← Quay lại trang sách

Chương 22

Đã năm tuần kể từ sau vụ xả súng giết Billy Ray Cobb và Pete Willard. Phiên tòa còn bốn tuần phía trước. Ba nhà trọ ở Clanton đã được đặt kín phòng cho tuần lễ diễn ra phiên tòa và tuần lễ trước đó. Best Western là nhà trọ lớn nhất và đẹp nhất. Nó thu hút cánh báo chí ở Memphis và Jackson. Nhà trọ Clanton Court thì có quầy bar và quán ăn tốt nhất. Nó được đặt kín bởi các phóng viên từ Atlanta, Washington, và New York. Ở nhà trọ East Side Motel kém duyên dáng hơn, giá phòng đã tăng lên gấp đôi một cách bất thường trong tháng Bảy, tuy vậy nó vẫn cứ hết phòng.

Thoạt đầu, thị trấn cũng thân thiện với những kẻ từ bên ngoài tới, phần đông khá thô lỗ và nói bằng những kiểu phát âm khác. Nhưng những mô tả của người dân ở Clanton đã trở nên ít tâng bốc hơn, và phần lớn người địa phương nay xoay sang dùng mật mã của sự im lặng. Một quán cà phê náo nhiệt sẽ bỗng chốc trở nên im ắng khi có người lạ bước vào và ngồi xuống. Những tiểu thương quanh quảng trường cung cấp rất ít sự chỉ dẫn cho những ai không quen mặt. Các nhân viên ở tòa án trở nên câm điếc trước các câu hỏi được đặt ra dễ đến hàng ngàn lần bởi những kẻ xâm nhập ổn ào. Ngay cả các phóng viên Memphis và Jackson cũng phải chật vật mới moi ra được điều gì đó mới mẻ từ những người địa phương. Người dân đã chán ngấy việc bị mô tả như những kẻ lạc hậu, những ngáo vườn phân biệt chủng tộc. Họ phớt lờ những người ngoài mà họ không tin cậy và chỉ tập trung vào công việc của mình.

Quầy bar ở Clanton Court trở thành nơi giải khát của các phóng viên. Nó là một trong những nơi ở thị trấn mà họ có thể đến tìm một khuôn mặt thân thiện hay một cuộc chuyện trò tốt đẹp. Họ ngồi trong các khoang dưới những màn hình TV lớn, tán gẫu về cái thị trấn bé tí và về phiên tòa sắp diễn ra. Họ so sánh các ghi chép, phóng sự, tít tựa, và tin đồn của nhau. Và họ uống cho đến khi say mèm vì ở Clanton chẳng có gì khác để làm khi trời tối.

Các nhà trọ đã chật kín vào tối Chủ nhật 23 tháng Sáu, đêm trước hôm có cuộc điều trần về việc thay đổi địa điểm. Sáng sớm thứ Hai, họ tụ tập ở quán ăn của nhà trọ Best Western để uống cà phê và bàn tán. Cuộc điều trần là cuộc đụng độ lớn đầu tiên, và nhiều khả năng tòa sẽ có hành động đầu tiên trước khi phiên xét xử diễn ra. Một tin đồn đã rộ lên, nói rằng Noose bị bệnh và không muốn xử vụ này, rằng ông sẽ yêu cầu Tòa Thượng Thẩm chỉ định một thẩm phán khác. Chỉ là tin đồn, không có nguồn nào cả và không có gì là chắc chắn, một phóng viên từ Jackson nói vậy. Lúc tám giờ, họ vác camera và micro ra quảng trường. Một nhóm đã tụ tập ở bên ngoài nhà giam, nhóm khác ở cửa hậu của tòa án, nhưng phần lớn đi thẳng vào phòng xử. Đến tám giờ ba mươi, phòng xử đã đầy nghẹt.

Từ ban công văn phòng của mình, Jake quan sát các hoạt động quanh tòa án. Tim anh đập nhanh hơn thường lệ, và bụng anh nôn nao. Anh mỉm cười. Anh đã sẵn sàng để đối chọi với Buckley, sẵn sàng cho các camera nào.

Noose nhìn xuống qua chóp mũi, bên trên cặp mục kỉnh, rồi nhìn quanh phòng xử chật cứng. Mọi người đã vào vị trí.

“Tòa đang có trước mắt kiến nghị của bên bị về việc thay đổi địa điểm xét xử,” ông bắt đầu nói. “Phiên tòa quan trọng đã được thiết lập vào ngày thứ Hai, 22 tháng Bảy, tức bốn tuần kể từ hôm nay theo thời khóa biểu của tôi. Tôi đã thiết lập thời hạn chót cho việc thảo và nộp kiến nghị. Tôi tin rằng, kể từ đây đến phiên xử, sẽ chỉ có hai thời hạn chót này mà thôi.”

“Đúng vậy, thưa Ngài” Buckley hùng hổ nói, nửa đứng nửa ngồi sau chiếc bàn của ông. Jake nhíu mắt, lắc đầu.

“Cảm ơn ông Buckley,” Noose lạnh lùng nói. “Bên bị đã đệ trình một thông báo phù hợp rằng họ dự định sẽ sử dụng quyền bào chữa bằng cách viện dẫn lý do tâm thần. Ông ta đã đi khám ở Whitfield chưa?”

“Dạ rồi, thưa Ngài, hồi tuần qua,” Jake đáp.

“Ông ta có sử dụng bác sĩ tâm thần của mình không?”

“Dĩ nhiên, thưa Ngài.”

“Ông ta đã được bác sĩ tâm thần của mình khám chưa?”

“Dạ rồi.”

“Tốt. Vậy thì chuyện này coi như xong. Kiến nghị thứ hai mà ông định đệ trình là gì vậy?”

“Thưa Ngài, chúng tôi dự định thảo kiến nghị yêu cầu thư ký tòa triệu tập các bồi thẩm triển vọng nhiều hơn số lượng bình thường.”

“Công tố sẽ chống lại kiến nghị này.” Buckley đứng bật dậy la lối.

“Ngồi xuống đi, ông Buckley!” Noose nghiêm khắc nói, tháo cặp mục kỉnh xuống, nhìn xoáy vào viên D.A. “Làm ơn đừng quát vào tôi lần nào nữa. Dĩ nhiên ông chống lại điều đó. Ông sẽ chống lại mọi kiến nghị mà bên bị đệ trình. Đó là công việc của ông. Đừng ngắt lời tôi lần nữa. Ông sẽ có dư dả cơ hội để trình diễn trước truyền thông sau khi chúng ta giải lao.”

Buckley ngồi phịch xuống ghế, che khuôn mặt đỏ bừng. Noose chưa bao giờ quát tháo ông như thế.

“Tiếp tục đi, ông Brigance.”

Jake sửng sốt trước sự ác ý của Ichabod. Trông ông mệt mỏi và bệnh tật. Có lẽ do áp lực.

“Chúng tôi có thể sẽ có vài phản đối bằng văn bản đối với chứng cứ từ trước.”

“Kiến nghị trong giới hạn hả?”

“Vâng, thưa ông.”

“Chúng ta sẽ nghe chuyện này tại phiên tòa. Còn gì khác không?”

“Tạm thời không.”

“Bây giờ, ông Buckley, bên công tố có kiến nghị nào không?”

“Tôi chưa nghĩ ra,” Buckley ỉu xìu nói.

“Tốt. Tôi muốn đảm bảo sẽ không có gì bất ngờ từ đây đến phiên tòa. Tôi sẽ ở đây một tuần trước phiên tòa để nghe và quyết định mọi vấn trước xét xử. Tôi kỳ vọng mọi kiến nghị được đệ trình lập tức và khẩn trương để chúng tôi có thể thắt lại mọi mối dây lỏng lẻo trước ngày hai mươi hai.”

Noose lật giở tập hồ sơ của ông rồi nghiền ngẫm kiến nghị đổi địa điểm xét xử, Jake thì thầm với Carl Lee. Sự hiện diện của ông trong buổi điều trần là không cần thiết, nhưng ông đã đòi ra bằng được. Gwen và ba cậu con trai ngồi ở dãy ghế đầu, ngay phía sau cha chúng. Tonya không có mặt trong phòng xử.

“Ông Brigance, kiến nghị của ông có vẻ hợp thức đấy. Có bao nhiêu nhân chứng vậy?”

“Ba, thưa Ngài.”

“Ông Buckley, ông sẽ gọi bao nhiêu người?”

“Chúng tôi có hai mươi mốt người,” Buckley hãnh diện nói. “Hai mươi mốt!” viên thẩm phán la lên.

Buckley co rúm lại, liếc nhìn Musgrove. “Nh… nhưng có lẽ chúng tôi không cần hết tất cả. Thật ra tôi cũng biết là không cần tất cả.”

“Ông Buckley, hãy chọn ra năm người tốt nhất của ông. Tôi không định ngồi nghe hết cả ngày đâu.”

“Vâng, thưa Ngài.”

“Ông Brigance, ông yêu cầu thay đổi địa điểm. Đó là kiến nghị của ông. Ông cứ việc tiến hành.”

Jake đứng dậy, chầm chậm băng qua phòng xử, bọc sau lưng Buckley để đi đến chiếc bục gỗ trước khoang bồi thẩm.

“Xin tòa cho phép, thưa Ngài. Ông Hailey đã yêu cầu phiên xử ông được di chuyển khỏi hạt Ford. Lý do rất dễ hiểu: tiếng tăm của vụ này sẽ ngăn cản một phiên xử công bằng. Những công dân tốt của hạt này hiện có những định kiến khác nhau về sự có tội hay không có tội của Carl Lee Hailey. Ông ta bị cáo buộc giết chết hai người đàn ông, cả hai đều sinh ra nơi đây và rời xa gia đình nơi đây. Cuộc đời của họ không để lại danh tiếng nào, nhưng cái chết của họ thì lại rất nổi tiếng. Ông Hailey được rất ít người ngoài cộng đồng của ông ta biết đến cho đến khi xảy ra vụ này. Nay, mọi người trong hạt đều biết ông ta là ai, biết gia đình ông ta, biết con gái của ông ta, biết điều gì đã xảy ra với cô bé, và biết hầu hết mọi chi tiết của cái được cho là tội ác của ông ta. Sẽ không thể nào tìm được mười hai người ở hạt Ford không có định kiến đối với vụ này. Phiên tòa này cần phải được diễn ra ở một địa điểm khác của bang, nơi người dân không quá quen thuộc với các sự kiện…”

“Ông gợi ý xử ở đâu?” viên thẩm phán cắt ngang.

“Tôi sẽ không đề xuất một hạt cụ thể nào, nhưng nơi đó cần phải càng ở xa càng tốt. Có lẽ là ở Gulf Coast.”

“Tại sao?”

“Vì những lý do hiển hiện, thưa Ngài. Gulf Coast ở cách đây đến sáu trăm năm mươi cây số, và tôi tin chắc rằng người dân dưới đó không hay biết gì nhiều về người dân quanh đây.”

“Và ông nghĩ người dân ở nam Mississippi chưa nghe gì về vụ này?”

“Tôi chắc chắn họ có nghe. Nhưng họ ở xa hơn nhiều.”

“Nhưng họ có TV và báo chí mà, phải không ông Brigance?”

“Hiển nhiên là họ có.”

“Ông tin mình có thể đến bất cứ hạt nào trong bang này và tìm ra được mười hai người chưa từng nghe chi tiết về vụ án?”

Jake nhìn cuốn sổ ghi chép của anh. Anh có thể nghe tiếng sột soạt của người họa sĩ đang phác họa trên tập giấy phía sau lưng. Từ khóe mắt, anh có thể thấy Buckley đang toét miệng cười. “Việc đó sẽ không dễ,” anh lặng lẽ nói.

“Mời nhân chứng đầu tiên của ông đi.”

Harry Rex Vonner tuyên thệ rồi ngồi vào chiếc ghế trên bục nhân chứng. Chiếc ghế xoay bằng gỗ phát ra tiếng kẽo kẹt dưới tải trọng của ông. Ông thổi vào chiếc micro và một tiếng rít lớn vang vọng khắp phòng xử. Ông mỉm cười và gật đầu với Jake.

“Xin vui lòng cho biết tên?”

“Harry Rex Vonner”.

“Địa chỉ?”

“Tám-bốn-chín-ba đường Cedarbrush, Clanton, Mississippi.”

“Ông sống ở Clanton đã bao lâu rồi?”

“Cả cuộc đời của tôi. Bốn mươi sáu năm.”

“Công việc của ông?”

“Tôi là luật sư. Tôi đã được cấp phép từ hai mươi hai năm nay.”

“Ông đã từng gặp Carl Lee Hailey chưa?”

“Một lần.”

“Ông biết gì về ông ta?”

“Ông ta bị cho là đã bắn hai người đàn ông, Billy Ray Cobb và Pete Willard, và làm bị thương một cảnh sát, DeWayne Looney.”

“Ông có quen biết gì mấy người này không?”

“Không quen biết cá nhân, nhưng tôi có biết Billy Ray Cobb.”

“Ông biết tin vụ xả súng bằng cách nào?”

“Vâng, nó diễn ra hôm thứ Hai, tôi tin vậy. Hôm đó tôi đang ở tòa án, tại tầng trệt, đang kiểm tra hồ sơ đất đai trong văn phòng của thư ký, thì nghe có tiếng súng nổ. Tôi chạy ra hành lang và thấy mọi thứ náo loạn hết cả lên. Tôi hỏi cảnh sát và ông này bảo tôi rằng mấy gã đó đã bị giết gần cửa hậu của tòa án. Tôi lảng vảng ở đó một lúc, và khá nhanh chóng đã nghe tin đồn rằng hung thủ chính là cha của cô bé bị hãm hiếp.”

“Phản ứng đầu tiên của ông là gì?”

“Tôi thấy sốc, như phần lớn mọi người thôi. Nhưng tôi cũng từng bị sốc khi lần đầu tiên nghe nói về vụ hãm hiếp.”

“Ông biết ông Hailey bị bắt từ lúc nào?”

“Muộn hơn, trong đêm hôm đó.”

“Ông thấy gì trên TV?”

“Vâng, tôi đã xem rất nhiều. Đó là những bản tin từ các đài địa phương ở Memphis và Tupelo. Chúng tôi đã nối cáp, ông biết đấy, cho nên tôi xem được tin tức ở cả New York, Chicago, và Atlanta. Hầu như tất cả các kênh đều đưa tin tức nào đó về vụ xả súng và bắt giữ. Có những đoạn phim quay cảnh tòa án và nhà giam. Đó là một vụ lớn. Một vụ lớn nhất từng xảy ra ở Clanton, Mississippi.”

“Ông phản ứng thế nào khi biết cha của cô bé được cho là đã gây ra vụ xả súng?”

“Đó không phải là một ngạc nhiên lớn đối với tôi. Ý tôi là, chúng ta cách chi đó đều hình dung thủ phạm là ông ta. Tôi ngưỡng mộ ông ta. Tôi cũng có con nhỏ nên tôi có thiện cảm với những gì ông ta làm. Tôi hiện vẫn ngưỡng mộ ông ta.”

Buckley đứng bật dậy. “Phản đối! Vụ cưỡng hiếp là không liên quan!”

Noose lại gỡ cặp mục kính xuống, giận dữ nhìn viên D.A. Nhiều giây trôi qua, Buckley vẫn nhìn chằm chặp chiếc bàn. Ông chuyển trọng lượng từ chân này sang chân kia rồi ngồi xuống. Noose khom tới trước, nhìn xuống bục.

“Ông Buckley, xin đừng quát tháo vào mặt tôi. Nếu ông còn tái diễn, cầu Chúa phù hộ, tôi sẽ coi khinh ông. Ông có thể đúng, vụ hãm hiếp có thể là không liên quan. Nhưng đây đâu phải là phiên xét xử, đúng không nhỉ? Đây đơn giản chỉ là phiên điều trần, đúng không nhỉ? Chúng ta không có bồi thẩm đoàn trong khoang, có đúng vậy không? Ông bị bác bỏ và đã vi phạm quy tắc. Giờ thì hãy ngồi yên đi. Tôi biết điều này không dễ trước dạng thính giả này, nhưng tôi khuyên ông hãy ngồi yên trừ phi có điều gì đó thực sự đáng nói. Khi đó, ông có thể đứng dậy, lễ phép và điềm đạm cho tôi biết ông nghĩ gì trong đầu.”

“Xin cảm ơn Ngài,” Jake nói và mỉm cười với Buckley.

“Giờ thì, ông Vonner, như tôi đang hỏi, ông biết nhiều đến đâu về vụ hãm hiếp?”

“Chỉ biết những gì tôi nghe được.”

“Và đó là gì?”

Buckley đứng dậy và khom xuống như một võ sĩ sumo Nhật Bản. “Xin phép Ngài,” ông nhẹ giọng và ngọt ngào nói, “tôi muốn phản đối điểm này, nếu như tòa cho phép. Nhân chứng chỉ tuyên thệ những gì ông ta biết trước tiên chứ không phải là nghe từ người khác.”

Noose đáp lại cũng ngọt ngào không kém. “Cảm ơn ông Buckley. Phản đối của ông được ghi nhận, và ông bị bác bỏ. Xin vui lòng tiếp tục, ông Brigance.”

“Xin cảm ơn Ngài.”

“Ông nghe được gì về vụ hãm hiếp?”

“Cobb và Willard đã tóm cô bé nhà Hailey, lôi cô bé vào đâu đó trong rừng. Họ đã say rượu, họ trói cô bé vào một thân cây, liên tục cưỡng hiếp rồi tìm cách treo cổ cô bé. Họ thậm chí còn tiểu tiện lên cô bé.”

“Họ làm gì cơ?” Noose hỏi.

“Họ đái lên cô bé, thưa thẩm phán.”

Phòng xử xôn xao trước tiết lộ mới này. Jake chưa bao giờ nghe chuyện đó, Buckley cũng chưa nghe chuyện đó, và hiển nhiên là không ai hay biết được ngoại trừ Harry Rex. Noose lắc đầu rồi gõ nhẹ chiếc búa của ông.

Jake nguệch ngoạc gì đó trên cuốn sổ ghi chép của anh, ngac nhiên trước kiến thức kỳ bí của người bạn.

“Từ đâu ông biết được hãm hiếp?”

“Từ khắp thị trấn. Nó là kiến thức chung. Các cảnh sát đã cho biết chi tiết vào sáng hôm sau tại quán Coffee Shop. Ai cũng biết cả.”

“Đó là kiến thức chung khắp trong hạt?”

“Vâng. Trong một tháng qua tôi chưa hề nói chuyện với bất kỳ người nào không biết chi tiết về vụ hãm hiếp.”

“Hãy kể cho chúng tôi ông biết gì về vụ xả súng.”

“Vâng, như tôi nói, đó là vào chiều thứ Hai. Mấy gã kia đang ở đây, trong phòng xử này, để nghe điều trần về việc tại ngoại, tôi tin vậy, và khi rời phòng xử thì họ bị còng tay và được các cảnh sát dẫn xuống cầu thang. Trong lúc họ đi xuống thì ông Hailey nhảy ra từ phòng lao công với khẩu M-16. Họ bị giết chết, còn DeWayne Looney thì bị trúng đạn. Một khúc chân của ông ta đã bị cưa.”

“Chính xác thì chuyện đó diễn ra ở đâu?”

“Ngay bên dưới chúng ta đây, ở lối cửa hậu. Ông Hailey nấp trong phòng lao công, rồi đơn giản bước ra và khai hỏa.”

“Ông có tin đó là thật không?”

“Tôi biết đó là thật.”

“Từ đâu ông biết tất cả những điều đó?”

“Tôi nghe đây đó. Khắp quanh thị trấn. Trên báo chí. Ai cũng biết cả.”

“Ông nghe thảo luận về nó từ đâu?”

“Ở khắp mọi nơi. Trong các quán bar, trong nhà thờ, tại ngân hàng, ở các tiệm giặt ủi, ở quán Tea Shoppe, ở các tiệm cà phê quanh thị trấn. Khắp mọi nơi.”

“Ông đã từng nói chuyện với người nào tin ông Hailey không giết Billy Ray Cobb và Pete Willard không?”

“Không. Sẽ không tìm được bất kỳ người nào trong hạt này tin rằng ông ta không làm điều đó.”

“Phần lớn những người quanh đây có thiên kiến về việc ông ta có tội hay vô tội không?”

“Bất cứ ai cũng đều có thiên kiến. Không có ai là nước đôi trong chuyện này. Đó là một đề tài nóng, và mọi người đều có thiên kiến của mình.”

“Theo ý kiến của ông, liệu ông Hailey có nhận được phiên xử công bằng ở hạt Ford không?”

“Không, thưa ông. Ông khó mà tìm ra được ba người trong ba chục ngàn người chưa có thiên kiến nào về việc theo bên này hay bên kia. Ông Hailey đã bị phán xét sẵn rồi. Đơn giản là không có cách gì tìm ra được một bồi thẩm đoàn vô tư.”

“Cảm ơn ông Vonner. Không có câu hỏi nào thêm, thưa Ngài.”

Buckley vuốt mái tóc hất ngược của ông, dùng ngón tay quệt trên tai để đảm bảo từng sợi tóc đã đâu vào đó. Ông bước đầy ngụ ý đến bục nhân chứng.

“Ông Vonner,” ông gằn giọng đẩy uy nghi. “Ông có thiên kiến từ trước với Carl Lee Hailey phải không?”

“Chết tiệt, đúng như vậy.”

“Làm ơn cẩn thận lời nói,” Noose nhắc nhở.

“Và nhận định của ông là gì?”

“Ông Buckley, để tôi giải thích cho ông theo cách này nhé. Và tôi sẽ nói một cách thận trọng và từ tốn để ông hiểu. Nếu tôi là cảnh sát trưởng thì tôi sẽ không bắt ông ta. Nếu tôi ở trong đại bồi thẩm đoàn thì tôi sẽ không truy tố ông ta. Nếu tôi là thẩm phán thì tôi sẽ không xử ông ta. Nếu tôi là D.A. thì tôi sẽ không khởi tố ông ta. Nếu tôi ở trong bồi thẩm đoàn xét xử thì tôi sẽ biểu quyết trao chìa khóa thị trấn cho ông ta, tặng cho ông ta một tấm bằng khen để ông ta treo trên tường, và tôi sẽ để ông ta về lại với gia đình. Và, thưa ông Buckley, nếu con gái tôi chẳng may mà bị hãm hiếp, tôi chỉ mong mình có đủ can đảm để làm như ông ta đã làm.”

“Tôi hiểu. Ông nghĩ mọi người cần phải mang theo súng và giải quyết tranh chấp bằng đạn dược, đúng vậy không?”

“Tôi nghĩ trẻ em có quyền không bị hãm hiếp, và cha mẹ của chúng có quyền bảo vệ chúng. Tôi nghĩ những bé gái là rất đặc biệt. Nếu con gái tôi bị trói vào thân cây và bị hãm hiếp tập thể bởi hai gã ngáo đá thì tôi chắc chắn điều đó sẽ làm tôi phát điên. Tôi nghĩ những ông bố tốt, những ông bố đàng hoàng tử tế, phải có quyền hiến định được hành quyết những tên biến thái đã chạm đến con cái của họ. Và tôi nghĩ ông là một thằng hèn nói láo nếu ông nói ông không muốn giết chết kẻ đã hãm hiếp con gái ông.”

“Làm ơn đi, ông Vonner!” Noose cất tiếng.

Buckley chật vật kiềm chế nhưng vẫn giữ được bình tĩnh. “Ông rõ ràng rất xúc động về vụ này, phải không?”

“Ông rất sâu sắc đấy.”

“Và ông muốn thấy ông ta được tha bổng, phải không?”

“Tôi sẵn sàng trả tiền cho điều đó, nếu như tôi có.”

“Và ông nghĩ ông ta có cơ hội được tha bổng cao hơn nếu được xử ở một hạt khác, phải không?”

“Tôi nghĩ ông ta có quyền được hưởng một bồi thẩm đoàn hợp thành từ những người không hề hay biết gì về vụ án trước khi phiên tòa bắt đầu.”

“Ông muốn ông ta được tha bổng, phải không?”

“Thì tôi đã nói rồi mà.”

“Và ông chắc chắn đã có nói chuyện với những người muốn ông ta được tha bổng?”

“Tôi đã có nói chuyện với nhiều người như vậy.”

“Có những người nào ở hạt Ford sẽ biểu quyết truy tố ông ta không?”

“Dĩ nhiên là có. Nhiều lắm. Ông ta da đen mà; phải không nhỉ?”

“Trong tất cả các thảo luận của ông quanh hạt, ông có nhận ra một đa số rõ rệt ủng hộ bên này hay bên kia không?”

“Không thực sự.”

Buckley nhìn cuốn sổ của ông rồi làm vài ghi chép. “Ông Vonner, Jake Brigance có phải là bạn thân của ông không?”

Harry Rex mỉm cười, đưa mắt nhìn Noose. “Tôi là một luật sư, ông Buckley ạ. Bạn bè của tôi chỉ rất ít và khi có khi không, nhưng ông ta là một trong những người bạn của tôi. Vâng, thưa ông.”

“Và ông ta yêu cầu ông đến đây để tuyên thệ?”

“Không. Tôi chỉ mới vừa tình cờ bị vấp chân trong phòng xử, và té vào chiếc ghế này. Tôi không hề biết quý vị có một phiên điều trần sáng hôm nay.”

Buckley quẳng cuốn sổ ghi chép của ông lên bàn và ngồi xuống. Harry Rex được miễn.

“Mời nhân chứng thứ hai của ông đi,” Noose ra lệnh.

“Mời giám mục Ollie Agee,” Jake nói.

Vị giám mục được đưa ra từ phòng nhân chứng và được đặt ngồi vào ghế nhân chứng. Jake đã gặp ông tại nhà thờ của ông một ngày trước đó với một danh sách các câu hỏi. Ông muốn tuyên thệ. Cả hai không nói năng gì về các luật sư của NAACP.

Ông giám mục là một nhân chứng tuyệt vời. Chất giọng sâu và du dương của ông không cần đến micro để lan tỏa khắp phòng xử. Đúng, ông có biết các chi tiết vụ hãm hiếp và cả vụ xả súng nữa. Gia đình họ là các con chiên thuộc nhà thờ của ông. Ông đã biết họ từ nhiều năm lắm rồi, họ giống như người nhà của ông vậy; ông đã nắm tay họ, chia sẻ nỗi khổ đau của họ sau vụ hãm hiếp. Có, ông có nói chuyện với vô số người sau khi vụ đó xảy ra, và từng người đều có ý kiến riêng về việc có tội hay không có tội. Ông cùng hai mươi hai mục sư da đen là thành viên của Hội đồng, và tất cả họ đều có nói về vụ Hailey. Phải, ở hạt Ford không có ai là không biết cả. Một phiên xử công bằng không thể nào có được ở hạt Ford, đó là ý kiến của ông.

Buckley nêu một câu hỏi. “Giám mục Agee, ông có từng nói chuyện với người da đen nào sẽ biểu quyết truy tố Carl Lee Hailey không?”

“Không, thưa ông, tôi chưa từng.”

Vị giám mục được miễn. Ông ngồi vào chiếc ghế trong phòng xử giữa hai đồng sự trong Hội đồng.

“Mời nhân chứng kế tiếp,” Noose phán.

Jake mỉm cười với viên D.A. rồi công bố, “Cảnh sát trưởng Ozzie Walls.”

Buckley và Musgrove lập tức chụm đầu vào nhau thì thào. Ozzie ở vào phía bên họ, phía trật tự trị an, phía bên nguyên. Giúp bên bị không phải là việc của ông. Chứng tỏ không một gã mọi đen nào là đáng tin cả, Buckley nghĩ. Chúng bênh vực nhau khi biết mình có tội. Jake và Ozzie đi qua những hỏi đáp về vụ hãm hiếp và lý lịch của Cobb và Willard. Cuộc trao đổi rất nhàm chán, lặp đi lặp lại, và Buckley muốn phản đối. Nhưng ông đã gặp quá đủ phiền phức trong một ngày. Jake cảm thấy Buckley sẽ không rời khỏi chiếc ghế của ông nên anh dừng vụ hãm hiếp và những chi tiết máu me. Cuối cùng, Noose cũng đã ngán ngẩm.

“Làm ơn nhanh lên đi, ông Brigance.”

“Vâng, thưa Ngài. Cảnh sát trưởng Walls, ông có bắt Carl Lee Hailey không?”

“Tôi có.”

“Ông có tin ông ta giết Billy Ray Cobb và Pete Willard không?”

“Tôi có.”

“Ông có biết ai trong hạt này tin ông ta không bắn họ không?”

“Không.”

“Phải chăng trong hạt này có sự tin tưởng rộng khắp rằng ông Hailey đã giết họ?”

“Vâng. Mọi người đều tin như thế. Ít ra là tất cả những ai tôi gặp.”

“Cảnh sát trưởng, ông có di chuyển nhiều trong hạt này không?”

“Có. Công việc của tôi là phải biết chuyện gì đang xảy ra.”

“Và ông đã nói chuyện với nhiều người?”

“Rất nhiều.”

“Ông có gặp ai chưa từng nghe nói gì về vụ Carl Lee Hailey không?”

Ozzie dừng lại trong giây lát rồi chầm chậm đáp. “Ai đó phải điếc, phải câm, phải mù mới không hay biết gì về vụ Carl Lee Hailey.”

“Ông có từng gặp ai không có thiên kiến gì về việc có tội hay không có tội?”

“Không có ai như vậy trong hạt này.”

“Liệu ông ta có được hưởng một phiên xử công bằng ở đây không?”

“Chuyện đó tôi không biết. Tôi chỉ biết không thể nào tìm được mười hai người không hay biết gì về vụ hãm hiếp và xả súng.”

“Không còn câu hỏi nào thêm,” Jake nói với Noose.

“Ông ta là nhân chứng cuối cùng của ông?”

“Vâng, thưa ông.”

“Có hỏi chéo gì không, ông Buckley?”

Buckley ngồi tại chỗ, lắc đầu.

“Tốt,” Ngài nói. “Ta hãy tạm nghỉ trong chốc lát. Tôi muốn gặp các luật sư trong phòng của tôi.”

Phòng xử bùng lên những cuộc tranh luận khi các luật sư đi theo Noose và ông Pate qua cánh cửa bên hông bục thẩm phán. Noose khép cửa phòng ông lại rồi cởi bộ váy ra. Ông Pate mang đến cho ông một tách cà phê đen.

“Thưa quý ông, tôi đang cân nhắc thiết lập một lệnh hạn chế kể từ lúc này cho đến khi kết thúc phiên tòa. Tôi bị quấy nhiễu bởi công luận và không muốn vụ này được phân xử bởi báo giới. Có bình luận gì không?”

Buckley trông nhợt nhạt và run rẩy. Ông mở miệng, nhưng không có lời nào được thốt ra.

“Ý hay đấy, thưa Ngài,” Jake nói, khoét sâu vào nỗi đau, “Tôi đã định yêu cầu một lệnh như thế.”

“Vâng, chắc chắn ông đã định như vậy. Tôi đã nhận thấy ông chạy trốn sự nổi tiếng như thế nào rồi. Còn ông thì sao, ông Buckley?”

“Ơ… điều đó áp dụng cho ai?”

“Cho ông đấy, ông Buckley. Ông, và cả ông Brigance nữa, sẽ được lệnh không thảo luận mọi khía cạnh của vụ việc và phiên tòa với báo chí. Điều này sẽ áp dụng cho mọi người, ít nhất cho mọi ai ở dưới sự kiểm soát của tòa án này. Các luật sư, thư ký, các giới chức tòa án, cảnh sát trưởng.”

“Nhưng tại sao vậy?” Buckley hỏi.

“Tôi không thích cái ý hai người các ông xử vụ này thông qua truyền thông. Tôi không mù đâu. Cả hai đầu đều đang đấu nhau để giành ánh đèn sân khấu, và tôi có thể hình dung phiên tòa sẽ như thế nào. Một gánh xiếc. Nó sẽ là như thế. Không phải là phiên tòa nữa mà là một gánh xiếc ba hồi.” Noose bước đến cửa sổ, làu bàu điều gì đó. Ông dừng lại một lát rồi lại làu bàu tiếp. Các luật sư nhìn nhau rồi nhìn bộ khung xương lóng ngóng đang đứng bên cửa sổ.

“Tôi đang áp đặt lệnh hạn chế, hiệu lực ngay tức thì, từ đây cho đến khi kết thúc phiên tòa. Việc vi phạm lệnh sẽ dẫn đến kết quả là coi thường quy trình tòa án. Các ông không được thảo luận mọi khía cạnh của vụ này với mọi thành viên của báo giới. Có câu hỏi nào không?”

“Không, thưa ông,” Jake mau mắn nói.

Buckley nhìn Musgrove, lắc đầu.

“Bây giờ ta hãy trở lại phiên điều trần. Ông Buckley, ông nói ông có trên hai mươi nhân chứng. Ông thực sự cần bao nhiêu người vậy?”

“Năm hoặc sáu.”

“Khá hơn nhiều rồi đó. Họ là ai vậy?”

“Floyd Loud.”

“Ông ta là ai?”

“Giám sát viên, quận Một, hạt Ford.”

“Ông ta tuyên thệ gì?”

“Ông ta sống ở đây đã năm mươi năm, làm việc ở văn phòng khoảng mười năm. Theo ý kiến của ông thì một phiên tòa công bằng là khả dĩ tại hạt này.”

“Tôi đoán rằng ông ta chưa bao giờ nghe về vụ này, đúng không?” Noose mỉa mai nói.

“Tôi không dám chắc.”

“Còn ai khác?”

“Nathan Baker. Thẩm phán tòa hòa giải, quận ba, hạt Ford.”

“Tuyên thệ cũng giống vậy chứ?”

“Vâng, cơ bản là vậy.”

“Ai khác nữa?”

“Edgar Lee Baldwin, cựu giám sát viên, hạt Ford.”

“Ông ta bị truy tố cách đây vài năm, phải không nhỉ?” Jake hỏi. Chưa bao giờ Jake thấy khuôn mặt của Buckley lại đỏ đến thế. Chiếc mồm bự của ông ra há hốc, còn ánh mắt ông thì hoang mang.

“Ông ta không bị kết án,” Musgrove thốt lên.

“Tôi không nói ông ta bị kết án. Tôi chỉ nói ông ta bị truy tố thôi. Bởi FBI, phải không nhỉ?”

“Đủ rồi, đủ rồi.” Noose can thiệp. “Ông Baldwin sẽ nói gì với chúng ta vậy?”

“Ông ta đã sống ở đây cả cuộc đời. Ông ta hiểu biết mọi người ở hạt Ford, và ông ta nghĩ ông Hailey có thể nhận một phiên xử công bằng tại đây,” Musgrove đáp. Buckley vẫn chưa nói được và đang nhìn Jake chằm chặp.

“Ai nữa?”

“Cảnh sát trưởng Harry Bryant, hạt Tyler.

“Cảnh sát trưởng Bryant ư? Ông ta sẽ nói gì?”

Lúc này Musgrave đã thành người phát ngôn cho bên công tố. “Thưa Ngài, chúng tôi có hai lý thuyết đang được đệ trình để chống lại kiến nghị thay đổi địa điểm. Thứ nhất, chúng tôi cho rằng một phiên tòa công bằng là khả dĩ tại đây, ở hạt Ford này. Thứ hai, nếu tòa có ý kiến rằng không thể có phiên tòa công bằng tại đây thì Công tố cho rằng tiếng tăm rộng khắp của vụ việc đã vươn đến mọi bồi thẩm triển vọng tại bang này. Trong hạt này cũng đang tồn tại cùng những thiên kiến và ý kiến, ủng hộ hay chống lại, như trong mọi hạt khác. Do đó, việc di chuyển phiên tòa sẽ chẳng đem lại điều gì hơn. Chúng tôi có những nhân chứng để hậu thuẫn lý thuyết thứ hai này.”

“Đó là một khái niệm mới, ông Musgrove a, Tôi không nghĩ mình đã nghe thấy nó trước đây.”

“Cả tôi cũng thế,” Jake góp lời.

“Các ông còn ai nữa nào?”

“Robert Kelly Williams, công tố viên quận chín.”

“Quận đó nằm ở đâu vậy?”

“Ở mũi đông nam của bang.”

“Ông ta lái xe lên tận đây để tuyên thệ rằng mọi người ở cái chốn đèo heo hút gió đó cũng có thiên kiến về vụ án?”

“Vâng thưa ông.”

“Ai nữa?”

“Grady Liston, công tố viên, quận mười bốn.”

“Cùng một tuyên thệ chứ?”

“Vâng thưa ông.”

“Đã hết chưa?”

“Thưa Ngài, chúng tôi còn nhiều nữa. Nhưng tuyên thệ của họ sẽ khá giống những nhân chứng khác.

“Tốt, vậy các ông sẽ giới hạn chứng minh của mình trong sáu nhân chứng?”

“Vâng thưa ông.”

“Tôi sẽ nghe chứng minh của các ông. Tôi sẽ cho phép mỗi người được năm phút để kết lại lý lẽ của mình, và tôi sẽ quyết định về kiến nghị này trong vòng hai tuần lễ. Còn câu hỏi nào không?”