← Quay lại trang sách

Chương 12

Ngài Omar Noose không phải lúc nào cũng đáng tôn kính như vậy. Trước khi trở thành thẩm phán Tòa Lưu động của khu vực tư pháp thứ hai mươi hai, ông là một luật sư tài năng hạn hẹp với rất ít thân chủ, nhưng lại là một chính trị gia có kỹ năng tuyệt vời. Năm nhiệm kỳ ở khu vực lập pháp Mississippi đã làm hỏng ông, dạy cho ông nghệ thuật biển lận và thao túng chính trị. Thượng nghị sĩ Noose thăng tiến vù vù, trở thành chủ tịch của Ủy ban Tài chính Thượng viện, và vài người ở hạt Van Buren đã đặt câu hỏi bằng cách nào ông và gia đình lại sống xa hoa như thế, căn cứ vào đồng lương lập pháp bảy ngàn đô la mỗi năm của ông.

Giống như hầu hết các thành viên lập pháp của Mississippi, ông đã chạy vạy để được đắc cử thêm một lần nữa và, vào mùa hè năm 1971, ông đã bị một đối thủ vô danh hạ nhục. Một năm sau, thẩm phán Loopus—vị tiền nhiệm chốn pháp đình của ông—qua đời. Noose thuyết phục các bạn bè của ông trong Hội đồng Lập pháp để họ thuyết phục ông thống đốc chỉ định ông đảm nhận nốt nhiệm kỳ chưa mãn hạn của ông này. Đó chính là lý do vì sao một cựu thượng nghị sĩ của tiểu bang lại trở thành thẩm phán Noose của Tòa Lưu động. Ông tái đắc cử năm 1975, rồi tái đắc cử tiếp năm 1979 và 1983.

Hối lỗi, chịu đổi mới và rất khiêm tốn do sự xuống thang quyền lực nhanh chóng, thẩm phán Noose đã miệt mài lao vào nghiên cứu luật, và sau một khởi đầu chệch choạc, Ông đã có sự phát triển nghề nghiệp. Ông được trả sáu mươi ngàn đô la mỗi năm cho nên ông có thể lương thiện được. Nay, ở tuổi sáu mươi ba, ông là một thẩm phán già khôn ngoan, được kính trọng bởi hầu hết các luật sư và Tòa Tối cao của tiểu bang, vốn rất hiếm khi đảo ngược những phán quyết của ông. Ông trầm tính nhưng duyên dáng, nhẫn nại nhưng chặt chẽ, và ông có một chiếc mũi đồ sộ, rất dài và rất nhọn, sắm vai một chiếc ngai cho cặp mục kỉnh gọng đen hình bát giác mà ông thường xuyên đeo nhưng không bao giờ dùng đến. Chiếc mũi của ông, cộng thêm với khổ người cao lóng ngóng, mái tóc bạc dày, hoang dã và bất trị, thêm với chất giọng the thé, tất cả đã xây lên cái biệt danh bí ẩn Ichabod của ông, mà các luật sư vẫn thường rỉ tai nhau. Ichabod Noose. Ngài Ichabod Noose.

Ông ngồi vào ghế thẩm phán, và cả phòng xử chật chội đứng cả dậy khi Ozzie làu bàu đọc một cách thiếu mạch lạc một đoạn văn quy định bởi pháp luật để chính thức khai mạc phiên tháng Năm của Tòa Lưu động hạt Ford. Một mục sư địa phương đọc bài cầu nguyện dài dòng và hoa mỹ, rồi đám người ngồi xuống. Các bồi thẩm triển vọng lấp đầy một bên phòng xử. Các tội phạm hay đương sự khác, gia đình và bạn bè của họ, báo chí, và những người hiếu kỳ lấp đầy phía bên kia. Noose đòi hỏi mọi luật sư trong hạt phải tham dự lễ khai mạc phiên, và các thành viên của luật sư đoàn ngồi trong khoang bồi thẩm, tất cả đều trông uy nghi, tất cả đều diện nguyên bộ trang phục biểu trưng của nhà vua. Buckley và trợ lý của ông, D. R. Musgrove, ngồi ở bàn công tố, hoành tráng đại diện cho Tiểu bang. Jake ngồi vào một chiếc ghế gỗ trước rào chắn. Các lục sự và phóng viên tòa án đứng sau những cuốn sổ ghi án màu đỏ trên giá sách. Và trước sự theo dõi chặt chẽ của tất cả mọi người, Ichabod chỉnh lại tư thế ngồi của ông, duỗi thẳng chiếc váy, chỉnh lại cặp mục kỉnh đáng sợ và qua đó nhìn xoáy vào đám người tụ họp.

“Chào buổi sáng,” ông cất giọng the thé. Ông kéo chiếc micro lại sát hơn, rồi hắng giọng. “Có mặt trong phiên tháng Năm của tòa án hạt Ford bao giờ cũng thật dễ chịu. Tôi thấy hầu hết các thành viên luật sư đoàn đều đã tìm được thời gian để hiện diện và khai mạc phiên này. Và, như thường lệ, tôi sẽ yêu cầu bà Clerk ghi lại những luật sư vắng mặt để tôi gặp riêng từng người họ. Tôi thấy một lượng lớn các bồi thẩm triển vọng đã hiện diện, và tôi xin cảm ơn từng người các vị vì đã đến đây. Tôi biết các vị không có lựa chọn nào, nhưng sự hiện diện của các vị là tối cần thiết cho quy trình luật pháp của chúng ta. Chúng ta sẽ ngay tức thì lập ra danh sách đại bồi thẩm đoàn, sau đó chúng ta sẽ chọn ra nhiều bồi thẩm xét xử để phục vụ cho tuần này và tuần tới. Tôi tin rằng từng thành viên của luật sư đoàn đều đã có một bản sao lục sổ ghi án, và các vị sẽ nhận thấy nó có phần chật chội. Lịch trình của tôi cho biết có ít nhất hai vụ án phải xét xử mỗi ngày trong tuần này và tuần tới, nhưng theo hiểu biết của tôi thì hầu hết các án hình sự được đưa ra xét xử sẽ không được hưởng các thương lượng đôi bên. Tuy nhiên, chúng ta còn nhiều vụ án để tiến hành, và tôi yêu cầu sự hợp tác cần mẫn của luật sư đoàn. Một khi đại bồi thẩm đoàn mới lập xong danh sách và đi vào làm việc, một khi cáo trạng bắt đầu xuống, tôi sẽ lập lịch trình cho thủ tục buộc tội và những lần ra tòa đầu tiên. Ta hãy nhanh chóng lập sổ ghi án, hình sự trước, dân sự sau; sau đó các luật sư có thể ra về khi chúng tôi chọn ra đại bồi thẩm đoàn.

“Công tố chống lại Warren Moke. Cướp có vũ trang, xét xử vào chiều nay.”

Buckley từ từ đứng dậy một cách có chủ ý. “Bang Mississippi đã sẵn sàng cho việc xét xử, thưa Ngài,” ông long trọng tuyên bố trước những người dự khán.

“Bên bị cũng vậy," Tyndale, luật sư do tòa chỉ định, nói.

“Ông dự kiến việc xét xử sẽ kéo dài bao lâu?” vị thẩm phán hỏi.

“Một ngày rưỡi,” Buckley đáp. Tyndale gật đầu đồng ý.

“Tốt. Chúng ta sẽ chọn bồi thẩm đoàn xét xử trong sáng nay, và bắt đầu xử vào lúc một giờ chiều nay. Công tố chống lại William Daal, giả mạo, sáu tội danh, xử vào ngày mai.”

“Thưa Ngài,” D. R. Musgrove đáp lại, “sẽ có một thương lượng trong vụ này.”

“Tốt. Công tố chống lại Roger Nornton, trộm cắp nghiêm trọng, hai tội danh, xử vào ngày mai.”

Noose đọc tiếp sổ ghi án. Mỗi vụ việc kéo theo cùng một hồi đáp. Buckley sẽ đứng dậy tuyên bố tiểu bang đã sẵn sàng cho việc xét xử, hoặc Musgrove sẽ nhẹ nhàng thông báo với tòa rằng một thương lượng đang diễn ra. Các luật sư bào chữa sẽ đứng dậy gật đầu. Jake không có vụ nào trong phiên tháng Năm, và mặc dù đã cố hết sức để tỏ ra ngao ngán, anh vẫn thích việc đọc sổ ghi án vì anh có thể biết được ai đang nắm vụ việc gì và sự cạnh tranh hiện ra sao. Đó còn là dịp để anh trông ấn tượng trước đám luật sư địa phương. Một nửa các thành viên của hãng Sullivan đã hiện diện và cả họ cũng trông ngao ngán khi ngạo mạn ngồi bên nhau ở dãy đầu của khoang bồi thẩm. Các đối tác cao tuổi hơn của hãng Sullivan sẽ không dám xuất hiện trong phần đọc ghi án, và họ sẽ nói dối với Noose rằng họ mắc xử tại Tòa Liên bang mãi tuốt tận Oxford hay có thể là tại Tòa Thượng Thẩm ở Jackson. Lòng tự trọng ngăn cản họ đánh đồng mình với các thành viên thông thường của luật sư đoàn, cho nên những đại diện trẻ tuổi hơn đã được gửi đến để thỏa mãn Noose và đòi hỏi tất cả các vụ việc dân sự của hãng phải được tiếp tục, dời lại, trì hoãn, làm hỏng, và phải được hành xử theo cách để hãng có thể dắt chúng đi mãi mãi và tiếp tục tính tiền theo giờ. Thân chủ của họ là các công ty bảo hiểm vốn nhìn chung không thích ra tòa và sẵn sàng trả tiền theo giờ cho việc thao túng luật pháp, vốn được thiết kế ra duy nhất chỉ để giữ cho các vụ việc tránh xa các bồi thẩm đoàn. Sẽ rẻ tiền hơn và công bằng hơn nếu chịu chi tiền cho một dàn xếp hợp lý và tránh né cả các vụ kiện tụng lẫn các công ty biện hộ ký sinh kiểu như công ty Sullivan & O’Hare, nhưng các công ty bảo hiểm và những điều chỉnh viên của họ lại quá ngu xuẩn và rẻ tiền, cho nên các luật sư đường phố như Jake Brigance mới kiếm sống được nhờ kiện cáo các công ty bảo hiểm, buộc họ phải chi nhiều hơn mức mà họ muốn chi nếu như họ muốn có một thỏa thuận công bằng ngay từ đầu. Jake không ưa các công ty bảo hiểm. Anh không ưa cả các luật sư bào chữa cho công ty bảo hiểm. Và anh đặc biệt không ưa các thành viên trẻ của hãng Sullivan, tất cả đều cỡ trạc tuổi anh, tất cả đều sẵn sàng cắt cổ anh, cắt cổ những người cộng sự, cắt cổ các đối tác của họ, cắt cổ bất cứ ai để tạo mối làm ăn, kiếm hai trăm ngàn đô la mỗi năm và bỏ qua các sổ ghi án.

Jake đặc biệt không ưa Lotterhouse, hay Winston Lotterhouse, như một tiêu đề đã nêu đích danh hắn ta, một gã nhỏ con nhút nhát bốn mắt với tấm bằng Harvard và căn bệnh tự tôn ngạo mạn đã trở nặng, kẻ đang sắp hàng kế tiếp để tạo mối làm ăn, do đó không chừa ra một ai trong việc cắt cổ suốt năm qua. Hắn ngồi chảnh chọe giữa hai cộng sự khác của hãng Sullivan, và nắm giữ bảy hồ sơ, mỗi hồ sơ đều được tính phí hàng trăm đô la mỗi giờ kể cả khi hắn đáp ứng việc đọc sổ ghi án.

Noose bắt đầu đọc ghi án dân sự, “Collins chống lại công ty bảo hiểm Royal Consilidated General Mutual.”

Lotterhouse chậm rãi đứng dậy. Nhiều giây hợp thành một phút, nhiều phút hợp thành một giờ. Giây tính là phút và phút tính là giờ. Mà giờ thì là phí, là tiền trả trước, là tiền thưởng, là những mối hợp tác.

“Thưa Ngài, thưa ngài, vụ án này đã được thiết lập một tuần lễ kể từ thứ Tư.”

“Tôi biết điều đó,” Noose nói.

“Vâng thưa ngài. Thế này ạ, thưa ngài, tôi e rằng tôi sẽ phải đề nghị một sự trì hoãn. Một xung đột đã nảy sinh trong lịch xét xử của tôi vào ngày thứ Tư, và tôi có một cuộc họp trước xét xử tại Tòa Liên bang ở Memphis mà viên thẩm phán đã từ chối hoãn lại. Tôi rất hối tiếc về điều này. Tôi đã gửi một kiến nghị sáng nay, yêu cầu việc trì hoãn.”

Gardner, viên luật sư của bên nguyên, nổi giận. “Thưa Ngài, vụ việc này đã được thiết lập ban đầu là trong hai tháng. Nó đã được thiết lập để xét xử vào tháng Hai, và ông Lotterhouse có tang lễ bên đằng vợ của ông ấy. Nó đã được thiết lập để xét xử vào tháng Mười một năm ngoái, và ông ta lại có một ông chú bị chết. Nó đã được thiết lập vào tháng Tám vừa rồi, và lại có một tang lễ nữa. Tôi cho rằng chúng ta phải vui mừng vì lần này chẳng có ai bị chết cả.”

Có lác đác những tiếng cười khe khẽ trong phòng xử. Lotterhouse đỏ tía mặt.

“Quá đủ rồi, thưa Ngài,” Gardner tiếp tục. “Ông Lotterhouse muốn trì hoãn vĩnh viễn phiên xử. Vụ việc đã chín muồi cho việc xét xử, và thân chủ của tôi có quyền được thụ hưởng việc xét xử đó. Chúng tôi cực lực phản đối mọi động thái trì hoãn.”

Lotterhouse mỉm cười với viên thẩm phán rồi gỡ cặp kiếng xuống. “Thưa Ngài, tôi có thể đối đáp được không ạ?”

“Không, ông không được, ông Lotterhouse,” Noose ngắt ngang. “Không có thêm trì hoãn nào nữa. Vụ án được thiết lập vào thứ Tư tới. Sẽ không có thêm trì hoãn nào.”

Hoan hô, Jake nghĩ. Noose thường vẫn luôn mềm lòng với hãng Sullivan. Jake mỉm cười với Lotterhouse.

Hai vụ án dân sự của Jake đã được trì hoãn đến thời hạn tháng Tám. Khi Noose hoàn tất xong bản đọc ghi án, ông giải tán các luật sư rồi chuyển sự chú ý sang nhóm bồi thẩm triển vọng. Ông giải thích vai trò của đại bồi thẩm đoàn, tầm quan trọng và quy trình của nó. Ông phân biệt nó với bồi thẩm đoàn xét xử vốn cũng quan trọng ngang như thế dù không tốn kém nhiều thời gian như vậy. Ông bắt đầu đưa ra những câu hỏi, hàng tá câu hỏi, phần lớn là theo quy định của luật pháp, và tất cả đều liên quan đến khả năng phục vụ với tư cách bồi thẩm; liên quan đến sức khỏe thể chất và tinh thần; đến các miễn trừ và tuổi tác. Một số câu hỏi là vô ích, nhưng vẫn được quy định phải nêu ra theo vài đạo luật cổ xưa. “Ai trong quý vị là con bạc khát nước hay bợm nhậu kinh niên nào?”

Đã có những tiếng cười, nhưng chẳng ai chịu tình nguyện cả. Những người trên tuổi năm mươi lăm tự động được miễn, theo ý nguyện của họ. Noose dành các miễn trừ thường lệ cho các trường hợp bị bệnh, cấp cứu hay khó khăn, nhưng ông chỉ tha thứ cho một số ít trong rất nhiều người xin cáo lỗi vì các lý do kinh tế. Thật buồn cười khi chứng kiến các bồi thẩm đồng loạt đứng lên, nhu mì giải thích cho viên thẩm phán rằng một vài ngày làm bổn phận bồi thẩm có thể gây ra những tổn thất không thể sửa chữa như thế nào cho nông trang, cho xưởng đóng thùng xe, hay cho hoạt động cưa cây của họ. Noose tỏ ra cứng rắn khi đưa ra nhiều rao giảng về trách nhiệm công dân trước những thoái thác yếu ớt.

Từ một nhóm khoảng chín mươi người triển vọng, mười tám người sẽ được chọn ra để tham gia đại bồi thẩm đoàn, số còn lại sẽ vẫn sẵn sàng cho cuộc tuyển chọn bồi thẩm đoàn xét xử. Khi Noose hoàn tất việc hỏi han của ông, bà thư ký rút ra mười tám cái tên từ một chiếc hộp rồi đặt chúng lên bàn trước Ngài, người đã bắt đầu xướng to những cái tên. Từng người một, các bồi thẩm đứng dậy, chầm chậm bước đến phía trước phòng xử, đi qua rào chắn để ngồi vào những chiếc ghế bập bênh bọc nệm ở trong khoang bồi thẩm. Có mười bốn chiếc như thế, mười hai dành cho các bồi thẩm và hai dành cho những người trù bị. Khi khoang đã đầy, Noose gọi mang ra bốn chiếc ghế gỗ nữa đặt ở phía trước khoang bồi thẩm, nhập chung vào các ghế kia.

“Hãy đứng dậy và tuyên thệ,” Noose hướng dẫn khi bà thư ký đến đứng trước họ, cầm đọc một cuốn sách nhỏ màu đen có chứa tất cả các lời thề nguyện. “Đưa tay phải lên,” bà chỉ đạo. “Quý vị có long trọng thề và khẳng định sẽ làm bổn phận của bồi thẩm một cách trung thực; sẽ công bằng lắng nghe và quyết định mọi vấn đề và sự việc nào đến tay quý vị, để Chúa giúp quý vị?”

Một dàn hợp xướng đủ âm sắc “Tôi thề” tiếp nối theo, và đại bồi thẩm đoàn an tọa. Trong số năm người da đen có hai nữ. Trong số mười ba người da trắng có tám nữ, hầu hết đều ở miệt quê. Jake nhận biết bảy trong số mười tám người.

“Thưa quý bà quý ông,” Noose bắt đầu bài phát biểu thường lệ, “quý vị đã được chọn lọc và đã tuyên thệ thích đáng với tư cách các thành viên đại bồi thẩm đoàn hạt Ford, và quý vị sẽ phục vụ trong tư cách này cho đến khi đại bồi thẩm đoàn kế tiếp được lên danh sách vào tháng Tám. Tôi muốn nhấn mạnh rằng bổn phận của quý không hao tổn nhiều thời gian. Quý vị sẽ họp hàng ngày trong tuần này, rồi họp nhiều giờ mỗi tháng cho đến tháng Chín. Quý vị có trách nhiệm rà soát các vụ việc hình sự, lắng nghe các giới chức thực thi pháp luật cùng các nạn nhân, và quyết định liệu có tồn tại những cơ sở hợp lý hay không để tin tưởng rằng bị cáo đã thực hiện tội ác. Nếu có cơ sở, quý vị sẽ ban hành một cáo trạng, tức một cáo buộc chính thức chống lại bị cáo. Quý vị có mười tám người, và khi nào có tối thiểu mười hai người tin rằng ai đó phải bị khởi tố thì cáo trạng sẽ được ban hành. Quý vị có trong tay một quyền lực đáng kể. Theo luật pháp, quý vị có thể điều tra mọi hành động tội ác, mọi công dân tình nghi làm chuyện sai trái, mọi giới chức công cộng; thực sự là tất cả mọi người và tất cả mọi thứ có mùi xấu xa. Quý vị có thể nhóm họp bất cứ lúc nào quý vị lựa chọn, nhưng thông thường thì quý vị sẽ nhóm họp khi nào công tố viên khu vực, ông Buckley, muốn quý vị nhóm họp. Quý vị có quyền triệu tập những nhân chứng để họ tuyên thệ trước quý vị, và quý vị cũng có thể thu thập những thành tích của họ. Những bàn luận của quý vị là cực kỳ bí mật, không ai được phép hiện diện ngoại trừ bản thân quý vị, công tố viên khu vực cùng nhân viên của ông ta và các người chứng. Bị cáo không được phép xuất hiện trước quý vị. Quý vị bị cấm nghiêm ngặt, không được thảo luận với ai bất cứ điều gì đã được nói hay tiết lộ trong phòng của đại bồi thẩm đoàn."

“Ông Buckley, xin ông vui lòng đứng dậy. Cảm ơn ông. Đây là ông Rufus Buckley, công tố viên khu vực. Ông ta đến từ Smithfield, ở hạt Polk. Ông ta sẽ hành động như thể cấp trên của quý vị khi quý vị bàn luận. Cảm ơn ông Buckley. Ông Musgrove, xin ông vui lòng đứng dậy. Đây là ông D. R. Musgrove, trợ lý của công tố viên khu vực, cũng đến từ Smithfield. Ông ta sẽ trợ giúp ông Buckley khi quý vị bàn luận. Cảm ơn ông Musgrove. Nay các quý ông đây đại diện cho Bang Mississippi, và họ sẽ trình các vụ việc cho đại bồi thẩm đoàn.”

“Một vấn đề cuối cùng: đại bồi thẩm đoàn kỳ trước ở hạt Ford được lên danh sách vào tháng Hai, và trưởng nhóm là một người nam da trắng. Vì vậy, thể theo truyền thống và cũng theo nguyện vọng của Sở Tư pháp, tôi sẽ chỉ định một người nữ da đen làm trưởng nhóm của đại bồi thẩm đoàn kỳ này. Để xem nào. Laverne Gossett. Bà đâu rồi, bà Gossett? Bà kia rồi, tốt. Bà là một giáo viên phải không? Tốt. Tôi chắc chắn bà có thể xử lý tốt những bổn phận mới của bà. Bây giờ là lúc quý vị bắt tay vào làm việc. Theo tôi biết, hiện có trên năm mươi vụ án đang chờ quý vị. Tôi sẽ yêu cầu quý vị đi theo ông Buckley và ông Musgrove ra hành lang, đến phòng xử nhỏ mà chúng tôi dùng làm phòng của đại bồi thẩm đoàn. Cảm ơn và chúc may mắn.”

Buckley hãnh diện đưa đại bồi thẩm đoàn mới ra khỏi phòng xử, đi xuôi theo hành lang. Ông vẫy tay với các phóng viên và không có bình luận nào—tạm thời là như vậy. Trong phòng xử nhỏ, họ tự tìm chỗ và ngồi xuống quanh hai chiếc bàn xếp dài. Một thư ký đẩy vào nhiều hộp đựng hồ sơ. Một cựu cảnh sát nửa què, nửa điếc, từ lâu đã nghỉ hưu, đứng vào vị trí của ông trong bộ đồng phục bạc màu. Căn phòng an toàn. Buckley đã nghĩ lại. Ông xin cáo lỗi để ra gặp các phóng viên ngoài hành lang. Vâng, ông nói, vụ Hailey sẽ được đệ trình chiều hôm đó. Kỳ thực, ông đang đề xuất một cuộc họp báo vào lúc bốn giờ chiều tại các bậc thềm ở mặt tiền tòa án, và ông sẽ có cáo trạng vào lúc đó.

Sau bữa trưa, đội trưởng của Sở Cảnh sát Karaway ngồi vào một bên đầu của chiếc bàn dài, nóng nảy lục lọi xấp giấy tờ của ông. Ông tránh nhìn các bồi thẩm, lúc này đang lo lắng chờ đợi vụ việc đầu tiên của họ.

“Nêu tên của anh đi!” vị D.A. quát.

“Đội trưởng Nolan Earnhart, Sở Cảnh sát Karaway."

“Anh có bao nhiêu vụ, đội trưởng?”

“Chúng tôi có năm vụ từ Karaway.”

“Ta nghe vụ đầu đi.”

“Vâng, để xem, được rồi,” viên đội trưởng lầm bầm lắp bắp trong khi lần giở đống hồ sơ của ông. “Vâng, vụ đầu tiên là Fedison Bulow, nam da trắng, hai mươi lăm tuổi, bị bắt quả tang ở phía sau cửa hàng Griffin’s Feed tại Karaway vào lúc hai giờ sáng ngày 12 tháng Tư. Báo động ngầm cất lên và chúng tôi đã tóm hắn trong cửa hàng. Máy thâu ngân bị phá và một số hàng hóa đã biến mất. Chúng tôi tìm thấy tiền mặt và hàng hóa trong chiếc xe đăng ký tên của hắn đậu phía sau cửa hàng. Hắn đã viết bản nhận tội dài ba trang ở nhà giam, tôi có bản sao ở đây.”

Buckley thong thả bước quanh phòng, mỉm cười với tất cả mọi người.

“Và anh muốn đại bồi thẩm đoàn này truy tố Fedison Bulow một tội danh phá cửa và đột nhập một tòa nhà thương mại, và một tội danh đại đạo chích?” Buckley hỗ trợ hỏi.

“Vâng, thưa ông, đúng vậy.”

“Các thành viên đại bồi thẩm đoàn, bây giờ quý vị có quyền hỏi bất cứ câu gì. Đây là phiên tòa của quý vị. Có câu hỏi nào không ạ?”

“Vâng, hắn có tiền án không?” Mack Loyd Crowell, một người lái xe tải đã thất nghiệp, cất tiếng hỏi.

“Không,” viên đội trưởng đáp. “Đây là lần phạm tội đầu tiên của hắn.”

“Hỏi hay đấy, phải luôn luôn hỏi câu này vì nếu chúng có tiền án thì ta mới có thể truy tố chúng như các tội phạm thông thường.” Buckley giảng giải. “Còn câu hỏi nào nữa không? Không ư? Tốt. Đến lúc này, ai đó phải làm kiến nghị khởi tố để đại bồi thẩm đoàn được trả về một cáo trạng thực chống lại Fedison Bulow.”

Im lặng. Mười tám người dán mắt nhìn chiếc bàn, chờ đợi ai đó khác đưa ra bản kiến nghị. Buckly cũng chờ. Im lặng. Tuyệt thật đấy, ông nghĩ. Một đại bồi thẩm đoàn bạc nhược. Một đám những sinh linh rụt rè, sợ phát biểu. Những người theo chủ nghĩa tự do. Sao ông không thể có được một đại bồi thẩm đoàn khát máu, háo hức lập kiến nghị để truy tố bất cứ ai vì bất cứ điều gì nhỉ?

“Bà Gossett, bà có muốn làm kiến nghị đầu tiên không, bà là trưởng nhóm của đại bồi thẩm đoàn mà?”

“Vậy thì tôi làm,” bà nói.

“Cảm ơn bà,” Buckley nói. “Ta biểu quyết nhé. Có bao nhiêu người bỏ biểu quyết truy tố Fedison Buckley về một tội danh phá cửa đột nhập một tòa nhà thương mại và một tội danh đại đạo chích? Xin mời giơ tay lên.”

Mười tám cánh tay đưa lên, và Buckley thấy nhẹ nhõm hẳn.

Viên đội trưởng trình ra bốn vụ việc còn lại ở Karaway. Mỗi bị cáo liên quan đều có tội, tựa như Bulow, và mỗi người đều nhận một cáo trạng thực đồng thuận. Buckley từ tốn dạy cho đại bồi thẩm đoàn cách thức tự vận hành. Ông khiến họ cảm thấy mình quan trọng, có quyền lực, đang gánh đỡ sức nặng của công lý. Họ trở nên hay hỏi hơn:

“Hắn có tiền án không?”

“Tiền án đó đã bao lâu rồi?”

“Khi nào hắn được ra tù?”

“Ta có thể khép cho hắn bao nhiêu tội danh?”

“Khi nào hắn bị xét xử?”

“Lúc này hắn có ở ngoài nhà giam không?”

Với năm truy tố bừa phứa, với năm cáo trạng thực mà không có bất đồng nào, với một đại bồi thẩm đoàn háo hức với vụ việc kế tiếp, với bất kể điều gì, Buckley quyết định rằng sự hào hứng đã chín muồi. Ông mở cửa, ra dấu cho Ozzie, lúc này đang đứng ngoài hành lang lặng lẽ trò chuyện với một cảnh sát và canh chừng đám phóng viên.

“Trình vụ Hailey trước,” Buckley thì thầm khi hai người gặp nhau ở cửa.

“Thưa quý bà quý ông, đây là cảnh sát trưởng Walls. Tôi chắc chắn nhiều người trong quý vị đã biết ông ta. Ông ta có nhiều vụ việc để đệ trình. Việc nào đầu tiên vậy, cảnh sát trưởng?”

Ozzie lục lọi các hồ sơ của ông. Nếu như ông đang tìm kiếm thứ gì đó thì thứ ấy có vẻ như đã bị thất lạc. Cuối cùng, ông thốt lên. “Carl Lee Hailey.”

Các bồi thẩm im lặng trở lại. Buckley quan sát họ sát sao để dò tìm phản ứng. Một lần nữa, hầu hết lại chăm chú nhìn chiếc bàn. Chẳng ai nói năng gì khi Ozzie rà soát lại các hồ sơ rồi xin cáo lui để lấy một chiếc cặp khác. Ông không có ý định sẽ trình vụ Hailey trước tiên.

Buckley luôn hãnh diện về khả năng đọc vị các bồi thẩm, khả năng quan sát khuôn mặt họ và biết chính xác họ nghĩ gì. Trong phiên tòa, ông luôn chằm chặp quan sát đại bồi thẩm đoàn, dự đoán mỗi người đang nghĩ gì. Ông thường thẩm vấn chéo những nhân chứng và không bao giờ rời mắt khỏi đại bồi thẩm đoàn. Đôi lúc ông có thể đứng dậy, đối diện khoang bồi thẩm, chất vấn một nhân chứng mà đồng thời vẫn quan sát phản ứng trên những khuôn mặt trước những câu trả lời. Sau hàng trăm phiên xử, ông rất giỏi trong việc quan sát các bồi thẩm, và ông đã biết ngay tức thì mình đang gặp rắc rối với vụ Hailey. Năm người da đen đã trở nên căng thẳng và khinh mạn hơn, cứ như thể họ sẵn sàng đón vụ này và những lập luận không tránh khỏi. Trưởng nhóm của đại bồi thẩm đoàn, bà Gossett, trông đặc biệt nhu mì khi Ozzie lẩm bẩm một mình và lật giở những trang giấy. Hầu hết những người da trắng đều có vẻ xìu xìu, ển ển, nhưng Mack Loyd Crowell—một người đàn ông trung niên trông nghiêm nghị, có dáng dấp người miền quê—thì lại tỏ ra cũng khinh mạn chẳng kém những người da đen. Crowell xô ghế của ông ra sau rồi bước ra cửa sổ nhìn xuống phía bắc của sân tòa. Buckley không đọc được Crowell chính xác lắm, nhưng ông biết ông ta đang bối rối.

“Ông cảnh sát trưởng, ông có bao nhiêu nhân chứng trong vụ Hailey vậy?” Buckley hỏi, có phần bồn chồn.

Ozzie ngưng lật giở những trang giấy. “Vâng… chỉ có mỗi mình tôi. Chúng tôi có thể đưa ra thêm một nhân chứng khác nếu cần.”

"Được rồi, được rồi,” Buckley đáp. “Chỉ cần ông thuật lại vụ việc cho chúng tôi.”

Ozzie ngả ra sau, bắt chéo chân. “Coi nào, ông Rufus, ai mà chả biết vụ này. Nó lên TV cả tuần nay rồi còn gì.”

“Chỉ xin ông cho chúng tôi biết bằng chứng.”

“Bằng chứng. Được thôi. Cách đây đúng một tuần, Carl Lee Hailey—nam da đen, ba mươi bảy tuổi—đã bắn chết một người là Billy Ray Cobb và một người nữa là Pete Willard. Và ông ta đã bắn một nhân viên công lực là DeWayne Looney, người hiện vẫn nằm viện với một chân bị cưa. Vũ khí là khẩu súng máy M-16, hàng lậu. Chúng tôi đã thu hồi được nó, và các dấu vân tay trên đó khớp với của ông Hailey. Tôi có một bản khai ký bởi cảnh sát Looney, trong đó ông tuyên thệ rằng người đàn ông xả súng chính là Carl Lee Hailey.

Còn có một nhân chứng nữa tên là Murphy, cái ông nhỏ thó, khập khiễng, nói lắp khủng khiếp, làm lao công ở tòa án. Tôi có thể đưa ông ta đến nếu ông muốn.”

“Có câu hỏi nào không?” Buckley ngắt ngang.

Vị D.A. sốt ruột nhìn các bồi thẩm, trong khi họ sốt ruột nhìn viên cảnh sát trưởng. Crowell đứng quay lưng lại những người khác, nhìn ra ngoài cửa sổ.

“Có câu hỏi nào không?” Buckley lặp lại.

“Có,” Crowell đáp khi quay lại nhìn vị D.A. rồi nhìn Ozzie. “Mấy gã mà ông ta bắn, chúng hiếp cô con gái nhỏ của ông ta, đúng vậy không ông cảnh sát?”

“Chúng tôi khá chắc chắn chúng đã làm vậy,” Ozzie đáp.

“Có một gã đã thú nhận phải không?”

“Phải.”

Crowell chậm rãi bước, xấc xược, ngạo mạn. Ông băng qua căn phòng, dừng lại ở đầu bàn bên kia và nhìn xuống Ozzie. “Ông có con nhỏ không vậy, cảnh sát trưởng?”

“Có.”

“Ông có con gái còn bé không?”

“Có.”

“Giả dụ nó bị cưỡng hiếp và ông tóm được gã đã gây ra chuyện đó. Ông sẽ làm gì?”

Ozzie ngập ngừng, lo lắng nhìn Buckley, người mà lúc này cần cổ đã chuyển sang đỏ dừ.

“Tôi không nhất thiết phải trả lời câu này,” Ozzie đáp.

“Vậy ư? Ông đến trước đại bồi thẩm đoàn để tuyên thệ, đúng không? Ông là nhân chứng, đúng không? Trả lời câu hỏi đi!”

“Tôi không biết phải trả lời sao.”

“Thôi nào, cảnh sát trưởng. Trả lời thẳng cho chúng tôi đi. Ông sẽ làm gì?”

Ozzie cảm thấy lúng túng, bối rối và giận dữ trước người đàn ông lạ mặt này. Ông muốn nói sự thật lắm chứ, muốn giải thích chi li rằng ông sẽ vui mừng như thế nào nếu được thiến, được xẻ thịt, được giết chết bất cứ tên biến thái nào dám động đến cô con gái nhỏ của ông. Nhưng ông không thể. Đại bồi thẩm đoàn có thể đồng ý hoặc từ chối truy tố Carl Lee. Không phải ông muốn ông ta bị truy tố, nhưng ông biết cáo trạng là thứ cần thiết. Ông bẽn lẽn nhìn Buckley, người đang vã mồ hôi và lúc này đã ngồi xuống. Crowell nhìn xoáy vào viên cảnh sát trưởng với sự hăm hở và sốt sắng của một luật sư vừa bắt tại trận một nhân chứng đang nói dối rành rành.

“Coi nào, cảnh sát trưởng,” Crowell giễu cợt. “Chúng tôi đang nghe ông nói đây. Nói sự thật đi. Ông sẽ làm gì với gã cưỡng dâm? Nói đi. Coi nào.”

Buckley gần như hoảng loạn. Vụ việc lớn nhất trong sự nghiệp tuyệt vời của ông đang sắp sửa tiêu tùng, không phải ở trên tòa mà là trong phòng của đại bồi thẩm đoàn, ngay ở vòng một, và lại còn tiêu tùng trong tay một người lái xe tải thất nghiệp nữa chứ. Ông đứng dậy, chật vật tìm lời. “Nhân chứng không nhất thiết phải trả lời.”

Crowell quay lại, quát thẳng vào mặt Buckley, “Ông ngồi xuống và câm miệng đi! Chúng tôi không nhận lệnh nào của ông cả. Nếu muốn, chúng tôi có thể truy tố ông, có đúng vậy không?”

Buckley ngồi xuống, ngây ra nhìn Ozzie. Crowell là một tay cừ khôi. Ông ta quá thông minh để hiện diện trong đại bồi thẩm đoàn. Hẳn phải có ai đó chi tiền cho ông ta. Ông ta biết quá nhiều. Phải, đại bồi thẩm đoàn có thể truy tố bất cứ ai.

Crowell lui lại, quay trở về cửa sổ. Họ nhìn ông cho đến tận khi ông có vẻ đã nói xong.

“Ông có tuyệt đối chắc chắn ông ta đã làm chuyện đó không, Ozzie?” Lemoyne Frady, một người họ hàng xa không có liên hệ huyết thống hợp pháp với Gwen Hailey, cất tiếng hỏi.

“Vâng, tôi chắc chắn,” Ozzie chầm chậm đáp, cả hai mắt dán chặt vào Crowell.

“Và ông muốn chúng tôi truy tố ông ta vì tội gì?” ông Frady hỏi, lộ rõ sự ngưỡng mộ đối với viên cảnh sát trưởng.

“Vì hai tội danh giết người gia trọng, và một tội danh tấn công nhân viên công lực.”

“Ông đoán chừng ông ta phải ngồi tù bao nhiêu năm?” Barney Flaggs, một người da đen khác hỏi.

“Giết người gia trọng dẫn đến phòng hơi ngạt. Tấn công cảnh sát dẫn đến chung thân, không giảm khinh.”

“Và đó là điều ông muốn sao, Ozzie?” Flaggs hỏi.

“Phải, Barney, tôi nói rằng đại bồi thẩm đoàn này cần truy tố ông Hailey. Chắc chắn là vậy.”

“Còn câu hỏi nào nữa không?” Buckley cắt ngang.

“Đừng vội vàng thế chứ,” Crowell đáp khi quay về từ cửa sổ. “Tôi nghĩ ông đang tìm cách nhét vụ này vào họng chúng tôi, ông Buckley, và tôi rất bực về điều đó. Tôi muốn nói về chuyện này thêm chút nữa. Ông ngồi xuống đi, khi nào cần chúng tôi sẽ hỏi ông.”

Buckley tức tối nhìn, xỉa ngón tay. “Tôi không phải ngồi, và tôi không phải giữ im lặng gì cả!” ông hét lớn.

“Có. Có đấy, ông phải vậy,” Crowell tỉnh khô đáp với một nụ cười cay độc. “Vì nếu ông không làm vậy thì chúng tôi sẽ buộc ông đi ra. Chúng tôi có làm được vậy không, ông Buckley? Chúng tôi có quyền yêu cầu ông ra khỏi phòng này, và nếu ông từ chối thì chúng tôi sẽ đi hỏi ông thẩm phán. Ông ta sẽ buộc ông đi ra, có phải vậy không, ông Buckley?”

Rufus đứng sững, câm lặng, chưng hửng. Bụng ông quặn lại, hai đầu gối ông lâng lâng. Ông đã bị đóng băng tại chỗ.

“Cho nên, nếu ông muốn nghe nốt những gì chúng tôi bàn bạc thì hãy ngồi xuống và câm miệng đi.”

Buckley ngồi xuống cạnh người chấp hành viên mà lúc này đã tỉnh dậy.

“Cảm ơn ông” Crowell nói. “Tôi muốn hỏi quý vị một câu này. Có bao nhiêu người trong quý vị sẽ làm hoặc muốn làm điều mà ông Hailey đã làm nếu có kẻ nào đó hãm hiếp con gái của quý vị, hoặc có thể là vợ hay mẹ của quý vị? Có bao nhiêu nào? Xin hãy đưa tay lên.”

Năm sáu cánh tay bật lên, và Buckley gục đầu xuống. Crowell mỉm cười, nói tiếp, “Tôi ngưỡng mộ ông ta vì những gì ông ta đã làm. Ông ta phải rất dũng cảm. Tôi chỉ mong mình được dũng cảm như thế để làm điều mà ông ta đã làm, bởi lẽ, Chúa biết, tôi cũng muốn làm như vậy. Đôi khi, người đàn ông phải làm việc mà đàn ông phải làm. Người như thế xứng đáng nhận chiếc cúp chứ không phải là một lệnh truy tố.”

Crowell chậm rãi đi quanh bàn, thưởng ngoạn sự chú ý. “Trước khi quý vị biểu quyết, tôi muốn quý vị làm điều này. Tôi muốn quý vị nghĩ về cô bé tội nghiệp kia. Hình như nó chỉ mới lên mười. Hãy thử hình dung con bé đang nằm đó, tay bị trói quặt sau lưng, đang la khóc, van xin được gặp cha. Rồi hãy nghĩ đến hai gã côn đồ, sâu rượu, hút chích kia đang thay phiên nhau cưỡng hiếp, rồi đánh, rồi đá con bé. Khốn nạn, chúng thậm chí còn định giết con bé nữa chứ. Hãy nghĩ đến con gái của chính quý vị. Hãy thử đặt con của quý vị vào hoàn cảnh đứa bé nhà Hailey."

“Giờ thì liệu quý vị có còn nói chúng đã lãnh quá đủ cho những gì chúng đáng phải nhận? Chúng ta phải vui mừng vì chúng đã đi đời mới phải. Tôi sẽ thấy an toàn hơn nếu biết được hai gã con hoang đó không còn sống trên thế gian này để hãm hiếp và giết chết những đứa trẻ khác. Ông Hailey đã giúp chúng ta rất nhiều. Xin đừng truy tố ông ta. Hãy cho ông ta về nhà, về lại với gia đình, nơi ông ta thuộc về. Ông ta là một người đàn ông tốt đã làm một việc tốt.”

Crowell kết thúc và trở về cửa sổ. Buckley nhìn theo đầy sợ sệt.

Đợi đến khi chắc chắn Crowell đã nói xong, ông mới đứng dậy. “Thưa, ông đã nói xong chưa ạ?”

Không có câu trả lời.

“Tốt lắm. Thưa quý bà quý ông trong đại bồi thẩm đoàn. Tôi xin được giải thích đôi điều. Đại bồi thẩm đoàn không có nhiệm vụ xử án. Đó là nhiệm vụ của bồi thẩm đoàn xét xử. Ông Hailey sẽ có một vụ xử công bằng trước mười hai bồi thẩm công bằng và không thiên vị, và nếu ông ta vô tội thì ông ta sẽ được tha bổng. Nhưng việc ông ta có tội hay vô tội không phải là do đại bồi thẩm đoàn định đoạt. Quý vị sẽ quyết định việc đó sau khi nghe phiên bản chứng cứ của bên công tố để xác định liệu có khả năng cao một tội ác đã được tiến hành hay không. Giờ đây tôi đệ trình lên quý vị một tội ác được thực hiện bởi Carl Lee Hailey. Thật ra là ba tội ác đấy ạ. Ông ta đã giết hai người và làm bị thương một người nữa. Chúng tôi có những nhân chứng tận mắt.”

Buckley đang nóng máy khi ông đi vòng quanh chiếc bàn. Sự tự tin đã hồi phục. “Nhiệm vụ của đại bồi thẩm đoàn này là truy tố ông ta. Và nếu ông ta có được sự biện hộ tốt thì ông ta sẽ có cơ hội trình nó ra trước tòa. Nếu ông ta có một lý lẽ hợp pháp nào đó để làm điều mà ông ta đã làm thì hãy để ông ta chứng tỏ nó trước tòa. Tòa án là để làm những việc như thế. Công tố cáo buộc ông ta phạm tội ác, và Công tố phải chứng minh tại tòa rằng ông ta đã phạm tội. Nếu ông ta có sự bào chữa nào, và nếu ông ta thuyết phục được bồi thẩm đoàn xét xử thì ông ta sẽ được tha bổng. Tôi xin đảm bảo với quý vị. Điều đó tốt cho ông ta. Nhưng phận sự của đại bồi thẩm đoàn không phải là quyết định trả tự do cho ông Hailey trong hôm nay. Sẽ có một ngày khác để làm chuyện đó, phải không ông cảnh sát trưởng?”

Ozzie gật đầu, “Đúng vậy. Đại bồi thẩm đoàn có nhiệm vụ truy tố nếu chứng cứ được đưa ra. Bồi thẩm đoàn xét xử sẽ không kết án ông ta nếu Công tố không chứng minh được lập trường của mình, hoặc nếu ông ta có sự biện minh tốt. Nhưng đại bồi thẩm đoàn thì không phải lo những việc như thế.”

“Còn điều gì khác về đại bồi thẩm đoàn không ạ?” Buckley lo lắng hỏi. “Vậy nhé, ta cần có một đơn kiến nghị.”

“Tôi kiến nghị không truy tố ông ta vì bất cứ tội danh gì,” Crowell hét lớn.

“Tôi tán thành,” Barney Flaggs lầm bầm.

Đầu gối của Buckley run rẩy. Ông toan nói, nhưng chẳng thốt ra được điều gì. Ozzie cố nén sự vui mừng.

“Chúng ta đã có một kiến nghị và một tán thành,” bà Gossett tuyên bố. “Ai ủng hộ xin hãy đưa tay lên.”

Năm cánh tay da đen cất lên, cùng với cánh tay của Crowell. Sáu biểu quyết. Kiến nghị thất bại.

“Giờ ta phải làm sao?” bà Gossett hỏi.

Buckley nhanh nhẩu nói: “Ai đó phải kiến nghị khởi tố ông Hailey vì hai tội danh giết người gia trọng và một tội danh tấn công nhân viên công lực.”

“Vậy ta làm đi,” một người da trắng nói.

“Tôi tán thành,” một người khác nói.

“Ai ủng hộ xin đưa tay lên,” bà Gossett nói. “Tôi đếm được mười hai cánh tay. Tất cả những người không ủng hộ, cộng thêm tôi nữa, tôi đếm được là sáu người. Mười hai chọi sáu. Điều này nghĩa là sao?”

“Nghĩa là ông ta sẽ bị truy tố,” Buckley hãnh diện đáp. Ông đã thở lại bình thường, và khuôn mặt ông đã khởi sắc. Ông thì thầm với bà thư ký rồi quay sang đại bồi thẩm đoàn. “Ta hãy giải lao mười phút. Chúng ta còn khoảng hơn bốn mươi vụ án để làm việc, cho nên xin làm ơn đừng kéo dài. Tôi xin nhắc quý vị điều mà thẩm phán Noose đã nói sáng nay. Những bàn luận này là tối mật. Quý vị không được thảo luận bất cứ công việc nào của quý vị khi ra khỏi phòng này…"

“Ông ta muốn nói gì vậy” Crowell ngắt lời, “có phải là chúng ta không được nói cho bất cứ ai rằng chỉ thiếu một biểu quyết nữa là ông ta không ra được cáo trạng?”

Vị D.A. chuồn nhanh ra khỏi phòng và đóng sầm cửa lại.

Bị bao vây bởi hàng tá camera và phóng viên, Buckley đứng trước các bậc thềm của tòa án, huơ huơ các bản sao lệnh khởi tố. Ông rao giảng, dạy dỗ, lên lớp, ca ngợi đại bồi thẩm đoàn, diễn thuyết chống tội ác, lên án Carl Lee Hailey. Hãy đưa phiên xử đến. Hãy đặt bồi thẩm đoàn vào khoang. Ông cam kết sẽ có kết tội. Ông cam kết án tử hình. Ông nghiệt ngã, ông cố chấp, ông ngạo mạn, ông tự cho là mình đúng. Ông là chính bản thân ông. Buckley Muôn thuở. Một số phóng viên bỏ đi, nhưng ông vẫn ra sức. Ông tán dương bản thân, tán dương kỹ năng xét xử của mình, tán dương cái tỉ lệ chín mươi, không, chín mươi lăm phần trăm kết tội của mình. Lại thêm những phóng viên bỏ đi. Thêm những camera bấm nút tắt. Ông ca ngợi thẩm phán Noose vì sự khôn ngoan và công bằng của ông ta. Ông tôn vinh sự sáng suốt và khả năng phán xét của các bồi thẩm ở hạt Ford.

Ông là người trụ lại cuối cùng. Họ thấy mệt mỏi vì ông, và tất cả đã bỏ đi.

⚝ ✽ ⚝

[✽] Plea bargain là việc thương lượng giữa bên nguyên và bên bị để giảm hoặc hủy bỏ một số cáo buộc, nhằm đổi lấy sự thừa nhận một số cáo buộc khác.

⚝ ✽ ⚝

[✽] Mistrial là thuật ngữ pháp lý, diễn tả một phiên tòa được tuyên vô hiệu do có sai sót nghiêm trọng về quy trình, do có những bất thường hoặc do bồi thẩm đoàn không đạt được phán quyết.

⚝ ✽ ⚝

[✽] Một món ăn thịnh hành ở Bắc Mỹ, gồm trứng luộc, một hay nhiều loại thịt như thịt nguội, thịt gà tây, thịt bò, ăn với cà chua, dưa chuột và phô mai.

⚝ ✽ ⚝

[✽] Gettysburg là một thị trấn nhỏ ở Nam Pennsylvania (Hoa Kỳ), nơi diễn ra một trận đánh lớn (năm 1863) trong cuộc nội chiến ở Hoa Kỳ. Trong trận này, quân Liên bang Miền Bắc của tướng Meade đã đánh bại quân Liên minh Miền Nam của tướng Lee.

⚝ ✽ ⚝

[✽] Nhân vật hoạt hình trong bộ phim The Adventures of Ichabod and Mr. Toad

⚝ ✽ ⚝

[✽] . Adjuster: người có trách nhiệm phân bổ tổn thất chung, xin tạm dịch là “điều chỉnh viên”.