòng của tôi.”

“Thôi nào, Jake,” Atcavage ngắt lời. “Tôi thực sự không muốn chấm dứt cuộc thảo luận này, nhưng Claude vừa mới nhìn đồng hồ đeo tay rồi lại nhìn chúng ta. Tôi nghĩ hai mươi phút của chúng ta đã cạn hết rồi.”

Hóa đơn của Jake nhiều hơn của Atcavage bảy mươi mốt xu, và do hai người đặt món y hệt nhau nên Claude đã bị chất vấn. Có gì đâu, ông giải thích, Jake đã được nhận thêm một khúc sườn.

McKittick là một người duyên dáng và tinh tế, kỹ lưỡng và cao ngạo. Ông đến Clanton hôm thứ Tư để điều tra và viết về sự kiện mà cho đến lúc này đã được phóng đại lên thành vụ giết người nổi tiếng nhất nước. Ông đã trao đổi với Ozzie và Moss Junior, và họ đã gợi ý ông nên trao đổi thêm với Jake. Ông lén trao đổi với Bullard, và vị thẩm phán cũng khuyên ông nên trao đổi thêm với Jake. Ông đã phỏng vấn Gwen và Lester, nhưng không được phép gặp cô bé. Ông tìm gặp những khách quen của Coffee Shop và Tea Shoppe, rồi ông tìm gặp các khách quen của Huey’s và Ann’s Lounge. Ông trao đổi với vợ cũ và mẹ của Willard, nhưng bà Cobb thì đã cắt liên lạc với các phóng viên. Một trong các anh trai của Cobb đề nghị thảo luận với một mức phí. McKittick từ chối. Ông lái xe đến nhà máy giấy và thảo luận với các công nhân, rồi lại lái đến Smithfield để phỏng vấn vị D.A. Ông sẽ ở thị trấn thêm vài ngày nữa rồi trở lại để dự phiên xét xử.

Vốn là người Texas, ông vẫn giữ cái chất giọng lè nhè khi nào thấy thuận tiện. Điều này gây ấn tượng cho dân địa phương và khiến họ mở lòng. Ông thậm chí còn nói “tất cả các người” và thi thoảng là “tất thảy các người”, và điều này khiến ông khác biệt so với phần lớn các phóng viên khác vốn thường trông cậy vào sự lưu loát, độ chuẩn xác và phát âm theo giọng Mỹ hiện đại của họ.

“Cái gì đây?” McKittrick trỏ vào giữa bàn làm việc của Jake.

“Máy ghi âm đấy,” Jake đáp.

McKittrick đặt máy ghi âm của chính ông lên bàn rồi nhìn Jake. “Tôi muốn hỏi vì sao, được không?”

“Được. Đây là văn phòng của tôi, đây là cuộc phỏng vấn tôi, và nếu tôi muốn ghi âm thì tôi cứ việc ghi.”

“Ông chờ đợi sẽ có gì rắc rối ư?”

“Tôi đang cố phòng ngừa. Tôi ghét bị dẫn lời sai.”

“Tôi có tiếng là không dẫn lời sai.”

“Tốt. Vậy chắc ông sẽ không phiền nếu cả hai chúng ta cùng ghi âm mọi lời nói.”

“Ông không tin tôi, phải không ông Brigance?”

“Không hề. Và tên của tôi là Jake.”

“Tại sao ông không tin tôi?”

“Vì ông là phóng viên, ông đến từ New York, ông đang tìm kiếm một câu chuyện giật gân, và nếu tôi không nhìn nhầm người thì ông sẽ viết những mẩu rác rưởi chứa nhiều thông tin và sự cao đạo, mô tả tất cả chúng tôi là đám da trắng ngáo vườn kỳ thị chủng tộc và không biết cái quái gì cả.”

“Ông sai rồi. Trước hết, tôi đến từ Texas.”

“Tờ báo của ông ở New York.”

“Nhưng tôi tự xem mình là người miền Nam.”

“Ông rời Texas bao lâu rồi?”

“Khoảng hai mươi năm.”

Jake mỉm cười lắc đầu như thế muốn nói như vậy là lâu lắm đấy.

“Và tôi không làm việc cho một tờ báo lá cải.”

“Để xem sao. Còn nhiều tháng nữa mới đến phiên xét xử. Chúng tôi sẽ có đủ thời gian để đọc các bài viết của ông.”

“Được thôi.”

Jake bấm chiếc nút bật của máy ghi âm, và McKittrick cũng làm tương tự với chiếc máy của ông.

“Liệu Carl Lee có nhận được một phiên xử công bằng ở hạt Ford không?"

“Sao lại không?” Jake hỏi.

“Thì đấy, ông ta là người da đen. Ông ta giết hai người đàn ông da trắng, và ông ta sẽ bị phán quyết bởi một bồi thẩm đoàn da trắng.”

“Ý ông là ông ta sẽ bị xét xử bởi một đám da trắng kỳ thị chủng tộc?”

“Không, tôi không nói vậy, cũng không ngụ ý như vậy. Tại sao ông cứ tự động cho rằng tôi nghĩ các ông là một đám kỳ thị chủng tộc?”

“Vì ông là như thế. Chúng ta đều có những mẫu hình, ông cũng biết điều đó mà.”

McKittrick nhún vai, viết gì đó vào bản tốc ký của ông. “Ông trả lời vào câu hỏi được không?”

“Được thôi. Ông ta có thể nhận một phiên xử công bằng ở hạt Ford nếu bị xử ở đây.”

“Ông có muốn xử ở đây không?”

“Chắc chắn chúng tôi sẽ tìm cách dời địa điểm xét xử.”

“Dời đi đâu?”

“Chúng tôi không gợi ý nơi xử. Điều đó tùy thuộc vào thẩm phán.”

“Ông ta lấy khẩu M-16 ở đâu?”

Jake cười thầm, nhìn chiếc máy ghi âm. “Tôi không biết.”

“Nếu là người da trắng thì ông ta có bị truy tố không?”

“Ông ta là người da đen, và ông ta chưa bị truy tố.”

“Nhưng nếu ông ta là người da trắng thì có bị truy tố không?”

“Có, theo thiển ý của tôi.”

“Ông ta sẽ bị kết án chứ?”

“Ông hút xì gà không?” Jake mở ngăn kéo bàn, lục lấy bao RoiTan. Anh mở ra rồi châm một điếu bằng chiếc bật lửa ga. “Không, cảm ơn.”

“Không, ông ta sẽ không bị kết án nếu là người da trắng. Đó là ý kiến của tôi. Không ở Mississippi, không ở Texas, không ở Wyoming. New York thì tôi không chắc lắm.”

“Tại sao không?”

“Ông có con gái không?”

“Không.”

“Vậy thì ông không hiểu đâu.”

“Tôi nghĩ là tôi hiểu. Ông Hailey sẽ bị kết án chứ?”

“Có thể.”

“Vậy thì hệ thống vận hành không được công bằng cho người da đen?”

“Ông đã nói chuyện với Raymond Hughes chưa?"

“Chưa. Ông ta là ai vậy?”

“Ông ta ứng cử làm cảnh sát trưởng kỳ vừa rồi, và ông ta đã xui xẻo khi phải ra tranh cử với Ozzie Walls. Ông ta là người da trắng đấy. Ozzie thì dĩ nhiên không phải. Chuyện đó đã diễn ra ở một hạt có đến bảy mươi bốn phần trăm người da trắng. Tại sao ông không thử hỏi ông Hughes xem hệ thống có đối xử công bằng với người da đen không?”

“Tôi đang đề cập đến hệ thống pháp luật.”

“Nó là cùng một hệ thống như nhau cả thôi. Ông nghĩ những ai sẽ ngồi trong khoang bồi thẩm? Cũng là những cử tri có đăng ký đã bầu cho Ozzie Walls đó thôi.”

“Thôi được, nếu một người đàn ông da trắng thì không bị kết án, còn ông Hailey thì có khả năng sẽ bị kết án, vậy thì ông giải thích cho tôi xem làm cách nào hệ thống đối xử công bằng cho cả hai?”

“Nó đâu có công bằng.”

“Tôi không hiểu ý ông lắm.”

“Hệ thống phản ánh xã hội. Nó không phải lúc nào cũng công bằng cả, nhưng nó cũng công bằng như hệ thống ở New York, hay Massachusetts, hay California. Nó vừa công bằng vừa thiên vị. Con người có cảm xúc có thể làm được vậy.”

“Và ông nghĩ ông Hailey sẽ được đối xử công bằng ở đây chẳng khác gì ở New York?”

“Tôi đang nói rằng có nhiều sự phân biệt chủng tộc ở New York chẳng kém gì ở Mississippi. Hãy nhìn các trường công lập mà xem. Chúng cũng xóa phân biệt chủng tộc như nhau thôi.”

“Theo lệnh của tòa.”

“Chắc chắn rồi, nhưng các tòa án ở New York thì sao? Nhiều năm qua những gã con hoang đạo đức giả các ông đã trỏ ngón tay và chõ mũi vào chúng tôi ở dưới này, đòi chúng tôi phải xóa phân biệt chủng tộc. Nó đã diễn ra, và nó đâu phải là sự tận thế. Nhưng các ông phớt lờ một cách tùy tiện những trường học và khu phố của các ông, những bất thường trong bầu cử của chính các ông, những bồi thẩm đoàn và hội đồng thành phố toàn da trắng của các ông. Chúng tôi đã sai, và chúng tôi đã phải trả giá đắt cho sai lầm đó. Nhưng chúng tôi đã học hỏi được, và mặc dù sự thay đổi là chậm chạp và đau thương, nhưng ít ra chúng tôi cũng đang cố gắng. Tất cả các ông thì vẫn đang chỉ trích chúng tôi.”

“Tôi không có định lặp lại trận Gettysburg đâu đấy.”

“Tôi xin lỗi. Chúng tôi dùng cách biện hộ nào ư? Lúc này tôi vẫn chưa biết. Thực sự hãy còn quá sớm. Ông ta thậm chí còn chưa bị truy tố nữa là.”

“Ông ta dĩ nhiên sẽ bị truy tố, phải không?”

“Dĩ nhiên chúng tôi chưa biết. Cũng có nhiều khả năng đấy. Khi nào thì bài báo đó được in ra?”

“Có lẽ là Chủ nhật.”

“Cũng vậy thôi. Ở đây không ai đọc báo của các ông đâu. Vâng, ông ta sẽ bị truy tố đấy.”

McKittrick nhìn đồng hồ đeo tay, và Jake tắt máy ghi âm. “Coi nào, tôi không phải là người xấu,” McKittrick nói. “Lúc nào đó ta hãy đi uống bia và kết thúc câu chuyện này.”

“Ngoài ghi chép nhé, tôi không uống bia rượu. Nhưng tôi nhận lời mời của ông.”

Nhà thờ Giáo hội Trưởng lão đầu tiên của Clanton nằm ngay đối diện bên kia đường với Nhà thờ Giáo hội Giám lý đầu tiên của Clanton, và cả hai nhà thờ này đều ở trong tầm nhìn của nhà thờ Hội thánh Baptist, lớn hơn. Hội thánh Baptist có nhiều tín hữu và tiền bạc hơn, nhưng Giáo hội Trưởng lão và Giám lý lại làm lễ sớm hơn vào Chủ nhật và tín hữu của họ thường đến các quán ăn trước các tín hữu Baptist để dùng bữa trưa ngày Chủ nhật. Những người Baptist thường đến xếp hàng vào lúc mười hai giờ ba mươi, trong khi những tín hữu Trưởng Lão và Giám lý thong thả ăn uống và vẫy tay chào họ.

Jake hài lòng với việc anh không phải là tín hữu Baptist. Họ hơi quá hẹp hòi và nghiêm ngặt, và họ cứ rao giảng mãi về việc đi nhà thờ tối Chủ nhật, một nghi lễ mà Jake luôn chống lại. Carla là tín hữu Baptist, còn Jake thì theo Giáo hội Giám lý. Trong thời kỳ tán tỉnh nhau, một thỏa hiệp đã được thương lượng, và họ đã trở thành các tín hữu của Giáo hội Trưởng lão. Họ hài lòng với nhà thờ của họ và các hoạt động của nó nên rất hiếm khi bỏ lễ.

Ngày Chủ nhật, họ ngồi trên băng ghế thường lệ của họ, với Hanna ngủ gật giữa hai người, chẳng đoái hoài đến những lời thuyết giáo. Jake cũng phớt lờ chúng bằng cách quan sát người thuyết giảng và hình dung cuộc đối đầu với Buckley tại tòa, trước mười hai công dân tốt và tuân thủ pháp luật. Carla thì phớt lờ bằng cách quan sát người thuyết giảng và trang trí lại phòng ăn bằng suy tưởng. Jake bắt được vài ánh mắt hiếu kỳ lúc diễn ra lễ cúng, và anh hình dung các tín hữu đồng đạo của anh ở nhà thờ cách chi đó có phần hơi e dè việc họ cùng tham gia buổi lễ. Có những khuôn mặt lạ trong buổi tụ tập, và đó là khuôn mặt của những tín hữu ăn năn từ lâu đã bỏ lễ hoặc của các phóng viên. Jake cũng không chắc chắn lắm cho đến khi có những khuôn mặt cứ chăm chăm nhìn anh, và thế là anh biết tất cả bọn họ đều là phóng viên.

“Con rất thích bài thuyết giáo của cha, thưa cha,” Jake nói dối khi bắt tay vị mục sư ở bậc thềm bên ngoài giáo đường.

“Gặp con cha rất vui, Jake ạ,” vị mục sư đáp lại. “Cha đã thấy con trên TV suốt tuần qua. Mấy đứa nhóc của cha rất phấn khích mỗi khi trông thấy con.”

“Cảm ơn cha. Xin cha hãy cầu nguyện cho chúng con.”

Họ lái xe đến Karaway để dùng bữa trưa Chủ nhật cùng cha mẹ Jake. Gene và Eva Brigance sống trong ngôi nhà cũ của gia đình, một ngôi nhà dài miền quê nằm trên thửa đất rừng năm mẫu ở của ngõ Karaway, cách đường Main Street ba dãy nhà và cách trường học hai dãy, nơi Jake và chị gái của anh đã trải qua mười hai năm đèn sách. Cả hai ông bà đều đã nghỉ hưu, nhưng vẫn đủ trẻ trung để mỗi khi hè đến lại đi chu du khắp lục địa trên ngôi nhà di động Họ chuẩn bị đi Canada vào thứ Hai và sẽ trở về sau dịp lễ Lao động. Jake là con trai duy nhất. Chị gái của anh hiện sống ở New Orleans.

Bữa trưa ngày Chủ nhật mà bà Eva bày lên bàn là một bữa tiệc thịt chiên và rau tươi tiêu biểu của phương Nam, với đủ các món luộc, nhào, bỏ lò, ăn sống, bánh cuộn và bánh quy nhà làm, hai loại nước sốt, dưa hấu, dưa đỏ, bánh gato nhân đào, bánh chanh, bánh dâu. Rất ít món được chạm đến, và những phần thừa thãi sẽ được Eva và Carla gói ghém lại gọn gàng để mang về Clanton, nơi chúng sẽ được tiêu thụ trong suốt cả tuần lễ.

“Cha mẹ con có khỏe không, Carla?” ông Gene hỏi khi chuyển đĩa bánh cuộn.

“Ba mẹ con khỏe ạ. Con mới nói chuyện với mẹ con hôm qua.”

“Hai người đang ở Knoxville hả?”

“Dạ không. Ba mẹ con đã đi nghỉ hè ở Wilmington.”

“Các con sẽ viếng thăm ông bà chứ?” Eva hỏi khi rót trà từ một chiếc ấm sứ to.

Carla liếc nhìn Jake đang dầm hạt đậu khô, cho vào đĩa của Hanna. Anh không muốn thảo luận vụ Carl Lee Hailey. Kể từ tối thứ Hai, mọi bữa ăn đều xoay quanh vụ này, và Jake không có tâm trạng để trả lời những câu hỏi như nhau.

“Dạ, thưa mẹ. Bọn con đang có kế hoạch đi thăm. Việc đó còn tùy thuộc vào lịch trình của anh Jake nữa ạ. Có thể đây là một mùa hè bận rộn.”

“Ba mẹ đã nghe chuyện rồi,” Eva nói huỵch toẹt, chậm rãi như thể răn con trai vì đã không gọi điện về kể từ sau vụ xả súng.

“Điện thoại của con có trục trặc gì không hả, con trai?” ông Gene hỏi.

“Có đấy. Bọn con đã đổi số điện thoại.”

Bốn người lớn ăn chầm chậm, vẻ bồn chồn, trong khi Hanna mê mải nhìn món bánh dâu.

“Ừ, ba biết rồi. Bên tổng đài họ có báo cho ba mẹ. Chuyển sang một số chưa có trong danh bạ.”

“Con xin lỗi. Con bận ghê quá, bận như điên ấy.”

“Ba mẹ đã đọc thấy vậy rồi,” cha anh nói.

Eva dừng ăn, đằng hắng. “Jake, con có thực sự tin con cứu thoát được ông ta không?”

“Ba thấy lo cho gia đình con” cha anh nói. “Đây có thể là một vụ án rất nguy hiểm.”

“Ông ta bắn họ một cách lạnh lùng,” Eva nói.

“Chúng cưỡng hiếp con gái của ông ta mà mẹ. Ba mẹ sẽ làm gì nếu có gã nào đó cưỡng hiếp Hanna?”

“Cưỡng hiếp là gì vậy?” Hanna hỏi.

“Đừng quan tâm, con yêu,” Carla nói. “Mình đổi đề tài có được không ạ.” Cô quả quyết nhìn ba người nhà Brigance, và họ bắt đầu ăn tiếp. Nàng dâu đã lên tiếng với tất cả sự khôn ngoan thường lệ.

Jake mỉm cười với mẹ mà không nhìn cha. “Chỉ là con không muốn bàn về vụ này, mẹ à. Con chán nghe nó lắm rồi.”

“Chắc ba mẹ phải tự tìm đọc thôi,” Gene nói.

Họ bàn sang chuyến đi Canada.

Vào khoảng thời gian nhà Brigance kết thúc bữa trưa, giáo đường của ngôi nhà thờ nhỏ Mt, Zion Chapel CME bỗng rậm rịch và đong đưa khi Giám mục Ollie Agee thúc những người mộ đạo vào cuộc ngợi ca cuồng nhiệt. Các trợ tế nhảy múa. Người cao niên ca hát. Cảnh phụ nữ bất tỉnh. Đàn ông trưởng thành la hét, vung tay lên trời, đám trẻ con thì ngước nhìn lên trong nỗi kinh hoàng sùng tín. Các thành viên của đoàn hợp xướng hết lắc lư rồi lại chồm tới, co giật, vỡ òa, rống lên những ca từ khác nhau của cùng một bài hát. Người chơi organ dạo một bài, người chơi dương cầm dạo bài khác, và dàn bè cứ thế hùa theo bất cứ bài nào. Giám mục nhảy chồm chồm quanh bục giảng trong bộ váy trắng dài với dải băng màu tím, la hét, cầu nguyện, gào lên với Chúa, và vã mồ hôi như tắm.

Sự cuồng nhiệt dâng lên rồi xẹp xuống, mỗi lần dâng là một lần phai nhòa mới, một lần rơi rụng vì mệt mỏi. Qua nhiều năm kinh nghiệm, Agee biết chính xác khi nào cơn cuồng nhiệt lên đến đỉnh điểm, khi nào sự mê sảng nhường đường cho cơn uể oải, và khi nào đám đông cần có sự nghỉ ngơi. Chính xác vào lúc đó, ông dợm nhảy lên bục giảng và động chân lên nó với sức mạnh của Đức Chúa Toàn năng. Lập tức, âm nhạc liền câm nín, những rung động vụt tắt, những người mệt lả chợt bừng tỉnh, đám trẻ con thôi khóc, và đám đông ngoan ngoãn ngồi vào các băng ghế. Đó chính là lúc để thuyết giáo.

Khi giám mục sắp sửa thuyết giáo, những cánh cửa hậu chợt mở bung, và gia đình Hailey bước vào giáo đường. Bé Tonya nắm tay mẹ đi khập khiễng. Các anh của bé đi phía sau, tiếp đến là chú Lester. Họ chầm chậm bước dọc theo lối đi, rồi tìm chỗ ngồi gần hàng ghế đầu. Giám mục gật đầu với người chơi organ, và người này bắt đầu chơi nhè nhẹ. Rồi dàn hợp xướng bắt đầu rền vang và bồng bềnh. Các trợ tế đứng đong đưa theo nó. Không chịu thua kém, các vị cao niên cũng đứng dậy và bắt đầu ca hát. Rồi đột nhiên, Sơ Crystal lăn đùng ra bất tỉnh. Sự bất tỉnh của bà có tính lây lan, cho nên các bà sơ khác cũng rơi rụng như ruồi. Các vị cao niên hát to hơn cả dàn hợp xướng, cho nên dàn hợp xướng hát càng hăng. Không ai còn nghe thấy người chơi organ nên cô ta bèn tăng âm lượng. Người chơi dương cầm tham gia vào với tiết tấu lanh lảnh của một bản thánh ca khác với bản thánh ca mà người chơi organ đang chơi. Người chơi organ đáp trả bằng nhiều sấm sét hơn nữa. Giám mục Agee từ bục bước nhẹ xuống, hăng hái tiến đến gia đình nhà Hailey. Mọi người đều đi theo ông—dàn hợp xướng, trợ tế, những vị cao niên, các phụ nữ, đám trẻ con đang khóc—mọi người đều đi theo ông giám mục đến chào mừng bé gái nhà Hailey.

Nhà giam không gây phiền hà gì cho Carl Lee. Ở nhà thì dễ chịu hơn rồi, nhưng chiếu theo hoàn cảnh thì ông thấy nhà giam cũng không đến nỗi nào. Đó là một nhà giam mới, được xây bằng tiền liên bang theo sự thỉnh cầu xuất phát từ một vụ kiện về quyền của tù nhân. Thức ăn được nấu bởi hai bà da đen to béo rất biết cách làm bếp và viết những tấm chi phiếu khống. Họ có đủ tư cách để được thả trước thời hạn, nhưng Ozzie giấu nhẹm. Thức ăn được phục vụ cho bốn mươi tù nhân, một ít đem cho hoặc bị lấy đi bởi những tù nhân tin cậy. Mười ba tù nhân thuộc về Pachman, nhưng nhà lao này đã đầy kín. Cho nên họ luôn chờ đợi, không bao giờ biết được liệu ngày tới có phải là ngày họ lên chuyến xe hãi hùng đi đến cái nhà lao bọc rào kín mít ở đồng bằng, nơi thức ăn không ngon bằng, giường không mềm bằng, điều hòa không khí là thứ không tồn tại, muỗi thì to, nhiều, và háu đói, còn nhà vệ sinh thì hiếm hoi và dễ bị choán chỗ.

Phòng giam của Carl Lee ở cạnh Phòng Hai, nơi các tù nhân của bang đang ngồi chờ. Với hai ngoại lệ, tất thảy đều là người da đen và, không có ngoại lệ nào, tất thảy đều rất bạo lực. Nhưng tất cả đều ngán Carl Lee. Ông chia sẻ Phòng Một với hai gã trộm cửa hàng. Hai gã này không chỉ ngán mà nói thẳng ra còn khiếp hãi người bạn tù nổi tiếng của chúng.

Mỗi tối, ông được áp tải đến văn phòng của Ozzie, nơi ông cùng vị cảnh sát trưởng ăn tối và xem tin tức.

Ông đã thành người nổi tiếng, và ông thích điều đó chẳng kém gì viên luật sư của ông và ông D.A. Ông muốn giãi bày này nọ cho các phóng viên, kể cho họ nghe về con gái của ông và vì sao không nên bỏ tù ông, nhưng luật sư của ông thì lại không cho phép.

Đợi khi Gwen và Lester ra về vào chiều muộn hôm Chủ nhật, Ozzie, Moss Junior, và Carl Lee lên qua cửa hậu của nhà giam, đi thẳng đến bệnh viện. Đó là ý tưởng của Carl Lee và Ozzie không thấy nó có tác hại gì. Looney ở một mình trong căn phòng riêng khi ba người đi vào. Carl Lee liếc qua cái chân rồi nhìn Looney trân trối. Họ bắt tay nhau. Với đôi mắt ngấn lệ và giọng nói run vỡ, Carl Lee nói rằng ông rất tiếc, ông không có ý định làm hại ai ngoài hai gã đó ra, rằng ông ước mong và cầu nguyện mình có thể chuộc lại những gì đã gây ra cho Looney. Không lưỡng lự, Looney chấp nhận lời xin lỗi. Khi họ lẻn về nhà giam, Jake đang đợi sẵn trong văn phòng của Ozzie. Ozzie và Moss Junior xin cáo lui, để lại bị can cùng luật sư của mình.

“Các người đi đâu vậy?” Jake ngờ vực hỏi.

“Đi bệnh viện thăm Looney.”

“Sao cơ?”

“Chẳng có gì sai cả, phải không?”

“Tôi mong anh hỏi ý kiến tôi trước khi có thêm chuyến thăm nào.”

“Gặp Looney thì có gì sai chứ?”

“Looney sẽ là nhân chứng ngôi sao của bên công tố khi họ cố gửi ông đến phòng hơi ngạt. Tất cả chỉ có vậy. Ông ta không ở về phía chúng ta, Carl Lee ạ, và mọi trao đổi của anh với Looney phải diễn ra với sự hiện diện của luật sư của anh. Anh hiểu chưa?”

“Không hiểu lắm.”

“Không thể tin nổi Ozzie lại làm vậy” Jake càu nhàu.

“Đó là ý tưởng của tôi,” Carl Lee thú nhận.

“Này nhé, nếu anh có thêm ý tưởng nào thì làm ơn cho tôi biết, có được không?”

“Được thôi.”

“Gần đây anh có nói chuyện với Lester không?"

“Có, chú ấy và Gwen hôm nay có ghé qua. Đem quà bánh cho tôi. Có nói với tôi chuyện nhà băng.”

Jake đã lên kế hoạch chơi rắn về vụ phí bào chữa. Không cách chi anh có thể bào chữa cho Carl Lee với chín trăm đô la. Vụ án sẽ lấy hết thời gian hành nghề của anh trong ít nhất ba tháng tới, và chín trăm đô la sẽ là ít hơn cả mức lương tối thiểu. Thật không công bằng cho anh và gia đình anh khi anh phải làm việc không công Họ có cả đống bà con ra đó. Gwen có cả một đại gia đình. Chỉ cần họ biết hy sinh một chút, bán bớt vài chiếc xe chẳng hạn, có thể là vài miếng đất, nhưng anh nhất định phải lấy được phí. Nếu không, Carl Lee sẽ phải tìm luật sư khác thôi.

“Tôi sẽ đưa anh chứng từ nơi tôi ở,” Carl Lee đề xuất.

Jake phát nản. “Tôi không cần nơi anh ở, Carl Lee ạ. Tôi muốn tiền mặt. Sáu ngàn năm trăm đô la.”

“Chỉ cho tôi bằng cách nào đi, tôi sẽ làm. Anh là luật sư, anh nghĩ cách nào đi. Tôi sẽ theo anh.”

Jake đã bị đánh bại và anh biết điều đó. “Tôi không thể làm việc đó với chín trăm đô la, Carl Lee ạ. Tôi không thể để vụ này làm cho tôi phá sản. Tôi là luật sư, tôi phải kiếm ra tiền chứ.”

“Jake, tôi sẽ trả tiền cho anh. Tôi hứa đấy. Có thể mất một thời gian dài, nhưng tôi sẽ trả cho anh mà. Tin tôi đi.”

Làm sao mà tin được nếu anh ngồi ở trại giam tử hình, Jake nghĩ. Anh đổi chủ đề. “Anh biết đấy, đại bồi thẩm đoàn sẽ nhóm họp ngày mai và nó sẽ tiếp quản vụ của anh.”

“Vậy tôi phải ra tòa à?”

“Không, điều đó có nghĩa là ngày mai anh sẽ bị khởi tố. Tòa án sẽ đầy ắp người đến xem, và cả các phóng viên nữa. Thẩm phán Noose sẽ đến đây để khai trương phiên tháng Năm của tòa. Buckley sẽ chạy lòng vòng săn camera và nhả khói thuốc. Đó là một ngày trọng đại. Chiều nay Noose vừa bắt tay vào một vụ cướp có vũ trang. Nếu anh bị khởi tố ngày mai thì chúng ta sẽ ra tòa vào thứ Tư hoặc thứ Năm để nhận thủ tục buộc tội.”

“Thủ tục gì cơ?”

“Thủ tục buộc tội. Trong một vụ trọng án giết người, thẩm phán được luật pháp quy định phải đọc cáo trạng cho anh nghe tại phiên tòa công khai, trước Chúa và tất cả mọi người. Họ sẽ làm rùm beng chuyện này. Chúng ta sẽ đưa ra một kiến nghị không có tội, và Noose sẽ lập thời hạn xét xử. Chúng ta sẽ yêu cầu một khoản bảo lãnh tại ngoại hợp lý và Noose sẽ nói không. Khi tôi nhắc đến khoản bảo lãnh tại ngoại, Buckley sẽ giãy nảy, hét tướng lên. Càng nghĩ đến hắn, tôi càng thấy ghét. Hắn sẽ là cái nhọt lớn ở trên mông.”

“Tại sao tôi không được bảo lãnh tại ngoại?”

“Với trọng án giết người thì thẩm phán thường không cho tại ngoại. Ông ta có thể cho nếu như ông ta muốn, nhưng phần lớn sẽ không cho. Dù Noose có lập ra khoản bảo lãnh đi nữa thì anh cũng có trả được đâu, cho nên đừng bận tâm làm gì. Anh sẽ ngồi tù cho đến ngày xét xử."

“Tôi đã mất việc làm rồi, anh biết không?”

“Khi nào?”

“Gwen lái xe qua đó hôm thứ Sáu để lãnh lương của tôi. Họ bảo cô ấy như thế. Hay thật đấy. Làm việc mười một năm, mới nghỉ có năm ngày mà họ đã sa thải tôi rồi. Chắc họ nghĩ tôi sẽ không trở lại.”

“Tôi rất tiếc khi nghe chuyện này, Carl Lee ạ. Tôi thực sự rất tiếc.”