Chương 35
Carla tìm ra bài phóng sự trên trang hai của chủ đề đinh. “Bồi thẩm đoàn toàn da trắng cho Hailey,” dòng tít ghi như vậy. Jake đã không gọi vào tối thứ Ba. Cô đọc bài phóng sự, quên cả tách cà phê.
Ngôi nhà nằm ở một khu vực bán biệt lập với bãi biển. Hàng xóm gần nhất ở cách đến gần hai trăm mét. Cha cô sở hữu mảnh đất ở giữa và không có kế hoạch bán nó đi. Ông đã xây ngôi nhà từ mười năm về trước, khi ông bán công ty của ông ở Knoxville và nghỉ hưu trong thịnh vượng. Carla là con một, và nay Hanna có thể là cháu gái duy nhất. Ngôi nhà—với bốn phòng ngủ và bốn phòng tắm nằm rải rác trên ba tầng lầu—có đủ không gian cho một tá cháu ngoại. Cô đọc xong bài báo rồi bước đến các cửa sổ nhỏ trong phòng điểm tâm, nhìn ra bãi biển và đại dương. Khối sáng cam của vầng dương vừa nhú khỏi chân trời. Cô thường chọn sự ấm áp của chăn nệm cho đến mãi sau rạng đông, nhưng cuộc sống cùng Jake đã mang tới sự phiêu lưu mới trong bảy giờ đầu tiên mỗi ngày. Cơ thể cô được cấu tạo để cùng lắm chỉ thức dậy vào lúc năm giờ ba mươi. Anh có lần bảo cô rằng mục tiêu của anh là đi làm lúc trời còn tối và trở về nhà từ chỗ làm cũng trong bóng tối. Anh thường đạt mục tiêu của mình. Anh rất hãnh diện vì làm việc nhiều giờ hơn mỗi ngày so với mọi luật sư khác ở hạt Ford. Anh rất khác cô, nhưng cô yêu anh.
Cách bảy mươi bảy cây số phía đông bắc hạt Ford, thủ phủ Milburn của hạt Temple nằm yên bình bên dòng sông Tippah. Milburn có ba ngàn dân và hai nhà trọ. Nhà trọ Temple Inn vắng lặng. Không có lý do tinh thần nào để ở đó vào thời điểm này trong năm. Ở cuối một chái nhà tách biệt, tám căn phòng được choán giữ và canh gác bởi các binh lính và vài cảnh sát bang. Mười người phụ nữ được ghép phòng với nhau rất khéo, cũng như Barry Acker và Clyde Sisco. Người thay thế da đen, Ben Lester Newton, được hưởng một phòng riêng, cũng như người thay thế kia, Francie Pitts. Truyền hình đã bị ngắt và không một tờ báo nào được cho phép. Bữa ăn tối thứ Ba được đưa đến tận phòng, và bữa điểm tâm thứ Tư được mau chóng mang đến vào lúc bảy giờ ba mươi, khi chiếc Greyhound được làm nóng máy và thổi khói diesel mù mịt cả bãi xe. Ba mươi phút sau, mười bốn người được đưa lên xe và lên đường đến Clanton cùng những chiếc xe hộ tống.
Trên xe buýt, họ kháo chuyện với nhau về gia đình và công việc. Vài ba người đã quen biết nhau từ trước hôm thứ Hai, nhưng phần lớn là những người xa lạ. Họ lúng túng tránh đề cập đến lý do họ ở đó và nhiệm vụ trước mắt họ. Thẩm phán Noose rất dứt khoát trong chuyện này: không có bàn luận nào về vụ án. Họ muốn nói về nhiều điều: vụ cưỡng dâm, những gã cưỡng hiếp, Carl Lee, Jake, Buckley, Noose, Klan, rất nhiều điều. Mọi người đều biết những vụ đốt thập giá, nhưng không ai bàn luận gì, chí ít là không bàn luận trên xe buýt. Họ đã có nhiều bàn luận trong các phòng của nhà trọ.
Chiếc Greyhound đến tòa án lúc chín giờ kém năm. Các bồi thẩm dõi nhìn qua cửa sổ xe tối mờ để xem có bao nhiêu người da đen, bao nhiêu thành viên Klan và bao nhiêu người khác đang bị các vệ binh ngăn cách. Chiếc xe buýt được dễ dàng cho qua các rào cản, và đậu lại ở phía sau tòa án, nơi các cảnh sát đang chờ sẵn để hộ tống họ lên cầu thang càng nhanh càng tốt. Họ leo lên cầu thang và vào phòng bồi thẩm, nơi cà phê và bánh rán đang đợi sẵn. Chấp hành viên thông báo cho họ rằng đã chín giờ và Ngài thẩm phán đã sẵn sàng để bắt đầu. Ông dẫn họ vào phòng xử chật kín rồi vào khoang bồi thẩm, nơi họ ngồi vào những chỗ đã ấn định cho họ.
“Tất cả đứng dậy chào tòa,” ông Pate hô lớn.
“Mời an tọa,” Noose nói khi ngồi phịch xuống chiếc ghế da ngất ngưởng phía sau bục thẩm phán. “Chào buổi sáng, thưa quý bà quý ông,” ông nồng nhiệt nói với các bồi thẩm. “Tôi tin rằng tất cả quý vị đều cảm thấy thoải mái sáng nay và sẵn sàng đi tiếp.”
Tất cả đều gật đầu.
“Tốt. Tôi sẽ hỏi quý vị câu này mỗi buổi sáng: Tối qua có ai tìm cách liên lạc với quý vị, nói chuyện với quý vị, hay ảnh hưởng lên quý vị bằng cách này hay cách khác không?”
Tất cả đều lắc đầu.
“Tốt. Quý vị có thảo luận với nhau về vụ án không?”
Tất cả đều nói dối và lắc đầu.
“Tốt. Nếu có ai tìm cách liên lạc với quý vị và thảo luận về vụ án này, tôi mong quý vị hãy báo cáo cho tôi ngay lập tức. Quý vị đã hiểu chưa?”
Họ gật đầu.
“Nay đã đến lúc chúng ta sẵn sàng để khởi đầu phiên tòa. Trình tự công việc đầu tiên là cho phép các luật sư có lời phát biểu khai mạc. Tôi muốn lưu ý quý vị rằng bất cứ điều gì các luật sư nói đều không được tuyên thệ, và không được xem là bằng chứng. Ông Buckley, ông có muốn phát biểu khai mạc không?”
Buckley đứng dậy, cài nút chiếc áo vest polyester láng cóng của ông.
“Vâng, thưa Ngài.”
“Tôi cũng nghĩ vậy. Ông có thể tiến hành được rồi.”
Buckley nhấc chiếc bục gỗ nhỏ, di chuyển nó đến đối diện khoang bồi thẩm, nơi ông đứng ra phía sau, hít thở sâu rồi chầm chậm lật xem vài ghi chép trong cuốn sổ. Ông tận hưởng cái giai đoạn yên ắng ngắn ngủi này, khi tất cả mọi cặp mắt đều dồn về ông, tất cả mọi đôi tai đều khắc khoải chờ từng lời của ông. Ông khởi đầu bằng việc cảm ơn các bồi thẩm có mặt ở đó vì lòng hy sinh và tinh thần công dân của họ (cứ như họ được phép lựa chọn vậy, Jake nghĩ thế). Ông tự hào về họ và hân hạnh được hợp tác với họ trong vụ án cực kỳ quan trọng này. Một lần nữa, ông là luật sư của họ. Thân chủ của ông là bang Mississippi. Ông bày tỏ lo ngại rằng trách nhiệm kinh khủng mà họ, những người dân, trao cho ông, Rufus Buckley, một luật sư khiêm tốn và quê mùa đến từ Smithfield. Ông huyên thuyên về mình và suy nghĩ của mình về phiên tòa; về những hy vọng và cầu nguyện của ông rằng ông có thể làm tốt công việc cho người dân của bang này.
Ông tung bài diễn văn rất giống với tất cả những phát biểu khai mạc của ông, nhưng bài diễn văn này là một cuộc trình diễn hoàn hảo hơn. Nó đã được trau chuốt, được thanh tẩy khỏi mọi thứ rác rưởi và ám chướng. Jake chỉ muốn mắng vào mặt Buckley, nhưng từ kinh nghiệm của mình anh biết Ichabod sẽ không chấp nhận một sự phản đối nào trong phát biểu khai mạc trừ phi sự vi phạm là quá mức sống sượng, và bài hùng biện của Buckley không đi theo đúng chuẩn. Tất cả sự chân thành và vồn vã giả tạo này làm cho Jake cáu tiết vô cùng tận, trước hết vì bồi thẩm đoàn sẽ lắng nghe và thường xuyên ăn phải bã. Bên nguyên luôn là người tốt, người tìm kiếm lẽ phải và sự công bằng, người trừng phạt kẻ đã phạm tội ác tày trời, nhốt hắn ta lại vĩnh viễn để hắn ta không gây thêm tội ác nào nữa. Buckley là bậc thầy trong việc thuyết phục bồi thẩm đoàn—ngay từ vạch xuất phát, ngay từ bài phát biểu khai mạc—rằng điều đó là tùy thuộc vào họ. Ông ta và mười hai người được chọn ra là những người mẫn cán tìm chân lý, cùng với nhau như một đội, đoàn kết để chống lại cái ác. Điều mà họ theo đuổi là chân lý, không gì khác ngoài chân lý. Tìm được chân lý thì công lý sẽ thắng. Đi theo ông ta, Rufus Buckley, người luật sư của nhân dân, họ sẽ tìm ra chân lý.
Vụ hãm hiếp là một hành động khủng khiếp. Ông là một người cha, kỳ thực cũng có con gái bằng độ tuổi Tonya Hailey, và khi mới thoạt nghe vụ hãm hiếp ông đã thấy quặn cả bụng. Ông buồn đau cho Carl Lee và vợ ông ta. Phải, ông đã nghĩ đến cô con gái bé bỏng của ông và đã nghĩ đến việc báo thù.
Jake nhoẻn một nụ cười nhanh với Ellen. Chuyện này thật thú vị. Buckley đã chọn đối đầu với vụ hãm hiếp thay vì cố giấu nhẹm nó trước bồi thẩm đoàn. Jake đã trông đợi một một cuộc đối đầu lớn với ông ta về tính chấp nhận được của mọi lời khai liên quan đến vụ hãm hiếp. Nghiên cứu của Ellen đã tìm ra điều luật quy định rõ những chi tiết gớm guốc là không thể chấp nhận, nhưng điều không được rõ ràng lắm là chúng có thể được nhắc đến hay đề cập đến hay không. Dĩ nhiên Buckley đã cảm thấy tốt hơn hết là chấp nhận vụ hãm hiếp thay vì che giấu nó. Một nước cờ cao, Jake nghĩ, vì toàn bộ mười hai người và cả thế giới còn lại đằng nào cũng đã biết rõ các chi tiết rồi.
Ellen cũng mỉm cười. Vụ hãm hiếp Tonya Hailey lần đầu tiên sắp được xử.
Buckley trình bày rằng việc cha mẹ muốn báo thù cũng là lẽ tự nhiên. Nếu là ông thì cũng thế thôi, ông thừa nhận. Nhưng—ông tiếp tục với giọng nói càng lúc càng đanh thép—có một sự khác biệt lớn giữa việc muốn báo thù và thực hiện việc báo thù.
Lúc này ông đã nóng máy. Ông cố tình đi qua đi lại, phớt lờ cả chiếc bục, để tìm kiếm nhịp độ. Ông lao vào một bài diễn văn hai mươi phút về hệ thống công lý hình sự, nó đi vào vận hành như thế nào ở Mississippi, và đã có bao nhiêu kẻ cưỡng dâm mà cá nhân ông, Rufus Buckley, đã gửi đến nhà ngục Pachman để thụ án chung thân đối với hầu hết chúng. Hệ thống hữu hiệu vì người dân Mississippi có thừa đủ trí khôn để làm cho nó hữu hiệu, và hệ thống đó sẽ sụp đổ nếu như những kẻ như Carl Lee Hailey được phép đi tắt qua hệ thống và thực thi công lý theo cách riêng của họ. Hãy hình dung mà xem. Một xã hội vô luật pháp nơi những kẻ tự hành công lý mặc sức tự tung tự tác. Không cảnh sát, không nhà tù, không xét xử, không bồi thẩm. Mỗi người phải tự lo cho bản thân.
Quả là một sự trớ trêu, ông nói, hạ giọng trong một khoảnh khắc. Carl Lee Hailey lúc này đang ngồi phía trước họ, đòi hỏi một quy trình đúng đắn và một phiên xử công bằng, thế mà chính ông ta đã không tin vào những điều như thế. Hãy hỏi những người mẹ của Billy Ray Cobb và Pete Willard. Hãy hỏi họ xem những người con của họ phải được xét xử công bằng kiểu nào đây.
Ông dừng lại để cho phép bồi thẩm đoàn và phòng xử hấp thu và cân nhắc suy nghĩ sau cùng này. Nó lắng đọng sâu sắc, và từng người trong bồi thẩm đoàn đều hướng mắt về Carl Lee Hailey. Họ không có vẻ gì là trắc ẩn. Jake cạy móng tay bằng con dao nhỏ, trông cực kỳ chán chường. Tại bục diễn thuyết, Buckley giả vờ như kiểm tra lại các ghi chép của ông rồi nhìn đồng hồ đeo tay. Ông lại nói tiếp, lần này với một âm điệu tự tin và thực tiễn bậc nhất. Công tố sẽ chứng minh rằng Carl Lee Hailey đã lập kế hoạch kỹ lưỡng cho việc giết người. Ông ta đã chờ đợi gần một giờ bên trong căn phòng nhỏ cạnh cầu thang, nơi ông ta biết các gã kia sẽ được dẫn qua để đưa về nhà giam. Cách chi đó, ông ta đã tuồn được một khẩu M-16 vào tòa án. Buckley bước đến chiếc bàn nhỏ cạnh người phóng viên tòa án và nhấc bổng khẩu M-16. “Đây là khẩu M-16,” ông tuyên bố với bồi thẩm đoàn, lắc nó dữ dội bằng một tay. Ông đặt nó lên bục diễn thuyết và nói về việc khẩu súng đã được Carl Lee Hailey cẩn thận lựa chọn như thế nào bởi lẽ ông ta đã từng sử dụng nó trước đây trong cận chiến và biết cách dùng nó để giết người. Ông ta đã được huấn luyện sử dụng M-16. Đó là một khẩu súng bất hợp pháp. Ta không thể mua nó ở Western Auto. Ông ta phải tìm kiếm nó. Ông ta đã lên kế hoạch cho khẩu súng đó.
Chứng cớ đã rõ ràng: có toan tính trước, lập kế hoạch kỹ lưỡng, giết người một cách máu lạnh.
Và rồi còn có chuyện cảnh sát DeWayne Looney nữa. Một cảnh sát kỳ cựu từng phục vụ mười bốn năm tại văn phòng cảnh sát trưởng.
Một người đàn ông của gia đình—một trong những viên chức chấp pháp tốt nhất mà ông từng biết. Bị bắn gục bởi Carl Lee Hailey trong khi đang làm bổn phận. Chân của ông đã bị của một phần. Ông ta làm gì xấu cơ chứ? Có lẽ bên bị sẽ nói đó là do tai nạn nên không thể tính đến. Đó không phải là cách biện minh ở Mississippi này.
Không có sự biện minh nào cả đối với tất cả sự bạo hành đó, thưa quý bà quý ông. Phán quyết phải là có tội.
Mỗi người họ được một tiếng đồng hồ cho bài phát biểu khai mạc, và sự cám dỗ của việc dư dả thời gian đã chứng tỏ là không thể nào cưỡng nổi đối với vị D.A., người mà các bình luận đang trở nên lặp đi lặp lại. Ông đã hai lần bị lạc ý khi lên án thủ đoạn viện dẫn tâm thần. Các bồi thẩm trông bắt đầu chán ngán. Họ tìm kiếm những điểm khác trong phòng xử và dồn sự chú ý. Các họa sĩ ngừng vẽ, các phóng viên ngừng viết, và Noose đã chùi cặp mục kỉnh của ông đến bảy hoặc tám lần. Điều mà ai cũng biết là Noose chùi mục kỉnh là để đỡ buồn ngủ và để chiến đấu chống lại sự chán chường, và ông đã chùi mục kỉnh thường xuyên trong suốt phiên tòa này. Jake từng thấy ông chùi mục kỉnh bằng khăn tay, cà vạt, hay vạt áo trong khi các nhân chứng bật khóc và khi các luật sư la lối, vung tay quát nạt nhau. Noose không bỏ qua một từ nào, một phản đối hay một chiêu trò nào. Ông chỉ chán ngán tất cả những chuyện đó, ngay cả với một vụ việc ở tầm cỡ này. Ông không bao giờ ngủ gục trên ghế thẩm phán, mặc dù đôi lúc sự cám dỗ là cực lớn. Thay vào đó, ông tháo mục kỉnh, đưa nó lên ánh sáng, thổi phù phù vào nó, chùi nó cứ như thể nó bị bám đầy mỡ, rồi gắn nó lại ở phía bắc của cái hạt mụn cóc. Chưa đầy năm phút sau, nó sẽ bị dơ trở lại. Buckley càng lê lết thì cặp mục kỉnh của Noose càng sạch bóng.
Cuối cùng, sau một tiếng rưỡi đồng hồ, Buckley chịu ngậm miệng lại và phòng xử thở phào.
“Mười phút giải lao,” Noose tuyên bố rồi lần ra cánh cửa, đi qua phòng thẩm phán để đến thẳng nhà vệ sinh nam.
Jake đã lên kế hoạch một bài phát biểu khai mạc ngắn. Sau cuộc chạy marathon của Buckley, anh quyết định làm cho nó thậm chí còn ngắn hơn. Hầu hết mọi người đều không ưa các luật sư dài dòng, ba hoa và lắm lời, những người luôn cảm thấy một điểm nào có ý nghĩa thì phải nhắc đi nhắc lại ít nhất ba lần, còn những điểm quan trọng thì phải đóng, phải khoan bằng cách liên tục lặp lại, bất kể ai là người phải nghe. Vì hai lý do rất tốt, các bồi thẩm đặc biệt không ưa những luật sư lãng phí thời gian. Thứ nhất, họ không thể bảo các luật sư này im miệng. Họ là những người bị cầm giữ. Ở ngoài phòng xử, người ta có thể chửi mắng luật sư, bắt luật sư câm miệng lại, nhưng trong khoang bồi thẩm thì họ đã trở nên sa bẫy và bị cấm nói. Cho nên họ phải nương cậy vào việc ngủ gục, việc ngáy, việc nhòm ngó, việc vặn vẹo, việc xem đồng hồ, hay hàng tá biểu hiện khác mà những luật sư nhàm chán chẳng bao giờ nhận ra. Thứ hai, các bồi thẩm không thích những phiên tòa kéo dài. Hãy tém dẹp những thứ tào lao và giải quyết cho xong. Hãy đưa cho chúng tôi các sự kiện và chúng tôi sẽ đưa cho quý vị lời phán quyết.
Anh giải thích điều này cho thân chủ của anh trong lúc giải lao. “Tôi đồng ý. Anh hãy nói ngắn thôi,” Carl Lee nói.
Anh đã làm đúng y chang như vậy. Một phát biểu khai mạc mười bốn phút và bồi thẩm đoàn thích thú với từng lời. Anh bắt đầu bằng việc nói về những bé gái, và chúng đặc biệt như thế nào. Chúng khác với các bé trai và cần có sự bảo vệ đặc biệt. Anh kể cho họ về con gái của anh và mối dây liên hệ cha con, một mối dây không thể nào giải thích mà cũng không thể nào xen vào. Anh thừa nhận sự ngưỡng mộ đối với ông Buckley về khả năng ông ta có thể tha thứ và đối xử nhân từ với bất kỳ tay biến thái và nghiện ngập nào có thể cưỡng hiếp con gái của ông ta. Ông ta quả thật là một vĩ nhân. Nhưng trên thực tế, liệu họ, với tư cách bồi thẩm, với tư cách cha mẹ, có thể nào nhân từ như thế, tin cậy như thế nếu con gái của họ bị hãm hiếp—bởi hai gã say xỉn, vô cảm, cục súc đã trói con bé vào một thân cây và…
“Phản đối!” Buckley hét lên.
“Chấp nhận phản đối!” Noose hét lại.
Phớt lờ những tiếng hét qua lại, anh nhỏ nhẹ nói tiếp. Anh yêu cầu họ hãy thử hình dung, xuyên suốt phiên tòa, họ cảm thấy thế nào nếu đó là con gái của họ. Anh yêu cầu họ không kết án Carl Lee mà hãy trả ông ta về lại với gia đình của ông ta. Anh không nhắc gì đến chuyện tâm thần. Họ đã biết nó sẽ đến. Chỉ mới mở lời ít lâu, anh đã kết thúc, để lại ấn tượng nơi bồi thẩm đoàn về sự tương phản rõ rệt giữa hai phong cách trái ngược nhau.
“Chỉ thế thôi sao?” Noose ngạc nhiên hỏi.
Jake gật đầu và đến ngồi bên thân chủ của anh.
“Rất tốt. Ông Buckley, ông có thể mời nhân chứng đầu tiên của ông.”
“Công tố mời Cora Cobb.”
Chấp hành viên vào phòng nhân chứng để triệu tập bà Cobb. Ông dẫn bà qua cánh cửa cạnh khoang bồi thẩm để vào phòng xử, nơi bà được Jean Gillespie cho tuyên thệ và sắp ngồi vào ghế nhân chứng.
“Hãy nói vào micro,” chấp hành viên hướng dẫn.
“Bà là Cora Cobb?” Buckley mở hết giọng khi ông đứng trên bục diễn thuyết gần rào chắn.
“Vâng, thưa ông.”
“Bà sống ở đâu?”
“Đường số 3. Lake Village, hạt Ford.”
“Bà là mẹ của Billy Ray Cobb đã khuất?”
“Vâng, thưa ông,” bà nói với đôi mắt ngấn lệ. Bà là một phụ nữ nông thôn bị chồng bỏ từ lúc các con trai còn bé. Chúng tự bươn chải trong khi bà làm việc hai ca tại một xưởng sản xuất hàng nội thất rẻ riền nằm giữa Karaway và Lake Village. Bà đã mất kiểm soát các con từ khi chúng còn rất bé. Nay bà trạc năm mươi tuổi, cố làm ra vẻ như bốn mươi bằng thuốc nhuộm tóc và son phấn, nhưng lại rất dễ bị đoán nhầm ngoài sáu mươi.
“Lúc mất con trai bà bao nhiêu tuổi?”
“Hai mươi ba.”
“Lần cuối cùng bà thấy anh ta còn sống là khi nào?”
“Chỉ vài giây trước khi nó bị giết.”
“Bà thấy anh ta ở đâu?”
“Ở đây, trong phòng xử này.”
“Anh ta bị giết ở đâu?”
“Ở dưới nhà.”
“Bà có nghe thấy những tiếng súng đã giết chết con trai của bà không?”
Bà bắt đầu sụt sùi khóc. “Có, thưa ông.”
“Lần cuối bà thấy anh ta là ở đâu?”
“Tại lễ tang.”
“Tình trạng anh ta như thế nào?”
“Nó đã chết.”
“Không còn gì khác để hỏi,” Buckley tuyên bố.
“Ông Brigance, thẩm vấn chéo chứ?”
Bà là một nhân chứng vô hại, được gọi đến để thiết lập rằng nạn nhân đã thực sự chết, và để khơi gợi đôi chút thiện cảm. Thẩm vấn chéo chẳng thể đạt được gì và nếu là bình thường thì bà đã được miễn. Nhưng Jake đã nhìn thấy một cơ hội mà anh không thể bỏ qua. Anh thấy đó là một dịp để tạo cảm hứng cho phiên tòa, để đánh thức Noose, Buckley và bồi thẩm đoàn, để đơn giản khiến mọi người tỉnh giấc. Bà không thực sự đáng thương đến vậy; bà đang vờ vĩnh chi đó. Có lẽ Buckley đã dặn dò bà cố rặn ra nước mắt.
“Chỉ vài câu hỏi thôi,” Jake nói khi bước đến bục diễn thuyết, phía sau Buckley và Musgrove. Vị D.A. lập tức cảnh giác.
“Bà Cobb, có đúng con trai bà đã từng bị kết án vì buôn bán cần sa không?”
“Phản đối!” Buckley gầm lên, đứng bật dậy. “Không thể kể đến thành tích hình sự của nạn nhân.”
“Chấp nhận phản đối!”
“Cảm ơn Ngài,” Jake lễ độ nói như thể Noose vừa cho anh một ân huệ.
Ba Cobb chùi nước mắt và khóc lớn hơn.
“Bà nói con trai bà hai mươi ba tuổi khi anh ta qua đời?”
“Vâng.”
“Ở tuổi hai mươi ba, có bao nhiêu đứa trẻ đã bị anh ta hãm hiếp?”
“Phản đối! Phản đối!” Buckley hét lớn, vung hai tay, tuyệt vọng nhìn Noose, người cũng quát lên, “Chấp nhận! Chấp nhận! Ông Brigance, ông đã sai quy tắc. Ông sai quy tắc rồi!”
Bà Cobb khóc ầm lên, không thể kiểm soát, khi những tiếng quát bột phát. Bà cố giữ chiếc micro sao cho nó ở ngay trước mặt. Tiếng khóc than buồn đau của bà vang vọng khắp phòng xử chưng hửng.
“Ông ta phải bị khiển trách, thưa Ngài!” Buckley đòi hỏi, khuôn mặt và đôi mắt toát lửa giận, còn cái cổ thì đỏ tía.
“Tôi rút lại câu hỏi” Jake lớn tiếng đáp khi anh trở về chỗ ngồi của mình.
“Rẻ tiền lắm, Brigance,” Musgrove làu bàu.
“Xin ông hãy khiển trách ông ta và dặn bồi thẩm đoàn miễn chấp,” Buckley cầu xin.
“Có cần thẩm vấn thêm không?” Noose hỏi.
“Không,” Buckley đáp rồi cầm khăn tay lao đến bục nhân chứng để giải cứu bà Cobb, người đang hai tay ôm đầu thổn thức và rung lên bần bật.
“Bà đã được miễn, thưa bà Cobb,” Noose nói. “Chấp hành viên, làm ơn hãy trợ giúp nhân chứng.”
Với sự trợ lực của Buckley, ông chấp hành viên đỡ tay bà đứng dậy khỏi bục nhân chứng, ngay trước khoang bồi thẩm. Ông đưa bà qua rào chắn xuống lối đi trung tâm. Bà kêu khóc, rên rỉ theo từng bước chân. Những tiếng ồn bà gây ra tăng dần lên khi bà đến gần cửa hậu, cho đến khi bà gào to hết cỡ và bước ra ngoài.
Noose nhìn Jake không chớp mắt cho đến khi bà đi khỏi và phòng xử yên ắng trở lại. Rồi ông quay sang bồi thẩm đoàn và nói: “Xin làm ơn hãy miễn chấp câu hỏi sau cùng này của ông Brigance.”
"Anh làm vậy để làm gì?” Carl Lee thì thào với luật sư của ông.
“Tôi sẽ giải thích sau.”
“Công tố cho mời Earnestine Willard,” Buckley tuyên bố bằng một giọng bình tĩnh hơn và với nhiều sự ngập ngừng hơn hẳn. Bà được đưa ra từ phòng nhân chứng ở phía trên phòng xử. Bà tuyên thệ và được cho ngồi.
“Bà là Earnestine Willard?” Buckley hỏi.
“Vâng, thưa ông," bà nói bằng một giọng yếu ớt. Cuộc đời cũng nghiệt ngã cả với bà, nhưng bà vẫn giữ phần nào phẩm giá, điều khiến bà trở nên đáng thương và đáng tin hơn bà Cobb. Trang phục của bà không mắc tiền nhưng sạch sẽ và được là ủi ngay ngắn. Tóc bà không dùng đến thứ thuốc nhuộm đen rẻ tiền mà bà Cobb phụ thuộc nhiều đến vậy. Khuôn mặt bà không có những lớp phấn son. Khi bà bắt đầu khóc thì bà khóc vì nỗi niềm của chính mình.
“Và bà sống ở đâu?”
“Ở ngoại ô Lake Village."
“Pete Willard là con trai bà?”
“Vâng, thưa ông.”
“Khi nào bà thấy anh ta lần cuối cùng lúc còn sống?”
“Đúng tại phòng này, ngay trước khi nó bị giết.”
“Bà có nghe thấy những tiếng súng đã giết chết con trai của bà không?”
“Có, thưa ông.”
“Bà thấy anh ta lần cuối khi nào?”
“Tại lễ tang.”
“Và tình trạng anh ta như thế nào?”
“Nó đã chết,” bà nói, chậm nước mắt bằng một mảnh khăn Kleenex.
“Tôi rất tiếc,” Buckley nói. “Không có câu hỏi nào khác,” ông nói thêm, thận trọng nhìn Jake.
“Có thẩm vấn chéo không?” Noose hỏi, cũng nhìn Jake đầy ngờ vực.
“Chỉ đôi câu thôi,” Jake nói.
“Bà Willard, tôi là Jake Brigance.” Đứng sau bục diễn thuyết, anh nhìn bà không chút xót thương.
Bà gật đầu.
“Con trai bà bao nhiêu tuổi lúc anh ta từ trần?”
“Hai mươi bảy.”
Buckley kéo ghế ra xa bàn và ngồi lên mép, sẵn sàng để bật dậy. Noose gỡ mục kỉnh và chồm về phía trước. Carl Lee cúi thấp đầu.
“Trong hai mươi bảy năm cuộc đời, đã có bao nhiêu đứa trẻ bị anh ta hãm hiếp?”
Buckley bật dậy thẳng đứng. “Phản đối! Phản đối! Phản đối!”
“Chấp nhận! Chấp nhận! Chấp nhận!”
Tiếng la lối khiến bà Willard hoảng sợ, và bà càng khóc lớn hơn nữa.
“Khiển trách ông ta đi, ông thẩm phán! Ông ta phải bị khiển trách!”
“Tôi rút lại câu hỏi,” Jake nói trên đường trở về chỗ ngồi của anh.
Buckley đưa hai tay cầu xin. “Nói vậy là chưa đủ tốt, ông thẩm phán! Ông ta phải bị khiển trách!”
“Ta vào phòng của tôi đi,” Noose ra lệnh. Ông miễn cho nhân chứng và ngưng phiên tòa cho đến một giờ chiều.
Harry Rex đang đợi trên ban công văn phòng của Jake với những chiếc sandwich và một vại margarita. Jake từ chối và uống nước bưởi. Ellen muốn uống chỉ một ly, một ly nhỏ thôi mà cô nói là để làm dịu thần kinh. Bữa trưa đã được Dell chuẩn bị cho Ngày Ba và được giao đến văn phòng của Jake. Đó là lời cổ vũ của Coffee Shop.
Họ ăn và thư giãn trên ban công, ngắm nhìn cuộc hội hè quanh tòa án.
“Chuyện gì đã xảy ra trong phòng thẩm phán?” Harry Rex thắc mắc.
Jake gặm một miếng sandwich Reuben. Anh bảo anh muốn nói chuyện gì khác chuyện xét xử.
“Chuyện gì xảy ra trong phòng thẩm phán vậy, chết tiệt?”
“Đội Cardinals đã bị thua ba bàn, cô biết điều đó không, Row Ark?”
“Tôi tưởng là bốn chứ.”
“Chuyện gì xảy ra trong phòng thẩm phán?”
“Anh có thực sự muốn biết không?”
“Có! Có chứ!”
“Được rồi. Tôi phải dùng phòng vệ sinh đây. Khi nào trở lại tôi sẽ nói cho anh biết.” Jake bỏ đi.
“Row Ark, chuyện gì xảy ra trong phòng thẩm phán vậy?”
“Cũng chẳng có gì nhiều. Noose quần Jake một trận tơi bời, nhưng không có tổn thất thường trực nào. Buckley muốn máu, và Jake nói anh chắc chắn điều đó sẽ đến nếu khuôn mặt của Buckley đỏ thêm nữa. Buckley chửi bới, la hét, tố cáo Jake cố tình làm nóng bồi thẩm đoàn, như cách ông ta gọi. Jake chỉ mỉm cười với ông ta và nói ‘tôi rất tiếc, Thống đốc’. Mỗi lần anh ta nói thống đốc là Buckley lại hét toáng lên với Noose, ’Ông ta gọi tôi là thống đốc kìa, ông thẩm phán, ông làm gì đi chứ. Và Noose nói 'Làm ơn đi, các quý ông, tôi chờ đợi các ông hành xử một cách chuyên nghiệp.' Và Jake bèn nói, 'Cảm ơn, Ngài.' Rồi anh ta lại chờ vài phút nữa để tiếp tục gọi Buckley là thống đốc.”
“Tại sao anh ta phải làm cho hai người phụ nữ lớn tuổi ấy khóc?”
“Đó là một nước đi thông minh, Harry Rex ạ. Anh ta chỉ ra cho bồi thẩm đoàn, Noose, Buckley, và mọi người rằng đây là phòng xử của anh ta và anh ta không sợ bất cứ gã chết tiệt nào ở đó. Anh ta gây sự trước. Anh ta làm cho Buckley trở nên bồn chồn đến mức, ngay lúc này đây, ông ta không có cách chi thư giãn nổi. Noose tôn trọng anh ta vì anh ta không để cho Ngài dọa nạt. Các bồi thẩm bị sốc, nhưng anh ta đã đánh thức họ dậy và nói với họ một cách khá sỗ sàng rằng đây là một trận chiến. Một nước đi thông minh.”
“Ừ, tôi cũng nghĩ vậy.”
“Nó chẳng làm hại gì chúng ta. Những người phụ nữ đó đang muốn giành thiện cảm, nhưng Jake lại nhắc nhở bồi thẩm đoàn về những gì các cậu con ngọt ngào của họ đã làm trước khi chết.”
“Lũ đê tiện.”
“Nếu có sự oán ghét nào từ bồi thẩm đoàn thì họ sẽ quên đi vào lúc nhân chứng cuối cùng tuyên thệ.”
“Jake cũng hay nhỉ?”
“Anh ta giỏi đấy. Rất giỏi. Anh là người giỏi nhất tôi từng gặp ở tuổi của anh ta.”
“Đợi đến phát biểu bế mạc đã. Tôi đã nghe vài cuộc. Anh ta có thể lấy được thiện cảm từ những người khắt khe nhất.”
Jake trở lại và rót một ít margarita. Chỉ một ly rất nhỏ thôi để làm dịu thần kinh. Harry Rex thì uống như một thủy thủ.
Sau bữa trưa, Ozzie là nhân chứng đầu tiên của Công tố. Buckley đã lập ra một bản sơ đồ nhiều màu sắc, thể hiện tầng một và tầng hai của tòa án, và tựu chung nó vạch lại những di chuyển chính xác cuối cùng của Cobb và Willard.
Rồi sau đó Buckley đã soạn ra một bộ mười tấm ảnh 16 x 24 chụp cảnh Cobb và Willard vừa chết trên cầu thang. Các tấm ảnh trông kinh tởm. Jake từng xem nhiều ảnh chụp xác chết, và mặc dù chẳng có tấm ảnh nào là đặc biệt dễ nhìn xét theo bản chất của chúng, một số tấm trông cũng không đến nỗi quá tệ. Trong một vụ như thế này, nạn nhân đã bị bắn vào tim bởi một khẩu súng ngắn.357 và đơn giản đã lăn ra chết ở hàng hiên nhà mình. Đó là một ông già cao to, vạm vỡ, và viên đạn đã không bao giờ tìm được đường ra khỏi cái xác của ông. Do đó không có máu, chỉ có một lỗ nhỏ trên áo khoác của ông, rồi một lỗ nhỏ bị bít ở ngực. Trông ông như đang ngủ thiếp đi rồi ngã lăn quay, hay qua đời trong lúc say xỉn ngoài hàng hiên, kiểu như Lucien vậy. Đó chẳng phải là một khung cảnh ngoạn mục gì, và Buckley cũng không mấy hãnh diện về chúng. Chúng không được phóng lớn. Ông sẽ chỉ trao những tấm ảnh chụp lấy liền nhỏ cho bồi thẩm đoàn, và trông ông có vẻ ghê tởm vì chúng sạch sẽ đến thế.
Nhưng hầu hết các tấm ảnh người bị giết đều trông rùng rợn, khiến ta muốn ói mửa: máu bắn lên tường, trên trần nhà; những phần cơ thể bay tự do và vương vãi khắp nơi. Những tấm ảnh kiểu này sẽ luôn được Buckley phóng to và đưa thành bằng chứng với sự phô trương ầm ĩ, rồi được ông vung vẩy quanh phòng xử khi ông và nhân chứng mô tả lại khung cảnh trong các tấm ảnh. Cuối cùng, khi các bồi thẩm đã xôn xao vì tò mò, Buckley sẽ lễ phép xin thẩm phán được trình chúng ra cho các bồi thẩm xem, và thẩm phán sẽ luôn luôn chấp thuận. Rồi Buckley và mọi người khác sẽ quan sát thật kỹ khuôn mặt họ khi họ bị sốc, khi họ kinh hoàng, và thỉnh thoảng khi họ nôn mửa. Jake kỳ thực đã từng thấy hai bồi thẩm nôn mửa khi được trao các tấm ảnh một thi thể bị xả một cách tồi tệ.
Những tấm ảnh có tính gây tổn hại và khích động cũng chính là những tấm có khả năng cao được chấp nhận. “Có tính chứng cứ,” đó là thuật ngữ mà Tòa Thượng Thẩm sử dụng. Những tấm ảnh này có thể “trợ giúp bồi thẩm đoàn”, theo như những quyết định đã chín mươi tuổi của Tòa án. Ở Mississippi đã có sự thiết lập vững chắc rằng những tấm ảnh giết người luôn luôn được chấp nhận, bất kể tác động của chúng lên bồi thẩm đoàn có là như thế nào. Jake đã xem các tấm ảnh chụp Cobb và Willard từ nhiều tuần trước. Anh đã gửi lời phản đối chuẩn và đã nhận lời từ chối chuẩn.
Những tấm ảnh này được gắn một cách chuyên nghiệp lên một tấm bảng nặng, điều mà vị D.A. đã không làm trước đây. Ông trao tấm đầu tiên cho Reba Betts trong khoang bồi thẩm. Đó là tấm chụp cận cảnh đầu và óc của Willard.
“Chúa ơi!” bà hổn hển và đẩy nó sang người bồi thẩm bên cạnh, người này kinh hoàng trố mắt nhìn rồi chuyền nó đi tiếp. Họ trao tay cho nhau rồi trao cho các bồi thẩm thay thế. Buckley thu hồi lại rồi đưa cho Reba tấm kế tiếp. Thủ tục này tiếp diễn trong ba mươi phút, cho đến khi toàn bộ các tấm ảnh trở về tay vị D.A. Sau đó ông cầm lên khẩu M-16, đẩy về hướng Ozzie. “Ông có nhận ra được khẩu súng này không?”
“Có, đó là vũ khí được tìm thấy ở hiện trường.”
“Ai là người thu nhặt nó ở hiện trường?”
“Là tôi.”
“Và ông đã làm gì với nó?”
“Gói nó vào một túi nhựa rồi bỏ vào trong hầm kho của nhà giam. Khóa cửa hầm lại cho đến khi tôi trao nó cho ông Laird ở phòng thí nghiệm hình sự tại Jackson.”
“Thưa Ngài, Công tố đề nghị đưa món vũ khí này, vật chứng S-13, thành tang chứng,” Buckley nói, lắc dữ dội khẩu súng.
“Không phản đối” Jake nói.
“Chúng tôi không còn gì để hỏi nhân chứng,” Buckley tuyên bố.
“Có thẩm vấn chéo không?”
Jake lật giở các ghi chép của anh sau khi chầm chậm bước đến bục diễn thuyết. Anh chỉ có vài câu hỏi cho người bạn của mình. “Cảnh sát trưởng, có phải ông là người đã bắt Billy Ray Cobb và Pete Willard?”.
Buckley đẩy ghế ra sau, đặt bộ khung khủng của ông lên mép ghế ở tư thế sẵn sàng nhảy dựng lên nếu cần.
“Phải, là tôi bắt,” ông cảnh sát trưởng nói.
“Vì lý do gì?”
“Vì vụ cưỡng hiếp Tonya Hailey,” ông trả lời hoàn hảo.
“Và cô bé bao nhiêu tuổi vào lúc bị Cobb và Willard cưỡng hiếp?”
“Cô bé mười tuổi.”
“Cảnh sát trưởng, có đúng là Pete Willard đã ký vào bản nhận tội viết tay của hắn ở…”
“Phản đối! Phản đối! Ngài! Như vậy là không thể chấp nhận và ông Brigance biết điều đó.”
Ozzie gật đầu xác nhận bất chấp lời phản đối.
“Chấp nhận phản đối.”
Buckley đang run rẩy. “Tôi yêu cầu xóa câu hỏi trong phần ghi chép của tòa và dặn bồi thẩm đoàn miễn chấp.”
“Tôi rút lại câu hỏi này,” Jake nói với Buckley cùng một nụ cười.
“Xin vui lòng miễn chấp câu hỏi này của ông Brigance,” Noose căn dặn bồi thẩm đoàn.
“Không còn câu hỏi nào khác,” Jake nói.
“Có hỏi gì thêm không, ông Buckley?”
“Không, thưa ông.”
“Rất tốt. Cảnh sát trưởng, ông có thể bước xuống được rồi.”
Nhân chứng kế tiếp của Buckley là người lấy dấu vân tay đến từ Washington. Ông này dành hẳn một giờ để nói với bồi thẩm đoàn những gì ông ta biết từ nhiều tuần qua. Kết luận kịch tính cuối cùng của ông đã liên kết một cách không thể nhầm lẫn dấu vân tay trên khẩu M-16 với dấu vân tay của Carl Lee Hailey. Rồi đến chuyên gia đạn đạo từ phòng thí nghiệm hình sự của bang, người mà lời tuyên thệ cũng nhàm chán và tẻ nhạt như người tuyên thệ trước ông trên bục nhân chứng. Phải, không nghi ngờ gì nữa, các mảnh đạn tìm thấy ở hiện trường được bắn ra từ chính khẩu M-16 đang nằm trên bàn. Đó là ý kiến sau cùng của ông và, với những sơ đồ và biểu đồ, nó lấy đi của Buckley một tiếng đồng hồ để đưa nó đến bồi thẩm đoàn. Sự hủy diệt của bên nguyên, Jake gọi vậy; một sự nhu nhược mà tất cả mọi công tố viên đều mắc phải.
Bên bị không có câu hỏi nào cho cả hai chuyên gia, và vào lúc năm giờ ba mươi Noose nói lời tạm biệt với các bồi thẩm với lời căn dặn nghiêm ngặt không được thảo luận về vụ việc. Họ lễ phép gật đầu khi xếp hàng rời phòng xử. Noose giọng chiếc búa của ông và dời phiên xử đến chín giờ sáng hôm sau.