← Quay lại trang sách

Chương 25

Klavern của hạt Ford được thành lập lúc nửa đêm thứ Năm, ngày 11 tháng Bảy trong một bãi chăn gia súc nhỏ gần một con đường bụi bặm nằm sâu trong rừng, đâu đó tại phía bắc của hạt. Sáu người được kết nạp bồn chồn đứng trước cây thập giá lớn đang bốc cháy, lặp lại những câu thần chú do một phù thủy ban bố. Đại Long và một tá những thành viên Klan khoác váy trắng đứng nhìn và cất tiếng hát khi thích hợp. Một bảo vệ mang súng thầm lặng đứng ven đường, thi thoảng nhìn buổi lễ, nhưng chủ yếu là canh chừng những vị khách không mời. Không có vị khách nào như thế cả.

Chính xác lúc nửa đêm, sáu thành viên mới quỳ gối xuống, nhắm mắt lại, những chiếc nón trùm màu trắng được khoác qua đầu họ. Giờ thì sáu người đó đã là người của Klan: Freddie Cobb, anh của người đã khuất, Jerry Maples, Clifton Cobb, Ed Wilburn, Morris Lancaster, và Terrell Grist. Đại Long lởn vởn trên từng người, tụng những lời nguyền thiêng liêng về tinh thần của Klan. Ngọn lửa từ cây thập giá sém vào khuôn mặt của các thành viên mới khi họ quỳ gối và lặng lẽ chịu ngạt trong bộ váy và chiếc nón trùm nặng trĩu. Mồ hôi chảy ròng trên những khuôn mặt đỏ khi họ nóng lòng cầu nguyện cho Đại Long im đi những câu chú vô nghĩa và kết thúc buổi lễ. Khi tiếng tụng niệm dừng lại, các thành viên mới đứng cả dậy, mau chóng lùi khỏi cây thập giá. Họ được những người anh em ôm chầm lấy. Những người này bá vai họ, xiết chặt, in những đạo bùa man khai lên những xương đòn đẫm mồ hôi của họ. Những chiếc nón trùm nặng được cởi ra và những người của Klan, cả cũ lẫn mới, hãnh diện đi từ bãi chăn gia súc vào ngôi nhà tranh thô kệch ở phía bên kia con đường bụi. Cũng người canh gác ban nãy nay ngồi trên các bậc thang trước nhà trong khi whiskey được rót, được chuyển quanh bàn, và các kế hoạch được vạch ra cho phiên tòa xử Carl Lee Hailey.

Cảnh sát Pirtle bấm nút vào ca ba, từ mười giờ tối đến sáu giờ sáng. Anh đang dừng xe để mua cà phê và bánh nướng tại quán ăn thâu đêm Gurdy trên cao tốc phía bắc thị trấn thì chiếc radio của anh chợt phát tin báo cần anh có mặt ở nhà giam. Lúc này đã là ba phút quá nửa đêm, sáng thứ Sáu.

Pirtle bỏ lại miếng bánh, lái một dặm xuống phía nam, hướng về nhà giam.

“Có chuyện gì vậy?” anh hỏi điều phối viên.

“Chúng tôi vừa nhận được một cú gọi cách đây vài phút. Nặc danh. Ai đó đang tìm cảnh sát trưởng. Tôi giải thích ông ta đang không làm nhiệm vụ, hắn bèn hỏi ai đang làm nhiệm vụ. Là anh đó. Hắn nói có chuyện rất quan trọng và hắn sẽ gọi lại trong mười lăm phút nữa.”

Pirtle rót ra ít cà phê, thả mình trên chiếc ghế lớn của Ozzie. Chuông điện thoại đổ. “Của anh đó,” điều phối viên la lớn.

“Alo,” Pirtle trả lời.

“Ai đó?” giọng kia hỏi.

“Cảnh sát Joe Pirtle. Ai gọi đó?”

“Cảnh sát trưởng đâu?”

“Ngủ rồi, tôi đoán vậy.”

“Thôi được, nghe đây, và hãy nghe cho rõ vì chuyện này quan trọng lắm và tôi sẽ không gọi lại đâu. Ông biết gã mọi đen Hailey chứ?”

“Biết.”

“Ông biết Brigance, luật sư của hắn chứ?”

“Biết.”

“Vậy thì nghe đây. Từ đây cho đến ba giờ sáng họ sẽ cho nổ tung ngôi nhà của hắn đấy.”

“Ai?”

“Brigance.”

“Không, ý tôi hỏi ai sẽ cho nổ tung nhà anh ta?”

“Đừng bận tâm chuyện đó, ông cảnh sát, chỉ nghe tôi nói thôi. Đây không phải chuyện đùa đâu, còn nếu ông nghĩ là chuyện đùa thì cứ ngồi đó mà chờ xem nhà hắn nổ. Việc đó có thể xảy ra bất cứ phút nào.”

Giọng nói im bặt nhưng vẫn chưa biến mất. Pirtle nghe ngóng. “Ông còn đó không vậy?”

“Chúc một đêm tốt lành nhé, ông cảnh sát.” Bộ thu phát ra một tiếng “cách.”

Pirtle bật dậy, chạy đến chỗ điều phối viên. “Anh có nghe chưa?”

“Dĩ nhiên tôi nghe.”

“Gọi Ozzie, bảo ông ta xuống đây ngay. Tôi đến nhà Brigance đây.”

Pirtle giấu chiếc xe tuần tra của anh trong một lối xe trên đường Monroe rồi băng qua thảm cỏ trước nhà Jake. Anh chẳng thấy gì cả. Lúc đó là 12 giờ 55 phút sáng. Anh đi quanh nhà với chiếc đèn pin và không thấy điều gì bất thường. Mọi ngôi nhà trên con đường đều tối đèn và say ngủ. Anh vặn tắt chiếc bóng đèn chiếu sáng ở hàng hiên trước nhà rồi ngồi vào chiếc ghế liễu gai. Anh chờ. Một chiếc xe ngoại quốc trông cũ kỹ đang đậu gần chiếc Oldsmobile dưới mái hiên. Anh sẽ chờ hỏi Ozzie về việc có nên báo cho Jake.

Đèn pha xuất hiện ở cuối đường. Pirtle sụp sâu hơn vào ghế để không bị nhìn thấy. Một chiếc bán tải màu đỏ di chuyển một cách khả nghi về hướng nhà Jake, nhưng không dừng lại. Anh bật dậy và nhìn nó biến mất cuối đường.

Được một lúc, anh thấy hai người đang đi chậm rãi từ hướng quảng trường. Anh mở nút bao súng, rút khẩu súng công vụ. Người thứ nhất to lớn hơn hẳn người thứ hai nhưng lại nhanh nhẹn và thanh thoát hơn. Đó là Ozzie. Còn người kia là Nesbit. Pirtle đón hai người ở lối xe rồi tất cả lẫn vào hàng hiên tối tăm ở trước nhà. Họ thì thào và quan sát con đường.

“Chính xác hắn nói gì vậy,” Ozzie hỏi.

“Nói ai đó sẽ làm nổ tung nhà của Jake từ đây đến ba giờ sáng. Hắn nói không phải là trò đùa.”

“Thế thôi?”

“Vâng. Hắn không thân thiện lắm.”

“Anh ở đây bao lâu rồi?”

“Hai mươi phút.”

Ozzie quay sang Nesbit. Nesbit lom khom chạy ra sau nhà và tìm ra một khe nhỏ giữa các bụi cây nằm dọc theo hàng rào phía sau. Bò bằng cả tứ chi, anh biến mất trong các bụi cây này. Từ tổ ấm của mình, anh có thể quan sát toàn bộ mặt sau ngôi nhà.

“Đưa radio cho tôi rồi ra nấp ở sân sau đi.”

“Ông có định báo cho Jake không?”

“Chưa đâu. Đợi chút đã. Nếu chúng ta gõ cửa họ sẽ bật đèn lên, và ngay bây giờ thì chúng ta chưa muốn điều đó.”

“Vâng, nhưng là Jake nghe thấy chúng ta và ra cửa nổ súng thì sao? Anh ta có thể lầm tưởng chúng ta là hai gã da đen đang tìm cách đột nhập.”

Ozzie nhìn con đường, không nói năng gì cả.

“Ozzie, ông thấy đó. Cứ đặt mình vào vị trí của Jake coi. Cớm bao vây nhà ông vào lúc một giờ sáng, rình một kẻ ném bom nào đó. Vậy ông muốn nằm trên giường ngủ tiếp hay ông muốn biết có chuyện gì?”

Ozzie quan sát từ xa các ngôi nhà.

“Nghe này, cảnh sát trưởng, chúng ta nên đánh thức họ dậy. Chuyện gì xảy ra nếu chúng ta không chặn được âm mưu nào đó và có ai trong nhà bị thương tích?”

Ozzie đứng dậy, bấm nút chuông. “Vặn tắt chiếc bóng đèn này đi,” ông ra lệnh, trỏ vào bóng đèn trần ở hàng hiên.

“Tôi đã làm rồi.”

Ozzie bấm chuông lần nữa. Cánh cửa gỗ mở tung. Jake bước đến cửa chống bão, nhìn sững cảnh sát trưởng. Anh đang khoác chiếc áo ngủ nhàu nhò, chỉ dài đến dưới đầu gối, tay phải anh đang cầm một khẩu 38 ly đã nạp đạn. Anh từ từ mở cửa chống bão.

“Có chuyện gì vậy, Ozzie?” anh hỏi.

“Tôi vào được không?”

“Được. Có chuyện gì vậy?”

“Anh ở lại hàng hiên,” Ozzie căn dặn Pirtle. “Một phút nữa tôi ra.” Ozzie khép cửa lại rồi tắt đèn trong sảnh. Họ ngồi trong phòng khách tối tăm nhìn ra hàng hiên và sân trước.

“Ông kể đi,” Jake nói.

“Khoảng nửa giờ trước chúng tôi nhận được một cú điện thoại nặc danh. Ai đó nói rằng có người đã lên kế hoạch đánh bom nhà anh từ đây cho đến ba giờ sáng. Chúng tôi cho chuyện này là nghiêm túc.”

“Cảm ơn.”

“Tôi đã bố trí Pirtle ở hàng hiên và Nesbit ở sân sau. Khoảng mười phút trước Pirtle thấy có một chiếc bán tải đi qua, trông có vẻ khả nghi, nhưng chúng tôi chỉ thấy được đến thế.”

“Các ông khám quanh nhà chưa?”

“Rồi, chẳng có gì cả. Chúng chưa đến. Nhưng có gì đó mách bảo tôi rằng đây là chuyện thật.”

“Tại sao?”

“Linh cảm thôi mà.”

Jake đặt khẩu 38 ly xuống trường kỷ, cạnh anh, rồi vò vò hai thái dương. “Ông khuyên nên thế nào?”

“Cứ ngồi chờ thôi. Chúng ta chỉ làm được có vậy. Anh có súng trường chứ?”

“Tôi có đủ súng đạn để xâm lược cả nước khác đấy.”

“Sao anh không lấy nó ra nạp đạn sẵn. Hãy tìm một vị trí tại một trong những cánh cửa sổ xinh xinh trên gác. Chúng tôi sẽ nấp ở bên ngoài và chờ.”

“Ông có đủ người không đấy?”

“Có chứ, tôi nghĩ chúng chỉ gồm một hoặc hai tên mà thôi.”

“Chúng là ai vậy?”

“Không biết. Có thể là bọn Klan, có thể là một con sói đơn độc. Ai biết được?”

Hai người đàn ông ngồi trầm tư nhìn con đường tối đen. Họ có thể nhìn thấy đỉnh đầu của Pirtle khi anh sụp xuống chiếc ghế liễu gai ngay bên ngoài cửa sổ.

“Jake này, anh nhớ ba nhà hoạt động dân quyền bị Klan giết hồi năm 64 chứ? Người ta tìm ra họ bị chôn tại một con đê quanh miệt phía dưới Philadelphia.”

“Dĩ nhiên. Hồi đó tôi còn bé nhưng tôi nhớ.”

“Mấy tên này sẽ chẳng bao giờ được tìm ra nếu không có ai đó cho biết chúng ở đâu. Ai đó này chắc là người trong Klan. Một nội gián. Có vẻ như chuyện này luôn diễn ra với Klan. Luôn có một người mách lẻo ở bên trong.”

“Ông nghĩ đó là Klan à?”

“Chắc chắn là nó trông giống. Nếu đó chỉ là một hoặc hai con sói đơn độc thì còn ai khác biết chuyện này? Nhóm càng lớn thì càng có cơ hội để ai đó tuồn tin cho chúng ta.”

“Có lý đấy, nhưng vì lý do nào đó tôi không thấy yên tâm chuyện này.”

“Dĩ nhiên, đó có thể là trò đùa.”

“Chẳng ai cười nổi đâu.”

“Anh sẽ kể cho vợ chứ?”

“Ừ. Tốt nhất là nên kể.”

“Là tôi thì tôi cũng kể. Nhưng đừng bật đèn nhé. Anh và cô ấy sẽ làm chúng hoảng đấy.”

“Nhưng tôi muốn dọa chúng.”

“Còn tôi thì muốn bắt chúng. Nếu không bắt chúng bây giờ thì chúng sẽ lặp lại, và lần sau chúng có thể sẽ quên báo trước cho chúng tôi.”

Carla mặc vội quần áo trong bóng tối. Cô hoảng sợ. Jake đặt Hanna lên trường kỷ trong phòng làm việc nhỏ, nơi con bé làu bàu gì đó rồi ngủ tiếp. Carla nâng đầu con, nhìn Jake nạp đạn khẩu súng trường.

“Anh sẽ lên gác, vào phòng dành cho khách. Đừng bật đèn nào cả. Cớm đã bao vây nơi này rồi, em đừng lo.”

“Đừng lo! Anh có điên không vậy?”

“Em cố ngủ lại đi.”

“Ngủ lại! Jake, anh mất trí hay sao vậy.”

Họ không phải chờ lâu. Từ vị trí lợi thế của mình đâu đó sâu trong các bụi cây trước nhà, Ozzie là người đầu tiên nhìn thấy hắn: một gã đơn độc đang dung dăng bước trên đường ngược hướng ra qua quảng trường. Hắn mang theo một chiếc hộp nhỏ hay cặp xách gì đó. Khi còn cách hai căn nhà, hắn rời khỏi đường, đi tắt thảm cỏ trước các nhà hàng xóm. Ozzie rút súng lục và gậy tuần, nhìn gã kia đang bước thẳng về phía ông. Jake đã bắt được hắn trong ống nhắm của khẩu súng săn hươu. Pirtle bò như rắn dọc hàng hiên rồi chui vào các bụi rậm, sẵn sàng ra tay.

Bất chợt, gã kia băng qua thảm cỏ nhà hàng xóm, tạt vào hông nhà của Jake. Hắn cẩn thận đặt chiếc va li nhỏ dưới cửa sổ phòng ngủ của vợ chồng Jake. Khi hắn quay ra để chạy, một cây gậy tuần vừa to vừa đen ngòm giáng xuống một bên đầu hắn, làm tai hắn rách ra ở hai chỗ, lủng lẳng như muốn rụng khỏi đầu. Hắn hét lên, ngã vật xuống.

“Bắt được hắn rồi!” Ozzie la lớn. Pirtle và Nesbit chạy nhanh đến hông nhà. Jake bình tĩnh xuống cầu thang.

“Một phút nữa anh sẽ quay lại,” anh nói với Carla.

Ozzie siết cổ nghi phạm, đè hắn ngồi xuống gần nhà. Hắn vẫn tỉnh dù bị choáng. Chiếc va li nằm cách đó vài centimet.

“Mày tên gì?” Ozzie hỏi.

Hắn rên rỉ ôm đầu, không nói năng gì cả.

“Tao hỏi mày đấy.” Ozzie nói khi chờn vờn bên trên nghi phạm.

Pirtle và Nesbit đứng cạnh đó, súng rút sẵn, sợ đến mức không nói hay cử động nổi. Jake nhìn chằm chặp chiếc va li.

“Tôi không nói đâu,” câu trả lời được phát ra.

Ozzie giương gậy tuần cao khỏi đầu, giáng một phát rõ mạnh vào mắt cá chân phải của gã đàn ông. Tiếng xương nứt nghe rợn người. Hắn rống lên, túm lấy chân. Ozzie đá vào mặt hắn. Hắn ngã ra sau, đầu va vào hông nhà. Hắn lăn sang bên, rên rỉ vì đau đớn.

Jake quỳ phía trên chiếc va li, dỏng tai nghe. Anh nhảy dựng lên, lùi ra xa. “Nó đang kêu tích tắc,” anh rụng rời nói.

Ozzie cúi xuống nghi phạm, nhẹ nhàng gác cây gậy tuần lên mũi hắn. “Thêm một câu này nữa, mày mà không nói thì tao đập nát từng chiếc xương trên người mày. Trong cái hộp có gì vậy?” Không có câu trả lời.

Ozzie thu lại cây gậy tuần, đập vỡ mắt cá chân bên kia.

“Trong hộp có cái gì?” ông quát lên.

“Mìn!” tiếng đáp đau đớn cất lên.

Pirtle hạ súng xuống. Huyết áp của Nesbit vọt lên đầu khiến anh phải dựa vào ngôi nhà. Mặt Jake trắng bệch, đầu gối anh run rẩy. Anh chạy vào nhà qua cửa trước, miệng hét gọi Carla. “Lấy chìa khóa xe! Lấy chìa khóa xe mau đi!”

“Để làm gì?” cô căng thẳng hỏi.

“Cứ làm như anh nói đi. Lấy chìa khóa xe rồi lên xe ngay!”

Anh nhấc Hanna lên, bế nó qua nhà bếp, chạy vào lán để xe, rồi đặt con lên băng sau chiếc Cutlass của Carla. Anh nắm tay Carla, giúp cô ngồi vào xe. “Đi đi, và đừng trở lại trong ba mươi phút nữa.”

“Jake, có chuyện gì vậy?” cô hỏi.

“Anh sẽ nói sau. Lúc này không còn thời gian nữa. Em cứ đi đi. Cứ lái xe vòng vòng trong ba mươi phút nữa. Tránh xa con đường này ra.”

“Nhưng tại sao vậy, Jake? Anh đã phát hiện gì?”

“Mìn.”

Cô lùi xe và biến mất.

Khi Jake trở lại hông nhà thì tay trái của nghi phạm đã bị còng vào đồng hồ khí đốt cạnh cửa sổ. Hắn đang rên rỉ, làu bàu, chửi rủa. Ozzie thận trọng cầm quai, nhấc chiếc va li lên rồi ngay ngắn đặt nó giữa đôi chân gãy của nghi phạm. Ông đá vào cả hai chân để chúng dang ra. Hắn rên lớn hơn. Ozzie, các viên cảnh sát, và Jake từ từ lui ra và nhìn hắn. Hắn bắt đầu khóc. “Tôi không biết cách tháo ngòi nổ," hắn nói qua hàm răng nghiến chặt.

“Mày nên học nhanh đi,” Jake nói, giọng anh đã có phần mạnh mẽ hơn.

Nghi phạm nhắm mắt lại, gục đầu xuống. Hắn cắn môi, thở mạnh và gấp. Mồ hôi nhỏ xuống cằm và lông mày hắn. Tai của hắn rách toạc, lủng lẳng như một chiếc lá sắp rụng. “Đưa đèn pin cho tôi.”

Pirtle trao đèn pin cho hắn.

“Tôi cần cả hai tay,” hắn nói.

“Thử dùng một tay đi,” Ozzie nói.

Hắn khẽ chạm các ngón tay lên chốt, mắt nhắm lại.

“Ta lui khỏi đây đi,” Ozzie nói. Họ chạy bọc qua góc nhà, chui vào lán để xe, cách càng xa càng tốt.

“Vợ con của anh đâu?” Ozzie hỏi.

“Đi rồi. Các ông có nhận ra hắn không?”

“Không” Ozzie đáp.

“Tôi chưa gặp hắn bao giờ.” Nesbit nói.

Pirtle cũng lắc đầu.

Ozzie gọi cho điều phối viên, ông này gọi cho cảnh sát Riley, người tháo mìn tự học của hạt.

“Nếu bom nổ và hắn chết thì sao?” Jake hỏi.

“Anh có tiền bảo hiểm mà, phải không Jake?” Nesbit hỏi lại.

“Đùa dở ẹc.”

“Chúng ta cho hắn vài phút, rồi Pirtle sẽ đi kiểm tra hắn,” Ozzie nói.

“Tại sao là tôi?”

“Thôi được, Nesbit đi vậy.”

“Tôi nghĩ Jake phải đi,” Nesbit nói. “Đó là nhà của anh ta mà.”

“Hay nhỉ,” Jake nói.

Họ chờ đợi và căng thẳng trò chuyện. Nesbit lại đưa ra một nhận xét ngu ngốc nữa về chuyện bảo hiểm.

“Im nào!” Jake nói. “Tôi nghe tiếng gì đó.”

Họ đóng băng. Vài giây sau, nghi phạm lại la lên. Họ chạy về dọc sân trước rồi từ từ đi bọc qua góc nhà. Chiếc va li trống lốc bị quẳng ra cách vài bước chân. Cạnh gã đàn ông là một cọc gọn ghẽ gồm khoảng một chục thỏi mìn. Giữa hai chân hắn một chiếc đồng hồ lớn mặt tròn với những sợi dây cột vào nhau bằng băng keo điện.

“Nó được tháo ngòi chưa?” Ozzie lo lắng hỏi.

“Rồi,” hắn trả lời giữa những hơi thở nặng và gấp gáp.

Ozzie quỳ xuống trước hắn, tháo đồng hồ và các dây dợ. Ông không chạm đến các thỏi mìn. “Đồng bọn của mày ở đâu?”

Không trả lời.

Ông tháo cây gậy tuần, dí nó vào gã đàn ông. “Tao sẽ đập nát từng khúc sườn của mày. Mày nên khai đi. Đồng bọn của mày ở đâu?”

“Con mẹ mày.”

Ozzie đứng dậy, đảo mắt nhìn nhanh khắp xung quanh, không phải nhìn Jake và các viên cảnh sát mà nhìn ngôi nhà kế bên. Không thấy gì, ông giương cây gậy tuần lên. Tay trái của nghi phạm bị treo vào đồng hồ khí đốt. Ozzie quất một phát ngay dưới nách bên trái. Hắn rống lên, giật sang trái. Jake hầu như thấy tội nghiệp cho hắn.

“Chúng ở đâu?”

Không trả lời.

Jake quay mặt đi khi ông cảnh sát trưởng giáng một phát nữa vào mạn sườn.

“Chúng ở đâu?”

Không trả lời.

Ozzie giương cây gậy tuần.

“Ngừng lại… làm ơn ngừng lại,” hắn van xin.

“Chúng ở đâu?”

“Cuối đường này, cách vài dãy nhà.”

“Bao nhiêu thằng?”

“Một.”

“Đi xe gì?”

“Chiếc bán tải, GMC đỏ.”

“Đưa xe tuần tra đến đây,” Ozzie ra lệnh.

Dưới lán đậu xe, Jake sốt ruột chờ vợ về. Lúc hai giờ mười lăm, cô lái xe chầm chậm đi vào lối xe rồi đậu lại.

“Hanna ngủ chưa?” Jake hỏi khi mở cửa xe.

“Rồi.”

“Tốt. Cứ để con đó đi. Mình sẽ đi trong vài phút nữa.”

“Mình đi đâu chứ?”

“Mình sẽ bàn chuyện đó trong nhà.”

Jake rót cà phê, cố tỏ ra điềm tĩnh. Nhưng Carla sợ hãi, run rẩy, giận dữ khiến cho việc điềm tĩnh trở nên rất khó khăn. Anh kể về trái bom, gã nghi phạm, nói rằng Ozzie đang truy lùng tên tòng phạm.

“Anh muốn em và Hanna đến Wilmington và ở lại với ông bà ngoại cho đến hết phiên tòa,” anh nói.

Cô nhìn trân trối tách cà phê, không nói năng gì.

“Anh đã gọi điện cho ba em và giải thích mọi chuyện. Ông bà sợ quá cứ đòi em về nhà họ cho đến khi chuyện đó qua đi.”

“Còn nếu em không muốn đi thì sao?”

“Làm ơn đi, Carla. Lúc này mà sao em cứ tranh cãi như thế.”

“Còn anh thì sao?”

“Anh sẽ ổn thôi. Ozzie sẽ cho anh một cảnh vệ và họ sẽ giám sát nhà mình hai mươi bốn trên hai mươi bốn. Một số ngày anh sẽ ngủ ở văn phòng. Anh sẽ an toàn mà, anh hứa đấy.”

Cô không thấy thuyết phục.

“Thôi nào, Carla, ngay lúc này anh đang có đến hàng ngàn thứ trong đầu. Anh có một thân chủ đang đối mặt với phòng hơi ngạt và phiên tòa xử ông ta sẽ diễn ra trong mười ngày nữa. Anh không thể thua được. Anh sẽ làm việc cả ngày lẫn đêm từ đây đến ngày hai mươi hai, và khi phiên tòa bắt đầu thì đằng nào em cũng đâu gặp anh. Anh chỉ cần mỗi một điều là không phải lo cho em và Hanna. Làm ơn đi đi mà.”

“Chúng sẽ giết anh, Jake. Chúng định giết chúng ta.”

Anh không thể phủ nhận điều đó.

“Anh đã hứa sẽ rút khỏi nếu mối nguy thành hiện thực.”

“Không thể nào được đâu. Noose sẽ không bao giờ cho phép anh rút lui vào thời hạn trễ như thế này.”

“Em cảm giác anh đã nói dối em.”

“Em nghĩ vậy là không công bằng. Anh nghĩ anh đã đánh giá thấp chuyện đó, và bây giờ thì đã quá muộn rồi.”

Cô đi vào phòng ngủ và bắt đầu gói ghém quần áo.

“Máy bay sẽ rời Memphis vào lúc sáu giờ ba mươi. Ba của em sẽ đến đón em và Hanna tại sân bay Raleigh vào lúc chín giờ ba mươi.”

“Vâng, thưa ông.”

Mười lăm phút sau, họ rời Clanton. Jake lái xe và Carla phớt lờ anh. Lúc năm giờ, họ dùng điểm tâm ở sân bay Memphis. Hanna buồn ngủ nhưng phấn khích vì sắp được gặp ông bà ngoại. Carla nói rất ít. Cô có nhiều điều để nói nhưng, như một điều luật, họ không tranh cãi nhau trước mặt Hanna. Cô lẳng lặng ăn, uống cà phê, nhìn chồng thản nhiên đọc báo cứ như thể không có chuyện gì xảy ra.

Jake hôn tạm biệt hai mẹ con và hứa sẽ gọi điện hàng ngày. Máy bay cất cánh đúng giờ. Vào lúc bảy giờ ba mươi, anh đã ở văn phòng của Ozzie.

“Hắn là ai vậy?” Jake hỏi cảnh sát trưởng.

“Chúng tôi cũng chẳng biết nữa. Không có bóp, không thẻ căn cước, chẳng có gì cả. Và hắn không chịu mở miệng.”

“Có ai nhận ra hắn không?”

Ozzie nghĩ ngợi trong một giây. “Thế này, Jake ạ, có lẽ khó ai nhận ra được hắn vào lúc này. Mặt hắn băng kín mít rồi còn gì.”

Jake mỉm cười. “Ông chơi rắn quá mà, phải không huynh?”

“Chỉ khi nào bắt buộc thôi. Lúc đó tôi đâu có nghe anh phản đối.”

“Không, tôi còn muốn giúp nữa ấy chứ. Bạn của hắn sao rồi?”

“Chúng tôi tìm ra tên này đang ngủ trong chiếc GMC đỏ cách nhà anh chừng cây số. Terrell Grist. Ngáo vườn địa phương. Sống ở gần hồ Village. Tôi nghi hắn là bạn của gia đình Cobb.”

Jake nhẩm lại cái tên vài lần. “Chưa bao giờ nghe về hắn. Hắn đâu rồi?”

“Ở bệnh viện. Cùng phòng với tên kia.”

“Chúa ơi, Ozzie, ông đập gãy ống giò của hắn luôn sao?”

“Jake, anh bạn của tôi, hắn đã kháng cự khi bị bắt. Chúng tôi phải chế ngự hắn chứ. Rồi chúng tôi còn phải tra vấn hắn nữa. Hắn không chịu hợp tác.”

“Hắn nói gì?”

“Không nhiều. Nói là không biết gì cả. Tôi tin chắc hắn biết cái tên gài mìn.”

“Ý ông là chúng đưa một tay chuyên nghiệp vào?”

“Có thể. Riley nhìn mấy cây pháo và thiết bị canh thời gian rồi nói đó là một công trình rất tốt. Chúng tôi có thể đã không gặp lại anh, vợ anh, con anh và có lẽ cả cái nhà của anh nữa. Nó được hẹn giờ vào lúc hai giờ sáng. Không có lời báo trước thì anh chết ngắc ngứ rồi, Jake. Gia đình anh cũng thế.”

Jake cảm thấy chóng mặt. Anh ngồi xuống trường kỷ. Phản xạ của anh giống như vừa bị một cú đá vào háng vậy. Một ca tiêu chảy cũng suýt nửa xảy ra, và anh cảm thấy muốn ói.

“Anh cho gia đình đi chưa?”

“Rồi,” anh yếu ớt đáp.

“Tôi sẽ bố trí một cảnh sát theo anh toàn thời gian. Có đặc biệt thích ai không?”

“Ai cũng được cả.”

“Nesbit thì sao?”

“Tốt thôi. Cảm ơn.”

“Còn một chuyện nữa. Tôi đoán anh muốn giữ im lặng chuyện này, phải không?”

“Nếu có thể được. Những ai đã biết nó?”

“Chỉ có tôi và các cảnh sát. Tôi nghĩ chúng tôi có thể giữ kín cho đến sau phiên tòa, nhưng tôi không đảm bảo điều gì đâu đấy.”

“Tôi hiểu. Ông cố hết sức nhé.”

“Tôi sẽ cố, Jake.”

“Tôi biết ông sẽ giữ kín được mà, Ozzie. Tôi cảm ơn ông nhiều.”

Jake lái xe đến văn phòng, pha cà phê rồi nằm lên chiếc trường kỷ trong văn phòng của anh. Anh muốn chợp mắt thật nhanh, nhưng không sao ngủ được. Mắt anh đỏ ngầu, thế mà anh không thể nhắm chúng lại.

Anh nhìn chiếc quạt trần.

“Ông Brigance,” Ethel gọi qua nội đàm.

Không trả lời.

“Ông Brigance!”

Đâu đó sâu lắng trong tiềm thức, Jake nghe mình bị gọi tên. Anh bật dậy. “Vâng!” anh la lớn.

“Thẩm phán Noose đang trên điện thoại.”

“Được rồi, được rồi,” anh làu bàu khi loạng choạng bước đến bàn làm việc.

Anh xem đồng hồ. Chín giờ sáng. Anh đã ngủ được một tiếng. “Chào thẩm phán,” anh vui vẻ nói, cố làm giọng nhanh nhảu và tỉnh táo.

“Chào Jake, ông thế nào rồi?”

“Ổn, thưa thẩm phán. Bận sửa soạn cho phiên tòa lớn.”

“Tôi cũng nghĩ thế. Jake này, kế hoạch ngày hôm nay của ông là gì vậy?”

Hôm nay là thứ mấy nhỉ, anh nghĩ. Anh chộp cuốn sổ hẹn. “Không có gì ngoài công việc văn phòng.”

“Tốt. Tôi muốn mời ông dùng bữa trưa tại nhà tôi. Mười một giờ rưỡi đi nhé.”

“Tôi rất hân hạnh, thưa thẩm phán. Dịp gì vậy ạ?”

“Tôi muốn thảo luận với anh vụ Hailey.”

“Tốt lắm, thưa thẩm phán. Hẹn gặp ông lúc mười một giờ ba mươi nhé.”

Gia đình Noose sống trong một ngôi nhà nguy nga kiểu antebellum ở quảng trường thị trấn của Chester. Ngôi nhà thuộc về gia đình bên vợ của ông đã hơn một thế kỷ, và mặc dù chỉ trải qua vài lần duy tu và sửa chữa, nó vẫn ở trong trạng thái khá tươm tất. Jake chưa bao giờ là khách mời nơi đây, và anh chưa bao giờ gặp bà Noose mặc dù có nghe nói bà là một quý tộc hợm hĩnh mà gia đình có thời đã từng rất giàu có nhưng đã để mất hết. Bà trông cũng kém hấp dẫn chẳng khác gì Ichabod, và Jake đã thắc mắc chẳng biết con cái của họ trông ra sao. Bà tỏ ra lịch sự và đúng mực khi đón Jake tại cửa và ngỏ vài lời xã giao khi đưa anh vào sân trong, nơi Ngài thẩm phán đang uống trà đá và xem thư từ. Một cô hầu đang chuẩn bị chiếc bàn nhỏ ở kế bên.

“Rất vui được gặp anh, Jake,” Ichabod nồng nhiệt nói. “Cảm ơn anh đã đến.”

“Tôi rất hân hạnh, thưa thẩm phán. Ngôi nhà của ông đẹp quá.” Họ thảo luận về phiên xử Hailey bên món súp và sandwich salad gà. Ichabod đang lo sợ thử thách, mặc dù ông không thừa nhận điều đó. Ông có vẻ mệt mỏi, và vụ án chưa chi đã là một gánh nặng. Ông làm Jake ngạc nhiên khi thú nhận ông ghét Buckley. Jake nói anh cũng cảm thấy giống vậy.

“Jake à, tôi rất bối rối về việc dời địa điểm xét xử,” ông nói. “Tôi đã nghiên cứu bản tóm tắt của anh và bản tóm tắt của Burkley, và tự tôi cũng nghiên cứu pháp luật. Đó là một câu hỏi khó. Tuần trước tôi có dự một hội nghị thẩm phán tại Gulf Coast, và tôi có uống chút đỉnh với thẩm phán Denton của Tòa Thượng Thẩm. Ông ta và tôi học trường luật cùng nhau, và chúng tôi là đồng sự tại nghị viện bang. Chúng tôi rất thân nhau. Ông ấy đến từ hạt Dupree ở nam Mississippi, và ông ấy nói mọi người dưới đó đều bàn tán về vụ này. Cả những người ngoài đường cũng hỏi liệu ông ấy sẽ xử như thế nào nếu vụ việc được kháng cáo lên. Ai cũng có ý kiến riêng, và đó là ở mãi tít đến tận sáu trăm năm mươi cây số. Bây giờ, nếu tôi đồng ý thay đổi địa điểm thì chúng ta đi đâu đây? Chúng ta không thể rời khỏi bang, và tôi tin chắc rằng mọi người không chỉ nghe nói về thân chủ của ông mà còn có sẵn thiên kiến về ông ta nữa. Anh có đồng ý không?”

“Vâng, vụ này rất nổi tiếng," Jake thận trọng nói.

“Nói tôi nghe đi, Jake. Chúng ta không phải đang ở tòa. Đó là lý do tôi mời anh đến đây. Tôi muốn hỏi ý kiến anh. Tôi biết nó nổi tiếng mà. Nếu ta dời thì ta nên đi đâu?”

“Ra đồng bằng thì sao?”

Noose mỉm cười. “Anh chỉ mong có thế, phải không?”

“Dĩ nhiên. Chúng tôi có thể chọn một bồi thẩm đoàn tốt tại đó. Một bồi thẩm đoàn thực sự hiểu vấn đề.”

“Phải, và một bồi thẩm đoàn gồm một nửa là da đen.”

“Tôi chưa hề nghĩ đến điều đó.”

“Anh thực sự tin rằng những người ở đó không có sẵn thiên kiến với bị cáo chứ?”

“Tôi cho là vậy.”

“Vậy ta đi đâu?”

“Thẩm phán Denton có gợi ý gì không?”

“Cũng không có gì. Chúng tôi bàn về truyền thống của tòa từ chối thay đổi địa điểm, ngoại trừ trong những vụ án kinh thiên động địa nhất. Đó là một vấn đề khó đối với một tội ác nổi tiếng, khơi dậy những cảm xúc mạnh mẽ cả từ bên ủng hộ lẫn bên chống lại bị cáo. Với truyền hình và tất cả các phương tiện báo chí ngày nay, các tội ác này là tin tức tức thời, và trước phiên tòa mọi người đều biết rõ các chi tiết từ lâu. Và vụ này vượt lên trên tất cả. Ngay cả Denton cũng thú nhận rằng ông ấy chưa bao giờ thấy một vụ án nào nổi tiếng như thế, và anh đã thú nhận không thể nào tìm được một bồi thẩm đoàn công bằng và vô tư ở bất cứ nơi nào tại Mississippi. Giả dụ tôi để nó lại hạt Ford và người của anh bị kết án. Vậy thì anh sẽ kháng cáo, đòi thay đổi địa điểm. Denton đã ngỏ ý ông ấy sẽ có thiện cảm với quyết định không di chuyển của tôi. Ông ấy nghĩ một đa số của tòa sẽ ủng hộ việc từ chối thay đổi địa điểm của tôi. Dĩ nhiên, việc đó không có gì đảm bảo, và chúng tôi đã bàn luận về nó trong nhiều cuộc uống kéo dài. Anh uống chút gì nhé?”

“Không ạ, cảm ơn.”

“Tôi chỉ là không thấy có lý do nào để di chuyển phiên tòa ra khỏi Clanton. Nếu ta di chuyển thì tức là tự đánh lừa bản thân khi nghĩ có thể tìm được mười hai con người không dứt khoát về việc có tội của ông Hailey.”

“Nghe như ông đã quyết định rồi vậy, thưa thẩm phán.”

“Tôi đã. Chúng ta sẽ không thay đổi địa điểm. Phiên tòa sẽ vẫn diễn ra ở Clanton. Tôi không thoải mái chuyện này, nhưng tôi không thấy có lý do nào để di chuyển phiên tòa. Cạnh đó, tôi thích Clanton. Nó ở gần nhà tôi và máy điều hòa không khí trong tòa án vẫn hoạt động.”

Noose với lấy một hồ sơ và tìm ra một chiếc phong bì. “Jake này, đây là lệnh mới ký hôm nay, bác bỏ yêu cầu thay đổi địa điểm. Tôi đã gửi một bản sao cho Buckley, và đây là bản sao cho anh. Bản chính nằm đây, và tôi sẽ rất biết ơn nếu anh gởi nó cho viên thư ký tại Clanton.”

“Tôi sẵn sàng.”

“Tôi chỉ hy vọng mình làm điều đúng. Tôi đã thực sự chật vật vì nó.”

“Đó là một việc khó,” Jake nói vuốt đuôi.

Noose gọi cô hầu, dặn mang ra rượu gin và sô đa. Ông một mực đòi Jake phải xem vườn hồng nhà ông, và họ đã dành một tiếng đồng hồ bên thảm cỏ ngổn ngang ở sân sau, chiêm ngưỡng những bông hoa của Ngài thẩm phán. Jake nghĩ về Carla và Hanna, về ngôi nhà của anh, về những thỏi mìn, nhưng anh vẫn lịch thiệp duy trì mối quan tâm đối với hoạt động thủ công của Ichabod.

Những buổi chiều thứ Sáu thường khiến Jake nhớ đến cái thời ở trường luật. Hồi đó, tùy thời tiết, anh và bạn bè thường tụ tập tại quán bar yêu thích tại Oxford, hớp món bia giảm giá buổi chiều sớm, thảo luận những học thuyết pháp luật mới tìm ra, nguyền rủa mấy vị giáo sư luật xấc xược, ngạo mạn, ưa khủng bố, hoặc giả, nếu trời nắng ấm thì chất bia vào chiếc túi con bọ tiện lợi chuyển đổi được công năng của Jake, rồi lao thẳng ra bãi tắm ven hồ Sardis Lake, nơi các cô em ở trường nữ sinh ngồi đắp kem lên cơ thể xinh đẹp, rám nắng, vã mồ hôi dưới mặt trời, và lạnh lùng phớt lờ những tiếng hú hét của đám sinh viên luật say xỉn và những gã lêu lổng đồng hội đồng thuyền khác. Anh nhớ những ngày vô tư ấy. Anh ghét trường luật—mọi sinh viên luật đều ghét cay đắng trường luật—nhưng anh nhớ bạn bè và những thời khắc tươi đẹp, đặc biệt vào những ngày thứ Sáu. Anh nhớ cái cuộc sống không áp lực, đặc biệt trong năm học đầu tiên, khi mà các giáo sư không chửi rủa quá nhiều. Anh nhớ những lúc cạn túi, khi anh không sở hữu gì cả và phần lớn các bạn cùng lớp đều cùng anh ngồi trên một con thuyền. Nay đã có thu nhập thì anh thường xuyên phải lo lắng về thế chấp, về tổng chi phí, về thẻ tín dụng, về việc thực hiện giấc mơ Mỹ và trở nên xúng xính. Không giàu, chỉ xúng xính thôi. Anh nhớ chiếc Volkswagen vì đó là chiếc xe mới đầu tiên của anh, một món quà tốt nghiệp trung học, và nó được mua hẳn hoi chứ không phải như chiếc Saab. Thi thoảng anh nhớ thời độc thân dù anh đã có một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Và anh nhớ bia, dù là bia tươi, bia chai hay bia lon. Điều đó không quan trọng. Anh là một bợm nhậu hay chuyện, nhưng chỉ với các bạn bè của anh thôi, và anh đã dành nhiều thời gian tối đa bên bạn bè. Ở trường luật, không phải ngày nào anh cũng uống, và rất hiếm khi anh say xỉn. Nhưng anh đã từng trải qua nhiều cơn nôn nao khổ sở và khó quên.

Rồi Carla đến. Anh gặp cô vào đầu học kỳ cuối, và sáu tháng sau đó thì hai người kết hôn. Cô rất đẹp và đó là điều đã thu hút anh. Cô điềm tĩnh, và thoạt đầu có vẻ hơi hợm hĩnh, giống như phần lớn các cô gái nhà giàu ở trường nữ sinh tại Ole Miss. Nhưng anh lại thấy cô nồng ấm, duyên dáng, và có chút thiếu tự tin. Anh không bao giờ hiểu nổi một người như Carla thì làm sao có thể bất an được. Cô nằm trong danh sách được Khoa giữ lại để dạy môn nghệ thuật tự do, và không có ý định nào khác hơn là đi dạy trong vài năm. Gia đình của cô có tiền của, và mẹ của cô chưa bao giờ phải đi làm. Điều này hấp dẫn Jake—gia đình khá giả và sự thiếu vắng một tham vọng sự nghiệp. Anh muốn có một cô vợ ở nhà, tiếp tục xinh đẹp và sinh con cho anh, và không có ý định làm điều gì to tát cả. Đó là một tình yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Nhưng cô đã chau mày với bia rượu, với mọi hình thức nhậu nhẹt. Cha của cô đã uống rất nhiều khi cô còn bé, và việc đó đã để lại những ký ức đau thương. Cho nên Jake đành phải cai rượu bia trong học kỳ cuối ở trường luật và đã sụt mất gần bảy ký. Anh trông rất tuyệt, cảm giác cũng rất tuyệt, và đang yêu điên cuồng. Nhưng anh nhớ bia lắm.

Có một tiệm tạp hóa trong hạt, cách Chester vài dặm, với nhãn bia Coors treo trên cửa kính. Coors là nhãn bia yêu thích của anh ở trường luật, mặc dù vào lúc đó nó không được bán ở bờ đông của con sông. Đó là một món khoái khẩu tại Ole Miss, và việc buôn lậu Coors đã phát đạt quanh khu học chính. Nay, khi nó đã có bán ở khắp nơi, phần lớn mọi người đã quay lại với nhãn Budweiser.

Hôm đó là thứ Sáu và trời đang nóng. Carla đã ở cách xa gần 1500 cây số. Anh không muốn đến văn phòng. Mọi việc ở đó đều có thể chờ đến mai. Một gã khùng đã toan sát hại gia đình anh và đưa ngôi nhà của anh ra khỏi Sổ bộ Địa danh Lịch sử Quốc gia. Phiên tòa lớn nhất trong sự nghiệp của anh chỉ còn cách có mười ngày nữa. Anh chưa sẵn sàng và áp lực đang dâng cao. Anh vừa thua phần kiến nghị trước phiên xử quan trọng nhất. Và anh lại đang khát. Jake dừng xe, mua một hộp sáu lon Coors.

Phải mất gần hai tiếng để đi gần 100 cây số từ Chester đến Clanton. Anh thưởng thức sự thong dong, cảnh quan, món bia. Anh dừng lại hai lần để xả nước và một lần để lấy thêm một hộp sáu lon nữa. Anh cảm thấy rất tuyệt.

Trong tình thế của anh thì chỉ có một nơi để mà đi. Không phải là về nhà, không phải là về văn phòng, càng không phải là đến tòa để ký nhận cái lệnh đểu cáng của Ichabod. Anh đậu xe sau chiếc Porsche nhỏ tàn tạ rồi đi dọc hông nhà với chỗ bia lạnh trên tay. Như thường lệ, Lucien ngồi đong đưa chầm chậm ở hàng hiên trước nhà, đang uống và đọc một chuyên khảo về việc viện dẫn lý do tâm thần. Ông gặp sách lại và, nhìn thấy Jake, mỉm cười với người cộng sự cũ. Jake nhoẻn miệng cười với ông.

“Dịp gì vậy, Jake?”

“Chả dịp gì cả, thật đấy. Chỉ thấy khát thôi.”

“Tôi hiểu. Còn vợ anh thì sao?”

“Cô ấy không bảo ban tôi phải làm gì. Tôi là tôi. Tôi là sếp sòng Nếu tôi muốn bia thì tôi làm ít bia, và cô ấy sẽ không nói năng gì cả.” Jake chiêu một hớp dài.

“Hẳn cô ta rời khỏi thị trấn rồi.”

“North Carolina.”

“Cô ta đi hồi nào?”

“Sáu giờ sáng nay. Bay từ Memphis cùng Hanna. Cô ấy sẽ ở lại với ba mẹ tại Wilmington cho đến khi xử xong. Họ có một ngôi nhà nhỏ xinh đẹp bên bãi sông, nơi họ thường đến nghỉ mùa hè.”

“Cô ta mới đi sáng nay mà đến giữa trưa anh đã xỉn rồi.”

“Tôi không xỉn,” Jake đáp. “Chưa.”

“Anh uống bao lâu rồi?”

“Vài giờ. Tôi mua một hộp sáu lon lúc rời nhà Noose vào khoảng một giờ rưỡi. Còn ông, ông uống bao lâu rồi?”

“Tôi thường uống lúc điểm tâm. Anh đến nhà lão ấy làm gì vậy?”

“Chúng tôi thảo luận về phiên tòa trên bàn ăn trưa. Ông ta từ chối đổi địa điểm xét xử.”

“Sao cơ?”

“Ông nghe rồi đó. Phiên tòa sẽ diễn ra ở Clanton.”

Lucien nhấp một ngụm rồi khoắng khoắng mấy viên đá. “Sallie!” ông cất tiếng gọi.

“Lão có nói lý do không?”

“Có đấy. Nói là ở bất cứ đâu cũng không có cách gì tìm được bồi thẩm nào chưa nghe về vụ việc.”

“Tôi bảo rồi mà. Theo lẽ thường thì đó là lý do tốt để không di chuyển, nhưng về mặt pháp lý thì đó là một lý do nghèo nàn. Noose sai rồi.”

Sallie trở lại với ly rượu mới rồi mang bia của Jake vào tủ lạnh. Lucien nhấp một ngụm rồi liếm môi. Ông dùng tay chùi miệng rồi nốc một ngụm dài nữa.

“Anh hiểu điều đó có ý nghĩa gì rồi chứ?” ông hỏi.

“Dĩ nhiên. Một bồi thẩm đoàn toàn da trắng.”

“Điều đó, và cộng thêm với việc hủy kháng cáo nếu ông ta bị kết án.”

“Đừng đặt cược vào đó. Noose đã tham khảo Tòa Thượng Thẩm rồi. Ông ta nghĩ Tòa sẽ chuẩn thuận ông ta nếu ông ta yêu cầu. Ông ta nghĩ mình có căn bản vững chắc.”

“Lão là một gã ngốc. Tôi có thể cho lão xem hai chục vụ cho thấy phiên tòa cần phải đổi địa điểm. Tôi nghĩ lão sợ đổi.”

“Tại sao ông ta phải sợ chứ?”

“Lão đang bị áp lực.”

“Từ ai?”

Lucien ngắm nghía chất lỏng vàng vàng trong chiếc ly lớn rồi từ từ lấy ngón tay khoắng khoắng các viên đá. Ông nhoẻn cười, ra vẻ như mình biết điều gì đó nhưng sẽ không nói ra trừ phi được cầu xin.

“Từ ai vậy?” Jake hỏi, nhìn người bạn của anh bằng đôi mắt sáng rỡ và nóng hổi.

“Buckley,” Lucien hả hê nói.

“Buckley,” Jake lặp lại. “Tôi không hiểu.”

“Tôi biết anh không hiểu mà.”

“Ông làm ơn giải thích có được không?”

“Tôi nghĩ là được. Nhưng anh không được cho ai biết đâu đấy. Chuyện đó là bí mật. Đến từ những nguồn tin cậy.”

“Ai vậy?”

“Không nói được.”

“Nguồn của ông là ai?” Jake cố nài.

“Đã bảo tôi không nói được mà. Không nói đâu. Được chứ?”

“Làm sao Buckley lại áp lực được Noose cơ chứ?”

“Nếu anh chịu nghe thì tôi nói cho biết.”

“Buckley không có ảnh hưởng nào lên Noose cả. Noose khinh bỉ hắn. Chính ông ta nói với tôi như thế mà. Hôm nay. Lúc ăn trưa.”

“Tôi biết điều đó.”

“Vậy cớ sao ông nói Noose cảm thấy áp lực từ Buckley?”

“Nếu anh chịu im miệng thì tôi nói cho biết.”

Jake uống nốt chỗ bia rồi gọi Sallie.

“Anh biết Buckley là con điếm chính trị gian manh rồi chứ?” Jake gật đầu.

“Anh biết hắn thèm khát muốn thắng phiên này như thế nào rồi đấy. Hắn nghĩ nếu thắng thì hắn sẽ bung ra được chiến dịch tranh cử giành ghế bộ trưởng tư pháp."

“Thống đốc,” Jake nói.

“Sao cũng được. Hắn rất tham vọng, nói vậy được chưa?”

“Được.”

“Thế này nhé, hắn đang huy động các bạn bè chính trị gia khắp hạt để họ gọi cho Noose, gợi ý phiên tòa nên diễn ra ở hạt Ford. Một số người đã thực sự lỗ mãng với Noose. Đại loại như, thử di chuyển phiên tòa coi, chúng tôi sẽ gạt ông ra trong cuộc mùa bầu cử tới. Để nó ở lại Clanton, chúng tôi sẽ giúp ông tái đắc cử.”

“Tôi không tin chuyện đó.”

“Tùy anh. Nhưng đó là sự thực.”

“Làm sao ông biết?”

“Các nguồn tin.”

“Ai đã gọi cho ông ta?”

“Một ví dụ nhé. Có nhớ cái gã côn đồ làm cảnh sát trưởng ở hạt Van Buren không? Gã Motley ấy? FBI đã chộp được hắn, nhưng giờ thì hắn thoát rồi. Vẫn được trọng vọng ở cái hạt đó.”

“Ừ, tôi nhớ rồi.”

“Tôi biết chắc chắn hắn đến nhà Noose cùng vài tay chân của hắn và gợi ý rất táo tợn rằng Noose nên giữ lại phiên tòa ở đây, Buckley đã gửi chúng đến.”

“Noose nói sao?”

“Họ khá nặng lời với nhau. Motley bảo Noose rằng lão sẽ không có nổi năm mươi phiếu bầu tại hạt Van Buren trong mùa bầu cử tới. Chúng hứa sẽ bịt thùng phiếu, quấy rối đám dân da đen, gian lận các phiếu vắng mặt, những hoạt động thường thấy vào ngày bầu cử ở hạt Van Buren. Và Noose biết chúng sẽ làm thật.”

“Tại sao ông ta lo lắng chuyện đó?”

“Đừng ngốc thế chứ, Jake. Noose là một lão già chẳng còn làm được gì ngoài việc làm thẩm phán. Anh có hình dung nổi lão cố khởi hoạt một đạo luật mới không? Lão kiếm được sáu mươi ngàn mỗi năm và sẽ chết đói nếu bị hạ. Các thẩm phán hầu hết đều thế cả. Lão phải giữ cái công việc đó chứ. Buckley biết tỏng điều này nên hắn bàn với mấy tay cực đoan ở địa phương, bơm họ lên rồi bảo họ rằng gã mọi đen xấu xa kia sẽ được trắng án nếu đổi địa điểm xét xử, vì vậy họ phải gây áp lực một chút lên ông thẩm phán. Đó là lý do vì sao Noose cảm thấy bị áp lực.”

Họ uống vài phút trong im lặng, cả hai nhè nhẹ đong đưa trên chiếc ghế đu cao bằng gỗ. Bia tạo cảm giác dễ chịu.

“Còn áp lực hơn cả thế nữa đấy,” Lucien nói.

“Cho ai chứ?”

“Cho Noose.”

“Áp lực gì vậy?”

“Lão còn bị dọa dẫm nữa. Không phải dọa dẫm chính trị đâu, mà là dọa đến tính mạng. Nghe nói lão sợ chết khiếp. Đã gọi cảnh sát đến canh gác nhà lão. Giờ thì lão còn mang theo súng nữa kìa.”

“Tôi hiểu cảm giác đó,” Jake làu bàu.

“Ờ, tôi có nghe nói.”

“Ông nghe gì?”

“Về vụ mìn đó mà. Hắn là ai vậy?”

Jake sửng sốt. Anh trân trối nhìn Lucien, không nói được lời nào.

“Đừng hỏi. Tôi có nhiều quan hệ. Hắn là ai vậy?”

“Chẳng ai biết cả.”

“Nghe có vẻ dân chuyên nghiệp nhỉ”

“Cảm ơn nhé,”

“Anh được chào đón nếu muốn ngụ lại đây. Tôi có đến năm phòng ngủ cơ đấy.”

Mặt trời đã lặn vào lúc tám giờ rưỡi khi Ozzie đậu chiếc xe tuần tra của ông sau chiếc Saab mà lúc này vẫn nằm sau đuôi chiếc Porshe. Ông bước đến chân cầu thang dẫn lên hàng hiên. Lucien thấy Ozzie trước. “Chào cảnh sát trưởng,” ông cất tiếng với chiếc lưỡi đắng và lóng ngóng.

“Chào Lucien. Jake đâu rồi?”

Lucien hất đầu về cuối hàng hiên, nơi Jake nằm ườn trên chiếc xích đu. “Anh ta đang chợp mắt,” Lucien nhanh nhẩu giải thích. Ozzie bước qua những tấm ván kẽo kẹt, đứng trên cái thân hình mê man đang ngáy một cách yên bình. Ông đấm nhẹ vào mạn sườn anh. Jake mở mắt ra, chật vật ngồi dậy. “Carla gọi đến văn phòng tôi để tìm anh. Cô ta lo lắng đến phát ốm. Cô ta đã gọi anh suốt buổi chiều mà không được. Chẳng ai thấy anh đâu cả. Cô ta nghĩ anh chết rồi.”

Jake dụi mắt. Chiếc xích đu khẽ đong đưa. “Hãy nói với cô ta là tôi chưa chết. Bảo cô ta là ông đã gặp và nói chuyện với tôi, và ông không chút mảy may nghi ngờ rằng tôi chưa chết. Bảo cô ta rằng mai tôi sẽ gọi lại. Bảo cô ta vậy đi, Ozzie, làm ơn bảo cô ta.”

“Đừng hòng, anh bạn. Anh lớn tướng rồi. Anh tự gọi, tự nói với cô ta đi.” Ozzie bước ra khỏi hàng hiên. Ông không đùa.

Jake chật vật đứng dậy, lảo đảo đi vào nhà. “Điện thoại đâu?” anh quát với Sallie. Trong khi quay số, anh nghe tiếng Lucien cười nắc nẻ.

⚝ ✽ ⚝

[✽] Grand Dragon. Đây là chức vị của người phụ trách KKK ở một bang của Hoa Kỳ.